Yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo
2.4.1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cầm quyền
Sự lãnh đạo đúng đắn của chính đảng cầm quyền đóng vai trò quyết
định đối với sự thành công, hiệu quả của công tác tôn giáo bởi quan điểm
của đảng cầm quyền về xây dựng nhà nước trong mối quan hệ giữa nhà
nước với tôn giáo quyết định hình thức nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước
và cả hệ thống pháp luật v.v. Hiện nay trên thế giới, trong mối quan hệ
với tôn giáo, có 03 mô hình cơ bản là nhà nước thống nhất với tôn giáo,
nhà nước có quốc giáo và nhà nước thế tục. Trong mỗi mô hình nhà nước,
có hình thức tổ chức quản lý khác nhau đối với hoạt động tôn giáo. Ở Việt
Nam, Đảng luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước thể chế hóa chủ trương tự do tôn
giáo của Đảng và triển khai thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Qua đó,
hướng dẫn, điều chỉnh, tạo điều kiện cho tổ chức tôn giáo hoạt động theo
truyền thống văn hóa, hiến chương, điều lệ và quy định pháp luật.
2.4.2. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tồn tại xã hội quyết định
ý thức xã hội mà tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Do đó, một khi
thay đổi được điều kiện sống của tín đồ tôn giáo theo hướng tích cực, thì
cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của tôn giáo không còn phát huy tác
dụng của nó, đồng thời những tiêu cực trong hoạt động tôn giáo cũng dần
mất đi và ngược lại. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa, lịch sử hình thành và
phát triển của cộng đồng người, bao gồm cả vấn đề đoàn kết hoặc mâu
thuẫn tôn giáo, dân tộc hoặc những vấn đề chính trị liên quan đến tôn giáo
trong lịch sử cũng có những tác động nhất định đối với mối quan hệ giữa
tôn giáo và cộng đồng, nhà nước; đồng thời, cùng với nền kinh tế thị
trường, việc giao lưu, hội nhập về kinh tế, văn hóa, quản lý giữa các quốc
gia trên thế giới cũng có những tác động lớn đến quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo.12
2.4.3. Sự phát triển về giáo dục, khoa học và công nghệ
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, con người đã mạnh dạn khước
từ niềm tin mù quáng, hoạt động tôn giáo mang tính mê muội, phi lý. Đồng
thời, một số tôn giáo nhận thấy sự cần thiết phải thích nghi và sử dụng
những thành tựu khoa học như một công cụ quan trọng hoạt động tôn giáo.
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng có những tác
động tích cực đến công tác quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo, đặc biệt ở phương thức, hiệu quả quản lý. Tuy nhiên, sự phát triển
khoa học - công nghệ cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường làm
cho quá trình cạnh tranh kinh tế, môi trường ngày càng khóc liệt, sự phân
cực giàu nghèo, bất bình đẳng ngày càng sâu sắc dẫn đến sự bất an, mất
niềm tin vào cuộc sống hiện tại, đó là cơ sở tiếp tục duy trì sự tồn tại của
tôn giáo ở một bộ phận người dân. Bên cạnh đó, thông qua các phương
tiện truyền thông hiện đại các dịch vụ giải trí - xã hội đã có những tác
động lớn đến đời sống tôn giáo. Đặc biệt, một số đối tượng, tổ chức tôn
giáo lợi dụng công nghệ để tuyên truyền, phát tán tài liệu có nội dung
không phù hợp
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 524 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo vùng đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác công trình nghiên
cứu có liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Thứ nhất, tuy có một số công trình nghiên cứu lý luận quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo nhưng chưa đi sâu vào các chuyên đề hẹp;
đặc biệt là lý luận về hoạt động tôn giáo, luận giải sự cần thiết và hoàn
chỉnh nội dung, yêu cầu của hoạt động quản lý, những yếu tố có ảnh hưởng
đến quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Thứ hai, do chưa tiếp cận từ góc độ khoa học quản lý, một số công
trình nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo chưa phân
tích sâu thực trạng, giải pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
mà chỉ phân tích khái quát theo giới hạn của góc độ tiếp cận.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu về vấn đề tôn giáo khu vực đồng
bằng sông Cửu Long chủ yếu phân tích về văn hóa, triết lý nhân sinh và
những ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống tinh thần người dân.
Tóm lại, nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
vùng đồng bằng sông Cửu Long còn chưa nhiều công trình nghiên cứu
dưới góc độ khoa học quản lý, đặc biệt là chưa có công trình chuyên khảo
hay luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề này.
1.4.3. Hướng nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phân tích những công trình nghiên cứu có liên quan đến
luận án, nghiên cứu sinh tiếp cận đề tài luận án theo góc độ sau:
Thứ nhất, tiếp cận đề tài luận án dưới góc độ của khoa học quản lý
công để nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện cơ sở khoa học quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo.
Thứ hai, nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
trong điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Đặc biệt là, phân tích, đánh giá toàn diện về quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo vùng đồng bằng sông Cửu Long, chỉ ra những thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận.
Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất giải pháp mới, khả thi góp phần hoàn
thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
9
Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
2.1. Những khái niệm cơ bản
2.1.1. Khái niệm tín ngưỡng
Tín ngưỡng là một hiện tượng tinh thần thể hiện niềm tin, ngưỡng
mộ, thờ phụng của con người đối với thần linh, đây là nguồn gốc của mọi
tôn giáo. Ngày nay, tín ngưỡng có thể phân ra thành hai loại cơ bản là tín
ngưỡng dân gian và tín ngưỡng tôn giáo.
Tín ngưỡng dân gian là: "niềm tin mang tính thiêng liêng, ca ngợi về
những biểu tượng, giá trị văn hóa tích cực, đạo đức cao đẹp, đặc biệt là
lòng biết ơn của người đi sau đối với người đi trước, của nhân dân đối với
những vị anh hùng".
Tín ngưỡng tôn giáo là: "niềm tin mang tính thiêng liêng của con
người đối với đối tượng được sùng bái cụ thể, được thể hiện thông qua
những nghi lễ gắn liền với tôn giáo, biểu tượng tôn giáo".
2.1.2. Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh một cách hư ảo,
siêu thực thế giới khách quan, thể hiện niềm tin, tín ngưỡng của con người
đối với một hay nhiều thần linh bằng hệ thống lễ nghi thực hiện sự sùng
bái đó; trong đó, tín ngưỡng là cốt lõi, tinh thần của tôn giáo; đồng thời,
hình thái ý thức xã hội này thể hiện sự tồn tại của nó bằng các thực thể xã
hội gồm giáo hội, giáo lý, giáo sĩ, giáo dân. Do đó, tôn giáo là sản phẩm
của con người, là một phạm trù mang tính lịch sử, cũng là nhu cầu tâm
linh của một bộ phận đông đảo nhân dân.
2.1.3. Khái niệm hoạt động tôn giáo
Hoạt động tôn giáo là hình thức thể hiện sự tồn tại của tôn giáo; có
rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về hoạt động tôn giáo, dưới góc độ khoa
học quản lý, hoạt động tôn giáo là “tổng thể các hoạt động cụ thể của tôn
giáo, bao gồm hoạt động truyền giáo, xây dựng tổ chức giáo hội, tổ chức
sinh hoạt tôn giáo - lễ hội, quản lý cơ sở vật chất, đào tạo - bồi dưỡng
chức sắc, các hoạt động xã hội của tôn giáo”. Ngoài ra, liên quan đến hoạt
động tôn giáo còn có các khái niệm: tín đồ, nhà tu hành, chức việc, chức
sắc, cơ sở thờ tự, đồ dùng việc đạo, các cơ sở vật chất của tôn giáo v.v...
2.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Dưới góc độ của khoa học quản lý công, quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo là vấn đề quản lý xã hội của nhà nước, là quá trình chấp
hành, điều hành của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến hoạt động tôn
giáo từ trung ương đến cơ sở để hoạt động tôn giáo diễn ra theo quy định
của pháp luật, vừa góp phần thỏa mãn nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng,
10
tôn giáo của một bộ phận nhân dân vừa bảo đảm trật tự và an toàn xã hội.
2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo
Tự do tín ngưỡng tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con
người được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng với sự tham
gia của nhiều quốc gia. Trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948, Điều 18
xác định “Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và
tôn giáo. Quyền này bao gồm việc tự do thay đổi tín ngưỡng hay tôn giáo
của mình” [129,tr.11]. Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là
một trong những quyền cơ bản của con người, được Đảng và Nhà nước tôn
trọng. Tuy nhiên, tôn giáo và tự do tín ngưỡng tôn giáo là một vấn đề phức
tạp xuất phát từ bản chất, chức năng của tôn giáo đối với đời sống xã hội:
(1) tôn giáo tham gia vào chính trị, (2) tôn giáo mang lại con người niềm
tin mù quáng, siêu thực, (3) tôn giáo mang tính bảo thủ và sức ỳ lớn làm
cản trở sự phát triển của xã hội loài người. Bên cạnh đó, tôn giáo có những
giá trị tích cực nhất định, phản ánh khát vọng của con người trước hiện
thực cuộc sống khắc nghiệt, hướng đến những giá trị chung của nhân loại
là tinh thần đoàn kết, yêu thương, công bằng, v.v Do đó, nhà nước cần
thiết phải quản lý hoạt động tôn giáo nhằm phát huy những mặt tích cực,
hạn chế những mặt tiêu cực của tôn giáo, vừa đảm bảo an ninh, ổn định của
đất nước vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận nhân
dân, hướng đến những giá trị chung của nhân loại vì quyền con người.
Trong đó, nhà nước vận dụng linh hoạt tổng thể nhiều phương pháp trong
từng hoàn cảnh để định hướng, hỗ trợ, điều chỉnh hoạt động tôn giáo như
vận động, thuyết phục, hành chính, cưỡng chế, tổ chức, kinh tế v.v...
2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện thể chế, chính sách quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phù hợp với tình hình thực tế, theo
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp và các điều ước quốc
tế mà Việt Nam tham gia, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của
mọi chủ thể trong xã hội trong đó có hoạt động của các tôn giáo.
Xây dựng tổ chức bộ máy quản lý đối với hoạt động tôn giáo với sự
rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế phối hợp chặt chẽ
giữa các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, hoạt động thông suốt, hiệu quả
theo đúng pháp luật.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu về bản lĩnh
chính trị, kiến thức chuyên môn của hoạt động quản lý, kiến thức về tôn
giáo, ý thức trách nhiệm và có các kỹ năng cần thiết.
Tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo hiểu và
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
11
nước; qua đó, cổ vũ, động viên chức sắc, chức việc, tín đồ và toàn dân
đoàn kết, tham gia các phong trào hành động vì sự phát triển, tiến bộ của
địa phương, đất nước.
Hợp tác quốc tế trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;
trong đó, tập trung nghiên cứu khoa học quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực lĩnh vực quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo và trao đổi thông tin về những vấn đề có
liên quản hoạt động tôn giáo.
Thanh tra, kiểm tra công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo nhằm chủ động phát hiện, phát huy yếu tố tích cực, kịp thời hạn chế
những sai lầm, yếu kém trong hoạt động tôn giáo, quản lý hoạt động tôn giáo.
2.4. Yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo
2.4.1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cầm quyền
Sự lãnh đạo đúng đắn của chính đảng cầm quyền đóng vai trò quyết
định đối với sự thành công, hiệu quả của công tác tôn giáo bởi quan điểm
của đảng cầm quyền về xây dựng nhà nước trong mối quan hệ giữa nhà
nước với tôn giáo quyết định hình thức nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước
và cả hệ thống pháp luật v.v.... Hiện nay trên thế giới, trong mối quan hệ
với tôn giáo, có 03 mô hình cơ bản là nhà nước thống nhất với tôn giáo,
nhà nước có quốc giáo và nhà nước thế tục. Trong mỗi mô hình nhà nước,
có hình thức tổ chức quản lý khác nhau đối với hoạt động tôn giáo. Ở Việt
Nam, Đảng luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước thể chế hóa chủ trương tự do tôn
giáo của Đảng và triển khai thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Qua đó,
hướng dẫn, điều chỉnh, tạo điều kiện cho tổ chức tôn giáo hoạt động theo
truyền thống văn hóa, hiến chương, điều lệ và quy định pháp luật.
2.4.2. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tồn tại xã hội quyết định
ý thức xã hội mà tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Do đó, một khi
thay đổi được điều kiện sống của tín đồ tôn giáo theo hướng tích cực, thì
cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của tôn giáo không còn phát huy tác
dụng của nó, đồng thời những tiêu cực trong hoạt động tôn giáo cũng dần
mất đi và ngược lại. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa, lịch sử hình thành và
phát triển của cộng đồng người, bao gồm cả vấn đề đoàn kết hoặc mâu
thuẫn tôn giáo, dân tộc hoặc những vấn đề chính trị liên quan đến tôn giáo
trong lịch sử cũng có những tác động nhất định đối với mối quan hệ giữa
tôn giáo và cộng đồng, nhà nước; đồng thời, cùng với nền kinh tế thị
trường, việc giao lưu, hội nhập về kinh tế, văn hóa, quản lý giữa các quốc
gia trên thế giới cũng có những tác động lớn đến quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo.
12
2.4.3. Sự phát triển về giáo dục, khoa học và công nghệ
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, con người đã mạnh dạn khước
từ niềm tin mù quáng, hoạt động tôn giáo mang tính mê muội, phi lý. Đồng
thời, một số tôn giáo nhận thấy sự cần thiết phải thích nghi và sử dụng
những thành tựu khoa học như một công cụ quan trọng hoạt động tôn giáo.
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng có những tác
động tích cực đến công tác quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo, đặc biệt ở phương thức, hiệu quả quản lý. Tuy nhiên, sự phát triển
khoa học - công nghệ cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường làm
cho quá trình cạnh tranh kinh tế, môi trường ngày càng khóc liệt, sự phân
cực giàu nghèo, bất bình đẳng ngày càng sâu sắc dẫn đến sự bất an, mất
niềm tin vào cuộc sống hiện tại, đó là cơ sở tiếp tục duy trì sự tồn tại của
tôn giáo ở một bộ phận người dân. Bên cạnh đó, thông qua các phương
tiện truyền thông hiện đại các dịch vụ giải trí - xã hội đã có những tác
động lớn đến đời sống tôn giáo. Đặc biệt, một số đối tượng, tổ chức tôn
giáo lợi dụng công nghệ để tuyên truyền, phát tán tài liệu có nội dung
không phù hợp.
2.4.4. Mối quan hệ phức tạp giữa tôn giáo và dân tộc (tộc người)
Giữa tôn giáo và dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong
dân tộc có chứa đựng yếu tố tôn giáo và trong tôn giáo chứa đựng yếu tố
dân tộc. Đặc biệt, ở một số dân tộc, văn hóa dân tộc cũng đồng thời là văn
hóa tôn giáo, cơ sở thờ tự đóng vai trò là trung tâm sinh hoạt văn hóa dân
tộc, đây là vấn đề đặc biệt nhạy cảm. Về lý thuyết, vấn đề dân tộc và tôn
giáo có khách thể quản lý khác nhau, nội dung, phương thức quản lý khác
nhau nhưng xét về thực tế, giữa chúng có mối quan hệ giao thoa, tương tác
mật thiết với nhau, để giải quyết hiệu quả vấn đề tôn giáo phải đồng thời
giải quyết tốt vấn đề dân tộc và ngược lại.
2.4.5. Hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
Xuất phát từ những đặc thù về lịch sử - xã hội và vai trò của tôn giáo
đối với đời sống xã hội, hoạt động tín ngưỡng tôn giáo dễ bị lợi dụng vào
mục tiêu ngoài tôn giáo, đây là vấn đề gay gắt trên phạm vi toàn cầu, có
ảnh hưởng lớn đến an ninh, trật tự và quyền tự quyết của dân tộc. Một số tổ
chức, cá nhân cực đoan tập trung lợi dụng tôn giáo để kích động bạo lực,
chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, thậm chí bạo loạn lật đổ chính quyền với
tính chất ngày càng phức tạp.
2.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
2.5.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
một số quốc gia
Qua nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Nhật Bản, Singapore và Vương quốc Thái Lan, có thể rút ra một số
bài học kinh nghiệm như sau:
13
Thứ nhất, xác định rõ chủ thể, đối tượng quản lý phù hợp với đặc thù
từng tôn giáo. Đồng thời, không ngừng hoàn thiện nội dung, phương pháp
quản lý trọng tâm là phân cấp, phân quyền mạnh mẽ cho địa phương và
phát huy vai trò tự quản của tổ chức tôn giáo, giám sát của người dân.
Hai là, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người dân; trong đó,
bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các tôn giáo và duy trì sự hài hòa, đoàn
kết giữa các tôn giáo. Đặc biệt, quan tâm đến những vấn đề mang tính đặc
thù về dân tộc, văn hóa dân tộc có liên quan đến tôn giáo.
Thứ ba, linh hoạt, mềm dẻo trong thực hiện chính sách tôn giáo, đảm
bảo sự ổn định về chính trị xã hội trên cơ sở hòa hợp, thống nhất giữa các
tôn giáo, dân tộc nhưng cũng kiên quyết trước những vấn đề mang tính
nguyên tắc như độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước.
Thứ tư, tập hợp và phát huy vai trò của lãnh đạo tinh thần, người có
uy tín của các tôn giáo trong đóng góp xây dựng chính sách tôn giáo của
nhà nước đồng thời phản ánh những ý kiến, kiến nghị đối với cơ quan
quản lý.
2.5.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo tại
một số khu vực ở Việt Nam
Qua nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc, khu vực duyên hải Nam
Trung bộ có thể rút ra một số bài học như sau:
Một là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tạo sự đồng thuận và củng cố
khối đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước.
Hai là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, vị trí và cơ chế phối hợp
linh hoạt của các ngành, các cấp. Phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có
năng lực cao, phẩm chất đạo đức tốt.
Ba là, chủ động cụ thể hóa quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Bốn là, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh,
nhất là ở cơ sở; trong đó, coi trọng vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội. Đồng thời, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Năm là, huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư và phát
huy mạnh mẽ ý thức tự lực, tự vươn lên của đồng bào. Đặc biệt, chú ý phát
huy vai trò chức sắc, chức việc trong việc vận động tín đồ thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Sáu là, chủ động đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn kịp thời các
hoạt động lợi dụng tôn giáo vào mục tiêu ngoài tôn giáo. Bên cạnh đó,
luôn sẵn sàng ứng phó với những diễn biến bất lợi từ hoạt động lợi dụng
tôn giáo của các thế lực thù địch.
14
CHƯƠNG 3:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO VÙNG ĐỒNG BẰNG SỒNG CỬU LONG
3.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã
hội đồng bằng sông Cửu Long
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
Chính điều kiện tự nhiên đặc thù, địa hình đồi núi ở phía Tây - Nam
nằm liền kề với vùng đồng bằng mênh mông và giáp Vương quốc
Campuchia nên đã có những tác động rất lớn đến sự hình thành, phát triển
đời sống văn hóa - tinh thần người dân, nhất là đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo. Trong lịch sử, nhiều tôn giáo đã ra đời trên vùng đất này như: Phật
giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa v.v... Bên cạnh đó,
do giáp với Vương quốc Campuchia nên sự giao lưu, ảnh hưởng lẫn nhau
giữa tôn giáo của hai nước là dễ dàng và thường xuyên. Vấn đề này cũng
đòi hỏi ở công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo hiện nay
phải lưu ý đến những khu vực có đông đồng bào tôn giáo để hướng dẫn,
kiểm tra đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, không để bị
lợi dụng cho mục đích mê tín, chính trị; đặc biệt là quan tâm đến vấn đề có
ảnh hưởng đến hoạt động tôn giáo, những tác động chính trị của các thế
lực thù địch từ bên kia biên giới hay những biến động chính trị của các
quốc gia lân cận.
3.1.2. Điều kiện lịch sử, văn hóa
Đồng bằng sông Cửu Long có đời sống văn hóa, tín ngưỡng đa dạng,
đặc thù trên cơ sở giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Kinh - Khmer - Hoa -
Chăm. Cùng với những biến động của lịch sử, quá trình tiếp biến văn hóa,
đời sống văn hóa, tín ngưỡng vùng đất này thêm phần đa dạng, phức tạp;
đặc biệt là bởi nền văn hóa Âu - Mỹ và chính sách lợi dụng tôn giáo của
Mỹ - Nguỵ trong quá khứ. Sau khi giành được độc lập, quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo của nhân dân được Đảng, Nhà nước tôn trọng và ghi nhận
trong các văn bản pháp luật, cao nhất là Hiến pháp, được tập trung triển
khai thực hiện. Đời sống tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân tuy có nhiều
chuyển biến tích cực, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo được bảo đảm
nhưng hoạt động tôn giáo vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp.
3.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Trong lịch sử, đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn thuần nông với
trình độ sản xuất ở mức thấp. Đời sống người dân phục thuộc hoàn toàn
vào điều kiện tự nhiên. Ngày nay, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan
trọng nhưng đã có bước phát triển, cùng với sự phát triển của các yếu tố
giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế thị trường, nguồn lao động dồi
giào, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước. Bên
15
cạnh đó, tình hình kinh tế - xã hội khu vực, trong đó có hoạt động tôn giáo,
tín ngưỡng và lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức
tạp, khó lường do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch v.v...Tất cả những vấn đề đó đòi
hỏi quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo khu vực này phải cụ thể,
linh hoạt để phù hợp với từng điều kiện, đối tượng cụ thể.
3.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
vùng đồng bằng sông Cửu Long
3.2.1. Hệ thống chính sách, pháp luật quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo
Trên cơ sở hệ thống quan điểm Trung ương Đảng, đặc biệt là các
quan điểm được nêu trong Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX về "công tác
tôn giáo", Đảng bộ các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đã kịp thời
ban hành nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo về công tác tôn giáo, đưa chủ
trương, đường lối của Đảng vào triển khai thực tiễn ở địa phương. Đồng
thời, chính quyền các cấp trong vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng
nhanh chóng triển khai thực hiện văn bản của Chính phủ, Ban Tôn giáo
Chính phủ, Tỉnh uỷ bằng nhiều văn bản cụ thể, kịp thời đáp ứng nhu cầu,
nguyện vọng chính đáng của tín đồ các tôn giáo.
3.2.2. Tổ chức bộ máy và trình độ, năng lực của cán bộ, công chức
công tác tôn giáo
Hiện nay, Ủy ban nhân dân 13 tỉnh, thành phố đều đã ban hành
Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
của Ban Tôn giáo trực thuộc Sở Nội vụ. Hoạt động của các Ban Tôn giáo
đã ổn định và đi vào nề nếp. Bên cạnh đó, công tác tôn giáo còn có sự
tham gia, phối hợp của các ngành dân vận, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội, công an, quân sự v.v...
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo được tăng
cường. Hiện nay, đội ngũ công chức tham gia quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo trong vùng có 2.178 người, tăng 603 người (tăng 38%)
so với năm 2003. Về trình độ chuyên môn, số cán bộ có trình độ chuyên
môn từ Đại học trở lên 989 người (chiếm tỷ lệ 45,4%), cao hơn năm 2003
(249 người, chiếm 15,81%) gần 4 lần. Đến nay, đội ngũ cán bộ công chức
cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác.
3.2.3. Thực trạng công tác tuyên truyền vận động thực hiện chính
sách tôn giáo
Công tác tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn
giáo luôn được các cấp uỷ Đảng, chính quyền chỉ đạo thực hiện nghiêm
túc. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền vẫn còn một số hạn chế, chưa đạt yêu
cầu; trong đó, một bộ phận cán bộ nhận thức chưa đầy đủ và thống nhất về
công tác tôn giáo, ảnh hưởng việc cụ thể hóa, thực hiện. Một số địa
16
phương, đơn vị còn tư tưởng hạn chế hoạt động tôn giáo nhưng cũng có địa
phương, đơn vị buông lỏng quản lý, để đến khi phát sinh vi phạm thì mới
vào cuộc, v.v Bên cạnh đó, một bộ phận chức sắc, chức việc chưa thay
đổi thái độ tự ty, hiềm khích, cực đoan nên dễ bị lợi dụng.
3.2.4. Thực trạng hợp tác quốc tế trong quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo
Hàng năm, các tỉnh trong khu vực đều cử cán bộ, đề cử chức sắc các
tôn giáo tham gia các đoàn công tác của Ban Tôn giáo Chính phủ tham dự
hội nghị quốc tế. Tiếp và làm việc với nhiều đoàn của các tổ chức tôn giáo,
tổ chức phi chính phủ có liên quan đến tôn giáo. Tuy nhiên, mối quan hệ
phối hợp, hợp tác quốc tế trong quản lý hoạt động tôn giáo còn hạn chế,
chủ yếu thông qua cấp Trung ương.
3.2.5. Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Từ khi sát nhập cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
về ngành nội vụ thì công tác thanh tra kiểm tra gặp nhiều khó khăn do
thanh tra ngành Nội vụ không nắm hết được những đặc thù của công tác
tôn giáo. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra chủ yếu dừng lại ở kiểm tra để
chấp nhận hoạt động lễ hội, công nhận các di tích. Còn công tác thanh tra
kiểm tra hoạt động tôn giáo chỉ diễn ra trong nội bộ từng tôn giáo thông
qua các cấp hội như Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước, Mêkon, Ban trị sự giáo
hội Phật giáo Việt Nam v.v Theo đánh giá trong nội bộ công chức công
tác tôn giáo, có 67 ý kiến (chiếm 30,1%) cho rằng công tác thanh tra, kiểm
tra chỉ đạt mức chưa tốt hoặc trung bình. Hiện nay, công tác thanh tra,
kiểm tra hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo diễn ra
theo hai hướng.
3.2.6. Thực trạng công tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
về hoạt động tôn giáo
Về công nhận pháp nhân và xét duyệt chương trình hành đạo của tôn
giáo. Đến nay, Ban Tôn giáo đã tham mưu cho Ủy ban nhân dân các tỉnh
cấp đăng ký hoạt động cho 11 tổ chức tôn giáo, cấp đăng ký sinh hoạt cho
29 tổ chức tôn giáo nhưng chưa cấp đăng ký hoạt động. Bên cạnh đó, Sở
Nội vụ chủ động tham mưu Ủy ban nhân dân xét duyệt một số việc thuộc
hành chính đạo của các tôn giáo, tạo điều kiện cho chức sắc tôn giáo được
thuyên chuyển, bổ nhiệm; xét duyệt chương trình hành đạo thường xuyên
và đột xuất, hướng dẫn về mặt pháp lý để các tổ chức tôn giáo hoạt động
theo đúng pháp luật.
Về quản lý, đào tạo chức sắc, nhà tu hành. Hiện nay, trong vùng
đồng bằng sông Cửu Long có 10 cơ sở đào tạo của các tổ chức tôn giáo
với trên 500 học viên theo học mỗi năm. Các tổ chức tôn giáo bước đầu có
sự phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, quản lý
17
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo để xây dựng nội dung, chương trình
giảng dạy chức sắc, nhà tu hành. Đặc biệt, hình thức tu học được tổ chức
đa dạng, có cả ngắn hạn, dài hạn, trong nước, ngoài nước.
Về xét duyệt xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, từ năm 2003 đến năm
2016, Uỷ ban nhân dân các tỉnh đã xét duyệt, cho phép phục hồi lại 712 cơ
sở, xây mới 340 cơ sở thờ tự và 1.321 cơ sở trùng tu, sửa chữa. Tạm giao
đất cho nhiều cơ sở thờ tự để phục vụ việc đạo.
Về xét duyệt hoạt động từ thiện xã hội, với chính sách đoàn kết dân
tộc, phát huy tinh thần tương thân tương ái, các hoạt động từ thiện thuần
túy của cá nhân, tổ chức tôn giáo được khuyến khích phát triển. Trong đó,
giữa các cơ quan có liên quan như giáo dục đào tạo, lao động thương binh
và xã hội, y tế đã có sự phối hợp với nhau và với các tổ chức tôn giáo để
kịp thời huy động, sử dụng các nguồn lực xã hội góp phần phát triển kinh
tế - xã hội trong khu vực.
Về xét duyệt các hoạt động đối ngoại tôn giáo. Ban Tôn giáo tham
mưu cho Ủy ban nhân dân các tỉnh phối hợp tổ chức các sự kiện tôn giáo
lớn, xét duyệt các cuộc tiếp xúc giữa các tôn giáo trên địa bàn với các
đoàn khách mang danh nghĩa tôn giáo từ Thái Lan, Campuchia, Tòa thánh
Vatican v.v...
Về xử lý khiếu nại liên quan đến đất đai có nguồn gốc tôn giáo. Ban
Tôn giáo các tỉnh đã tham mưu Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh giải quyết
các khiếu nại của các tôn giáo, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực đất đai
giữ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_hoat_dong_ton_giao.pdf