Chương 2
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ
TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964
2.1. Tình hình thế giới và khu vực Nam Á sau Chiến tranh thế giớithứ hai
2.1.1. Chiến tranh lạnh và cuộc đối đầu hai cực Xô - Mỹ
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, những thay đổi căn bản về tương
quan lực lượng của cục diện thế giới đã dẫn tới sự hình thành nên Trật tự
hai cực với hai hệ thống chính trị - quân sự đối lập nhau trong quan hệ
quốc tế. Bối cảnh quốc tế ấy đã biến các nước thế giới thứ ba trở thành đối
tượng trực tiếp của cuộc chạy đua nhằm lắp đầy “khoảng trống quyền lực”,
chiếm giữ vị trí xung yếu và tạo ảnh hưởng giữa hai cường quốc Xô - Mỹ
nhằm lôi kéo các nước này về phía mình. Hơn nữa, Trật tự hai cực và
Chiến tranh lạnh cũng buộc các nước lớn có cách nhìn mới hơn về thuộc
địa, đặc biệt là những quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng, hoặc những
nơi mà phong trào giải phóng dân tộc do giai cấp tư sản lãnh đạo. Cả Liên
Xô và Mỹ đều nhận thức tầm quan trọng của khu vực Nam Á, đặc biệt là
Ấn Độ đối với thế giới nên có những chính sách đặc biệt với khu vực này.
27 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 559 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của cộng hòa Ấn Độ trong giai đoạn 1950 - 1964, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Jawaharlal Nerhu and India foreign’s policy; Sarvepalli Gopal
(1979) với cuốn Jawaharlal Nehru: A biograph, vol 2: 1947 - 1956 và
cuốn Jawaharlal Nehru: A biograph, vol 3: 1956 - 1964 (1984); Dharma
Kumar (1983) với cuốn The Cambridge economic history of India, Vol 2:
1757 - 1970; Trong các công trình này, các tác giả Tác giả đã nghiên
cứu sâu về chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng J. Nehru;
7xung đột Trung - Ấn năm 1962; vấn đề Kashmir; về chính sách quốc phòng
trước và sau năm 1962; thành tựu phát triển kinh tế trong các kế hoạch 5
năm; cuộc đời, sự nghiệp và vai trò của Thủ tướng J. Nehru trong việc củng
cố độc lập dân tộc, xây dựng Ấn Độ thành một quốc gia hiện đại trong hơn
một thập kỷ của nền Cộng hòa Trên cơ sở nguồn tài liệu này, tác giả tổng
hợp và lựa chọn các thông tin làm căn cứ nghiên cứu trong luận án.
Tài liệu nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu con đường củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ
được nhận diện qua các công trình nghiên cứu chuyên sâu của các học giả
trong nước trên nhiều khía cạnh khác nhau như: kinh tế, chính trị - hành
chính, ngoại giao, quốc phòng - an ninh. Tiêu biểu là một số công trình sau:
Phan Văn Ban chủ biên (1993), Thông báo khoa học: đặc san kỷ niệm 43
năm Quốc khánh nước Cộng hòa Ấn Độ; Đỗ Đức Định (1999) với cuốn 50
năm kinh tế Ấn Độ và Giáo trình kinh tế Ấn Độ (2010); Trần Thị Lý (2002)
với cuốn Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn Độ từ 1991 đến 2000
Ngoài ra, nghiên cứu về những khía cạnh cụ thể về bối cảnh lịch sử, chính
sách đối ngoại, những vấn đề phức tạp trong sự nghiệp củng cố độc lập của Ấn
Độ cũng được đề cập trong một số công trình tiêu biểu như: Võ Anh Tuấn
(1999) với cuốn Phong trào Không liên kết; Trần Văn Đào, Phan Doãn Nam
(2001) với cuốn Giáo trình Lịch sử quan hệ quốc tế 1945 - 1990; Nguyễn Công
Khanh (2001) với công trình Jawaharlal Nehru, tiểu sử và sự nghiệp; Trình
Mưu, Vũ Quang Vinh (đồng chủ biên) (2005) với cuốn Quan hệ quốc tế những
năm đầu thế kỷ XXI - vấn đề, sự kiện và quan điểm Bên cạnh đó, tác giả còn
tiếp cận nhiều công trình nghiên cứu khác liên quan đến đề tài trong các luận
án, luận văn đã được bảo vệ trong nước và các bài báo khoa học được đăng tải
trên các tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Ấn Độ và
châu Á, Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu quốc tế
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của các học giả trong cũng
như ngoài nước đề cập đến lịch sử Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964 từ nhiều
góc độ và quan điểm tiếp cận khác nhau, những tất cả nhằm đi đến khái
8quát hoặc làm rõ từng vấn đề cụ thể trên các lĩnh vực của đất nước Ấn Độ.
Điểm qua các công trình nghiên cứu, về cơ bản, các nhà khoa học đã giải
quyết những vấn đề sau:
- Lịch sử hình thành và phát triển của Ấn Độ qua các thời kỳ cụ thể;
những đặc trưng về văn hóa, ngôn ngữ, tộc người, tôn giáo, truyền thống,
bản sắc dân tộc.
- Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với các nước ở khu vực và các
nước lớn trên thế giới (Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc).
- Những vấn đề trong sự phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
quốc phòng - an ninh để củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ.
- Cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của “kiến trúc sư” đất nước Ấn Độ -
Thủ tướng Jawaharlal Nehru.
Trên cơ sở nguồn tài liệu là thành quả nghiên cứu của các nhà khoa
học đi trước mà chúng tôi tiếp cận trên, tuy đa dạng và phong phú, đề cập
đến hầu hết các vấn đề về lịch sử phát triển của Ấn Độ ở những giai đoạn
khác nhau, nhưng nhìn chung, tại Việt Nam vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu, mang tính hệ thống về sự nghiệp củng cố độc lập
dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ trong thời kỳ từ năm 1950 đến 1964 với bối
cảnh phức tạp thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu,
đánh giá về cách thức củng cố độc lập dân tộc Ấn Độ trong thời kỳ này
vẫn ít được đề cập trong các công trình nêu trên.
1.2. Những vấn đề chưa được giải quyết nhìn từ phía Việt Nam
Một là, mặc dù việc nghiên cứu về Ấn Độ đã thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước với nhiều công trình đã được công
bố, đề cập đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, hoàn thiện nền
chính trị - hành chính quốc gia, củng cố quốc phòng - an ninh, nền ngoại
giao đặc thù của Ấn Độ... kể từ khi nước này bước vào thời kỳ xây dựng
nền Cộng hòa. Tuy nhiên, qua tìm hiểu những nguồn tài liệu nêu trên,
chúng tôi nhận thấy, các công trình này chủ yếu được phân tích đơn lẻ,
chưa đặt chúng trong tổng thể chính sách phát triển quốc gia cũng như
trong sự biến đổi bên trong và bên ngoài Ấn Độ.
9Hai là, một số công trình chỉ trình bày một cách khái quát về lịch sử
phát triển của đất nước Ấn Độ nói chung, quá trình ra đời và phát triển của
Ấn Độ từ năm 1947 đến nay; hoặc chỉ đi sâu tìm hiểu, phân tích, đưa ra
nhận định trên một vấn đề cụ thể như: về hoạt động của Đảng Quốc đại,
chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong từng thời kỳ, về tình hình chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng an ninh Trong khi đó,
còn một số vấn đề chưa làm sáng tỏ như: những thành công và hạn chế,
đánh giá về vai trò của Thủ tướng J. Nehru, đặc điểm, cách thức, bài học
kinh nghiệm của sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Ấn Độ giai đoạn
1950 - 1964 trong mối quan hệ biện chứng với xu hướng chung của tình
hình thế giới thời kỳ Chiến tranh lạnh Do vậy, cần phải làm rõ hơn về
những vấn đề trên, góp phần cung cấp cứ liệu khoa học, làm rõ hơn một
thời kỳ lịch sử đặc biệt ở Ấn Độ - kỷ nguyên J. Nehru.
Xuất phát từ yêu cầu này, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài với hy vọng
nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề đặt ra trên cơ sở các công trình
của các nhà khoa học đi trước. Đó là nguồn tư liệu có ý nghĩa, gợi mở để
chúng tôi hình thành và là những tư liệu quý có giá trị tham khảo trong việc
triển khai thực hiện đề tài.
1.3. Những vấn đề luận án tập trung làm rõ
Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi
trước, luận án tập trung làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
Một là, phân tích bối cảnh trong nước, khu vực, và thế giới tác động đến sự
nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964.
Hai là, làm rõ các nội dung những chính sách cơ bản và quá trình thực
hiện nó trong giai đoạn 1950 - 1964 để củng cố độc lập dân tộc của Chính
phủ Ấn Độ mà đứng đầu là Thủ tướng J. Nehru.
Ba là, đánh giá thành công và hạn chế trong sự nghiệp củng cố độc lập
dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ giai đoạn 1950 - 1964, từ đó rút ra một số
đặc điểm cũng như những kinh nghiệm của quá trình này đối với các nước
đang phát triển.
10
Chương 2
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ
TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964
2.1. Tình hình thế giới và khu vực Nam Á sau Chiến tranh thế giới
thứ hai
2.1.1. Chiến tranh lạnh và cuộc đối đầu hai cực Xô - Mỹ
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, những thay đổi căn bản về tương
quan lực lượng của cục diện thế giới đã dẫn tới sự hình thành nên Trật tự
hai cực với hai hệ thống chính trị - quân sự đối lập nhau trong quan hệ
quốc tế. Bối cảnh quốc tế ấy đã biến các nước thế giới thứ ba trở thành đối
tượng trực tiếp của cuộc chạy đua nhằm lắp đầy “khoảng trống quyền lực”,
chiếm giữ vị trí xung yếu và tạo ảnh hưởng giữa hai cường quốc Xô - Mỹ
nhằm lôi kéo các nước này về phía mình. Hơn nữa, Trật tự hai cực và
Chiến tranh lạnh cũng buộc các nước lớn có cách nhìn mới hơn về thuộc
địa, đặc biệt là những quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng, hoặc những
nơi mà phong trào giải phóng dân tộc do giai cấp tư sản lãnh đạo. Cả Liên
Xô và Mỹ đều nhận thức tầm quan trọng của khu vực Nam Á, đặc biệt là
Ấn Độ đối với thế giới nên có những chính sách đặc biệt với khu vực này.
2.1.2. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc,
độc lập dân tộc
Sau năm 1945, phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ, phát triển và đạt
được những thành tựu chưa từng có cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tấn công vào
chủ nghĩa thực dân cũ và mới, làm sụp đổ hệ thống thuộc địa vốn đã được
thiết lập từ nhiều thế kỷ, tạo ra sự thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho
phong trào cách mạng, tiến bộ trên thế giới. Trong dòng chảy chung của
công cuộc kiến thiết đất nước sau độc lập của các quốc gia đang phát triển,
sau khi đạt được quyền tự trị và bắt tay vào công cuộc xây dựng, củng cố nền
Cộng hòa, Chính phủ Ấn Độ đã nỗ lực tìm kiếm những giải pháp, chiến lược
phát triển đất nước, chủ động điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thực
tiễn đặt ra, đưa đất nước đi tới sự ổn định và phát triển.
11
2.1.3. Tình hình khu vực Nam Á
Do vị trí chiến lược quan trọng của khu vực, sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, tình hình Nam Á cũng không nằm ngoài những toan tính chiến
lược của các cường quốc, đặc biệt là Anh, Mỹ, Liên Xô và phần nào là
Trung Quốc. Với bản chất của mình, thực dân Anh không dễ gì từ bỏ mọi
quyền lợi ở khu vực Nam Á, đặc biệt là Ấn Độ. Anh thực hiện ở đây chính
sách “đi mà ở”, “chia để trị”, đưa ra một phương án lập lờ, không rõ ràng
về chủ quyền đối với Kashmir, kích động Ấn Độ và Pakistan tranh chấp
nhau để mưu lợi ích riêng. Về phía Mỹ, Nam Á là một trong những địa bàn
địa chiến lược đặc biệt quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm
ngăn chặn sự mở rộng chủ nghĩa cộng sản. Về phía Liên Xô, trước những
biến động to lớn của thế giới, Liên Xô đã tìm đến với các nước thuộc thế
giới thứ ba, ủng hộ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc và nền dân chủ
nơi đây, gia tăng ảnh hưởng chủ nghĩa cộng sản.
2.2. Tình hình Ấn Độ sau khi được tự trị
2.2.1. Kế hoạch Mountbatten và sự chia cắt Ấn Độ
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, từ kết quả đấu tranh của nhân dân Ấn
Độ, thực dân Anh đã phải lo lắng và tự nhận thấy rằng khó có thể giữ vững
được địa vị thống trị của mình ở Ấn Độ như trước. Ngày 15/8/1947, “Kế
hoạch Mountbatten” với tư cách là “Đạo luật về nền độc lập của Ấn Độ”
được Nghị viện Anh biểu quyết thông qua, đánh dấu sự ra đời quốc gia Ấn
Độ tự trị. Kế hoạch Mountbatten không phải là một thắng lợi trọn vẹn của
Ấn Độ và cũng chưa hẳn là sự thất bại hoàn toàn của người Anh ở thuộc địa
béo bở này. Kế hoạch đó đã chia cắt Ấn Độ thành hai nhà nước Ấn Độ và
Pakistan trên cơ sở tôn giáo. Nó không phản ánh được nguyện vọng của nhân
dân Ấn Độ, chính vì thế đã để lại những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là
vấn đề Kashmir đến tận ngày nay vẫn chưa tìm được lối ra.
2.2.2. Đấu tranh bước đầu trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại
giao của quốc gia Ấn Độ tự trị (1947 - 1950)
Sau khi giành độc lập về chính trị, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho Ấn Độ
trong thời kỳ đấu tranh từ tự trị đến Cộng hòa (1947 - 1950) là phải thực
12
hiện một loạt biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị - xã hội, ngoại giao
nhằm xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, thủ tiêu tàn tích xã hội cũ, bước đầu xây
dựng đường lối kinh tế tự chủ và đối ngoại độc lập, đặt nền tảng cho sự
phát triển của Ấn Độ trong giai đoạn đầu của nền Cộng hòa (1950 - 1964).
Về kinh tế, ngày 6/4/1948, tại Quốc hội lập pháp, Chính phủ Ấn Độ
chính thức công bố “Tuyên ngôn về chính sách công nghiệp”, lịch sử
thường gọi theo nội dung là Tuyên ngôn về “Nền kinh tế hỗn hợp”. Điểm
căn bản nhất của Tuyên ngôn là nhà nước nắm độc quyền một số ngành
công nghiệp quan trọng. Bên cạnh đó, chính sách cải cách ruộng đất được
Chính phủ ban hành cuối năm 1947, bắt đầu áp dụng thực tế ở một số địa
phương từ năm 1948 và từng bước mở rộng quy mô trên cả nước, kết thúc
vào năm 1954.
Về chính trị, nét đặc trưng trong lịch sử Ấn Độ giai đoạn này là: quá
trình đấu tranh thực hiện quy chế tự trị xen lẫn với cuộc đấu tranh giành
độc lập. Đó là quá trình đấu tranh không khoan nhượng trên mặt trận chính
trị của Chính phủ và nhân dân Ấn Độ đối với thực dân Anh và các thế lực
đối lập vì một nước Ấn Độ độc lập, thống nhất, dân chủ trên một số lĩnh
vực cơ bản: quá trình Ấn Độ hóa chính quyền; xây dựng Hiến pháp và thể
chế chính trị Ấn Độ.
Về ngoại giao, Ấn Độ vẫn tiếp tục đấu tranh trong khối Liên hiệp Anh
và buộc khối này chính thức công nhận Ấn Độ là một nước Cộng hòa và
tiếp tục là thành viên chính thức của khối. Mặt khác, trong giai đoạn này,
Ấn Độ từng bước thiết lập quan hệ song phương với các nước trên cơ sở
đường lối ngoại giao hòa bình. Tuy nhiên, quan hệ giữa Ấn Độ - Pakistan
bắt đầu trở nên phức tạp khi vấn đề Kashmir đã được quốc tế hóa, tương
lai cuối cùng vẫn còn bỏ ngõ, trở thành nơi nhạy cảm nhất cho đến tận
ngày nay trong quan hệ với quốc gia láng giềng này.
13
Chương 3
NỘI DUNG CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964
Đứng trước xu thế chung của thời đại, thông qua cách thức hoạch định
đường lối phát triển đất nước trên các lĩnh vực khác nhau, kế thừa quá
trình xây dựng nền tảng ban đầu trong thời kỳ tự trị 1947 - 1950, trong giai
đoạn 1950 - 1964, “kỷ nguyên J. Nehru”, Ấn Độ đã giải quyết cụ thể yêu
cầu đặt ra của quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại
giao, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, từng bước tạo sự ổn định,
củng cố độc lập thành công.
3.1. Trên lĩnh vực kinh tế
3.1.1. Chiến lược và sách lược cho nền kinh tế Ấn Độ
Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Ấn Độ, để xây dựng Ấn Độ
thành một nước công nghiệp giàu mạnh, tự lực tự cường, vấn đề then chốt
là phải thực hiện một cuộc cải biến căn bản trong khoa học - kỹ thuật, phải
đưa nền khoa học - kỹ thuật của Ấn Độ từ tình trạng lạc hậu lên trình độ
tiên tiến. Bên cạnh đó, phải dành ưu tiên hàng đầu cho phát triển nông
nghiệp nhằm giải quyết vấn đề thiếu thốn lương thực, và sau cùng là phát
triển một nền công nghiệp đa dạng và vững mạnh. Tuy nhiên, không phải
lúc nào các yếu tố này cũng dành được những vị trí ưu tiên như nhau, mà
tùy theo tình hình và điều kiện cụ thể của mỗi thời kỳ, lĩnh vực này có thể
được coi trọng hơn lĩnh vực kia. Điều này được phản ánh cụ thể trong các
kế hoạch phát triển 5 năm của Ấn Độ.
3.1.2. Chú trọng phát triển kinh tế nhà nước và khoa học công nghệ
Trong Nghị quyết về chính sách công nghiệp hóa ban hành năm 1956,
khu vực kinh tế nhà nước được trao độc quyền nắm các ngành công nghiệp
then chốt có tầm quan trọng về kinh tế và an ninh quốc phòng. Điều này
nhằm củng cố sản xuất của quốc gia, kiểm soát các hoạt động của khu vực tư
nhân, kích thích sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế (kể cả
khu vực nhà nước và tư nhân). Mặt khác, với nhận thức tiến bộ về vai trò của
14
khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa, Chính
phủ Ấn Độ đã xây dựng đường lối chiến lược đúng đắn và hệ thống nghiên
cứu, đào tạo khoa học kỹ thuật tiên tiến. Vì thế, trong giai đoạn 1950 - 1964,
Ấn Độ vươn lên trở thành một thế lực thực sự cả về kinh tế lẫn quân sự.
3.1.3. Các kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế
Ngoài những chính sách và hướng ưu tiên phát triển, nhiệm vụ đặt ra
cho Chính phủ J. Nehru trong thời kỳ Cộng hòa là phải cải tạo sâu sắc nền
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, xây dựng một nền kinh tế hiện đại,
thịnh vượng trên cơ sở tự lực tự cường, làm nền tảng để củng cố độc lập
dân tộc và bảo vệ chủ quyền. Theo đó, tháng 3/1950, Ủy ban kế hoạch
được thành lập và sau đó trình bày trước Quốc hội kế hoạch phát triển kinh
tế 5 năm đầu tiên (1951 - 1956), lần thứ hai (1956 - 1961), lần thứ (1961 -
1965). Nhìn chung, qua mỗi kế hoạch phát triển, Chính phủ Ấn Độ căn cứ
vào tình hình thực tiễn của quốc gia để hoạch định cho những mục tiêu
phát triển bền vững trong từng lĩnh vực, vừa thu hẹp khoảng cách giữa các
vùng miền, vừa tạo ra biến đổi sâu sắc trong xã hội, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của quốc gia, góp phần quyết định đến nền độc lập dân tộc.
3.2. Trên lĩnh vực chính trị
3.2.1. Thực hiện cải cách lãnh thổ hành chính
Căn cứ vào Hiến pháp năm 1950, nguyên tắc phân chia đơn vị hành
chính rất phức tạp, không phản ánh được tính chất ngôn ngữ, tộc người vốn
rất phức tạp, hình thành từ lâu đời ở Ấn Độ. Ngày 1/10/1956, đạo luật mới
liên quan đến các đơn vị hành chính lãnh thổ của Ấn Độ bắt đầu có hiệu
lực. Theo đó, Chính phủ đã thành lập 14 bang mới trên cơ sở các công
quốc cũ và 6 vùng lãnh thổ hành chính trực thuộc trung ương. Việc cải
cách lãnh thổ hành chính có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nhà nước
sau độc lập. Về cơ bản hình thức công quốc phong kiến lỗi thời do thực
dân Anh duy trì trên đất nước Ấn Độ đã bị xóa sạch, đồng thời cũng thủ
tiêu triệt để sự tồn tại của các tiểu quốc, tạo điều kiện ổn định cho sự quản
lý tập trung hơn từ chính quyền nhà nước. Điều này cũng được coi là một
bước quan trọng tiến tới hội nhập quốc gia.
15
3.2.2. Bầu cử Quốc hội dân chủ đầu tiên
Bước vào thời kỳ xây dựng nền Cộng hòa, Chính phủ Ấn Độ phải đối
mặt với nhiều khó khăn và phức tạp trong nền chính trị đa đảng. Qua 3
cuộc tổng tuyển cử đầu tiên dưới chính thể Cộng hòa (1951 - 1952, 1957,
1962), thắng lợi của Đảng Quốc đại làm cơ sở để Chính phủ Thủ tướng J.
Nehru tiếp tục duy trì quyền lãnh đạo trong sự nghiệp củng cố độc lập, xây
dựng đất nước, ổn định chính trị, thúc đẩy dân chủ cũng như hạn chế ảnh
hưởng các lực lượng đối lập, tăng cường củng cố nền độc lập dân tộc.
3.2.3. Đấu tranh thu hồi các vùng đất thuộc Pháp và Bồ Đào Nha
Quá trình đấu tranh thu hồi lãnh thổ của Pháp và Bồ Đào Nha được
tiến hành tuy theo kiểu thức khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là chấm
dứt sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân trên lãnh thổ Ấn Độ. Chính phủ
Ấn Độ đã kết hợp hài hòa những nhân tố bên trong và bên ngoài, thậm chí
phải hy sinh con đường hòa bình cho mục tiêu và lý tưởng chống chủ
nghĩa thực dân. Bước đầu, cuộc đấu tranh toàn vẹn lãnh thổ đã giành thắng
lợi. Điều đó góp phần khẳng định vững chắc chủ quyền quốc gia dân tộc
trong bối cảnh sự nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ
đang gặt hái những thành tựu to lớn. Mặt khác, nó cũng cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới, từng bước làm tan rã
hoàn toàn chủ nghĩa thực dân tại các thuộc địa.
3.3. Trên lĩnh vực ngoại giao
3.3.1. Quan hệ với các nước láng giềng
Trong số các quốc gia láng giềng, Pakistan là một trường hợp đặc biệt
trong quan hệ với Ấn Độ. Hậu quả từ chính sách “đi mà ở” của thực dân Anh
đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước Pakistan, đồng thời tạo nên những bất ổn,
mâu thuẫn trong cộng đồng tôn giáo, dân tộc ở hai quốc gia, nhất là vấn đề
Kashmir trở thành tâm điểm trong mối quan hệ này. Mặt khác, với Trung
Quốc, từ quan hệ thân thiện dựa trên những nét tương đồng xuất phát từ lợi ích
của cả hai nước trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, quan hệ Ấn - Trung trở nên
căng thẳng thậm chí là thù địch từ chiến tranh Trung - Ấn năm 1962.
16
3.3.2. Quan hệ với các siêu cường Xô, Mỹ
Trong bối cảnh phức tạp của Trật tự thế giới hai cực, việc tăng cường
quan hệ với các siêu cường Xô, Mỹ vừa giúp Ấn Độ giải quyết các vấn đề
trong nước, vừa khẳng định vị thế của mình trong một số vấn đề quốc tế và
khu vực. Với Liên Xô, đây không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa hai quốc
gia mà còn tác động qua lại sâu rộng với tổng thể các mối quan hệ quốc tế
thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trên thực tế, Ấn Độ dường như “nghiêng” hơn
về phía Liên Xô. Với Mỹ, Ấn Độ vừa tuân thủ nguyên tắc của đường lối
đối ngoại không liên kết, vừa tăng cường quan hệ trên lĩnh vực kinh tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc.
3.3.3. Tham gia sáng lập Phong trào không liên kết
Với tư cách là quốc gia khởi xướng và đi tiên phong, Ấn Độ có những
đóng góp quan trọng cho phong trào trong giai đoạn đầu, đặc biệt là 5
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (Panch Sheel), sau này phát triển thành
10 nguyên tắc Bandung, đã trở thành cơ sở cho chính sách đối ngoại của
các nước Á - Phi mới độc lập, cũng như những nguyên tắc của Phong trào
Không liên kết sau này trong quan hệ giữa các quốc gia. Sự đóng góp đó
gắn liền với tên tuổi của Thủ tướng J. Nehru từ ý tưởng đến sự hoàn thiện
về tư tưởng, và từ tư tưởng đến hiện thực thông qua những nỗ lực hoạt
động thực hiện sôi nổi.
3.3.4. Giữ vai trò trong một số vấn đề quốc tế và khu vực
Mặc dù phải giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội phức tạp,
trước những biến động của Trật tự thế giới hai cực, Ấn Độ nổi lên như một
nhân tố trung gian của thế giới thứ ba, đóng góp tích cực vào việc điều hòa
mâu thuẫn, đảm bảo cho nền hòa bình thế giới. Sự hiện diện tại các Hội
nghị quốc tế quan trọng cũng như thái độ, quan điểm và phương thức hành
động của Ấn Độ đối với một số vấn đề quốc tế và khu vực như: Chiến tranh
Triều Tiên, Chiến tranh Đông Dương, sự kiện Ai Cập quốc hữu hóa kênh
đào Suez, Liên Xô đưa quân vào Hungari, nội chiến Congo, vừa khẳng định
uy tín của mình trong thế giới thứ ba, trong Liên hợp quốc, vừa chứng minh
17
cho đường lối đối ngoại đặc trưng hòa bình, trung lập, không liên kết. Quan
trọng hơn, với những động thái đó, quan điểm của các cường quốc đối với
Ấn Độ có sự thay đổi rõ ràng và là thành công đáng ghi nhận của nền ngoại
giao Ấn Độ trong hơn một thập niên của nền Cộng hòa.
3.4. Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh
3.4.1. Tăng cường xây dựng và củng cố nền quốc phòng - an ninh
Trước hết, việc hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng quốc phòng và
thông tin liên lạc ở biên giới phía Bắc cũng như phát triển lực lượng vũ
trang Ấn Độ được Chính phủ chú trọng quan tâm. Bên cạnh đó, kinh phí
đầu tư cho việc trang bị quốc phòng hiện đại các lực lượng quân đội Ấn
Độ ngày một tăng, nhất là sau chiến tranh Trung - Ấn năm 1962. Một mặt,
vừa đảm bảo an ninh biên giới phía Bắc trước các hành động xâm lấn của
Trung Quốc, mang lại sự ổn định cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
phát triển kinh tế, xã hội của Ấn Độ, vừa góp phần nâng cao hơn nữa “sức
mạnh cứng” trong sự nghiệp bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc, cũng như
vị thế của Ấn Độ ở khu vực và quốc tế.
3.4.2. Củng cố quan hệ với các vương quốc trên dãy Himalaya
Trong khi nhận thức đầy đủ tham vọng của Trung Quốc mở rộng
lãnh thổ xuống vùng Tây Nam, Chính phủ Ấn Độ đã phản ứng linh hoạt
với tình hình Himalaya, tránh những hành động khiêu khích từ Bắc Kinh,
tiếp tục tạo sự bình yên khu vực biên giới (ít nhất đến trước xung đột biên
giới Trung Quốc - Ấn Độ tháng 10/1962) bằng chính sách ngoại giao
khôn khéo của Thủ tướng J. Nehru với các vương quốc trên cơ sở kế thừa
mối quan hệ từ trước của người Anh. Tầm quan trọng trong quan hệ của
Ấn Độ với các vương quốc Sikkim, Bhutan và Nepal có một tác động rất
lớn đối với an ninh biên giới phía Bắc, tạo sự ổn định cần thiết cho sự
nghiệp củng cố độc lập dân tộc của Cộng hòa Ấn Độ. Trên thực tế, chính
quyền J. Nehru đã xác lập và “mặc định” kiểu thức mối quan hệ của Cộng
hòa Ấn Độ với các vương quốc trong dãy Himalaya theo phương châm
“bạn ổn định, mình an ninh”.
18
3.5. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
3.5.1. Vấn đề thống nhất ngôn ngữ quốc gia
Theo Hiến pháp Ấn Độ năm 1950, tiếng Hindi là ngôn ngữ chính thức
của liên bang và tiếng Anh vẫn sẽ được sử dụng như là ngôn ngữ chính
thức thứ hai của đất nước trong thời gian 15 năm. Trên thực tế, tiếng Hindi
vốn là ngôn ngữ của người bản địa, có bề dày lịch sử, là tiếng nói thông
dụng của các tổ chức xã hội, được người dân Ấn Độ sử dụng nhiều nhất,
được xem là ngôn ngữ chính. Trong khi đó, tiếng Anh và nền giáo dục
Anh trong suy nghĩ của nhiều người Ấn Độ theo chủ nghĩa dân tộc là biểu
tượng của “chế độ nô lệ vĩnh viễn”, nhưng được thông dụng ở các bang
miền Nam. Vì vậy, mâu thuẫn ngày càng gia tăng ở hai khu vực này. Ngày
10/5/1963, Quốc hội đã ban hành Luật Ngôn ngữ chính thức, trong đó tiếp
tục cho phép sử dụng tiếng Hindi và tiếng Anh vào các mục đích chính
thức, ngay cả sau năm 1965, được cụ thể hóa trong đạo luật năm 1967.
Việc pháp lý hóa ngôn ngữ là sự lựa chọn phù hợp trong điều kiện một
quốc gia đa ngôn ngữ như Ấn Độ. Về cơ bản, ngôn ngữ quốc gia được giải
quyết trên cơ sở dân chủ và theo phương thức thúc đẩy sự hợp nhất quốc
gia. Tiếng Hindi và tiếng Anh vẫn sử dụng cho các hoạt động của nhà
nước và ở các bang cùng với tất cả các ngôn ngữ địa phương.
3.5.2. Hội nhập các bộ lạc trong nền văn hóa dân tộc
Vấn đề bảo tồn những di sản xã hội và nền văn hóa phong phú của các
bộ lạc là trọng tâm trong chính sách của Chính phủ Ấn Độ về hội nhập bộ
lạc. Nắm vững quan điểm “thống nhất trong đa dạng”, J. Nehru khởi
xướng cuộc vận động về phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là các
lĩnh vực truyền thông, thiết bị y tế hiện đại, nông nghiệp và giáo dục trong
khu vực của các bộ lạc. Nhiều chương trình, đề án phúc lợi cho sự phát
triển các bộ lạc thuộc vùng Đông Bắc, Nagaland, Mizoram, Jharkhand
được xây dựng và triển khai bởi Chính phủ Ấn Độ trong giai đoạn 1950 -
1964 thông qua các kế hoạch 5 năm, vừa đảm bảo an ninh biên giới, góp
phần tạo nên sự đa dạng và phong phú trong nền văn hóa, vừa đảm bảo
mục tiêu củng cố độc lập dân tộc.
19
Chương 4
NHẬN XÉT VỀ SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
CỦA CỘNG HÒA ẤN ĐỘ TRONG GIAI ĐOẠN 1950 - 1964
VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
4.1. Đánh giá chung
4.1.1. Những thành tựu
Một là, với những chính sách thực hiện của Chính phủ Thủ tướng J.
Nehru đã tạo ra b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_su_nghiep_cung_co_doc_lap_dan_toc_cua_cong_hoa_an_do_trong_giai_doan_1950_1964_3305_1917206.pdf