Khái quát về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua
Luận án đã tổng kết khái quán tình hình thu hút đầu tư nước ngoài đến năm 2018 cự thể: Sau hơn 30 năm “đón” vốn FDI, từ năm 1988 đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước thu hút 26.438 dự án FDI của 129 quốc gia và vùng lãnh thổ còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt 183,62 tỷ USD, bằng 55% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực được giải ngân trong 30 năm, ÐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Qua khái quán đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua, NCS đi đến khẳng định: Trong một số trường hợp, việc thu hút ÐTNN chưa tính toán đầy đủ, toàn diện, thu hút đầu tư bằng mọi giá. dẫn đến nguy cơ mất cân đối các biến số vĩ mô đe dọa an ninh kinh tế như: (i) mức độ tăng trưởng vẫn còn thấp, chất lượng tăng trưởng chưa thật sự bền vững; (ii) Cán cân thượng mại trong giai đoạn từ 2001-2017 chủ yếu thâm hụt; (iii) Thâm hụt NSNN có xu hướng tăng do hiệu quả sản xuất, đầu tư thấp. Để bù đắp thâm hụt ngân sách, nếu Chính phủ phải vay nợ sẽ làm gia tăng gánh nặng cho thế hệ tương lai cũng như tạo ra cuộc khủng hoảng nợ nếu quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà nước. Đây là những một nhân tố đe dọa đến tính bền vững của an ninh kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
24 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 486 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hời kỳ hội nhập và gia nhập WTO”; Nguyễn Hồng Hải (2010) “Công tác bảo vệ an ninh kinh tế đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với Mỹ”; Đỗ Ngọc Quang (2011), “Một số thách thức về an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”; Nguyễn Thị Kim Hồng & Nguyễn Thị Bé Ba (2011),“An ninh lương thực vùng đồng bằng sông Cửu Long” Phạm Ngọc Hiền, Nguyễn Văn Lan, Nguyễn Văn Việt, Lê Thị Quỳnh (2011), “Hội nhập kinh tế quốc tế - những vấn đề đặt ra đối với công tác Công an”; Trần Minh Tơn (2014),“Bảo đảm an ninh môi trường, phục vụ nhiệm vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới”; Lê Minh Thảo (2014), “Bảo đảm an ninh các khu công nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội”; Nguyễn Ngọc Thế (2014), “Công tác bảo đảm an ninh kinh tế nông nghiệp, những vấn đề lý luận và thực tiễn”; Nguyễn Thị Mùi (2015), “An ninh tài chính tiền tệ ở Việt Nam trước các biến động của thị trường tài chính thế giới”; Tô Lâm, Nguyễn Xuân Yêm (2017), “An ninh phi truyền thống trong thời kỳ hội nhập quốc tế”; Tạ Ngọc Tấn, Phạm Thành Dung, Đoàn Minh Huấn (2018), “An ninh phi truyền thống - những vấn đề lý luận và thực tiễn”
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về sự tác động của đầu tư nước ngoài
Trần Xuân Dung (2006), “Hoạt động tài trợ, đầu tư nước ngoài tại Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh”; Trần Quang Thắng (2012), “Những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước Châu Á và giải pháp cho Việt Nam”; Vũ Đình Ánh (2012), “Chống chuyển giá và một số vấn đề tài chính liên quan đến FDI”; Phạm Văn Thừa (2013), “Những tác động tiêu cực về kinh tế của đầu tư trực tiếp nước ngoài và một số vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh kinh tế ở nước ta hiện nay”; Nguyễn Thị Thu Hoài (2014), “Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Ứng phó của thế giới và của Việt Nam”
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài luận án
Qua khảo sát các công trình liên quan cho thấy, các tác giả trong và ngoài nước đã tập trung nghiên cứu đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về ĐTNN, ANKT và tác động của ĐTNN đến ANKT.
Một là: Các công trình này đã trình bày các khái niệm, phạm trù kinh tế và ANKT. Tuy nhiên, các khái niệm, phạm trù cũng như các mối quan hệ và sự ảnh hưởng của ANKT được nghiên cứu ở dạng chung nhất trong các khu vực và thế giới. An ninh và ANKT trong thời kỳ toàn cầu hóa và những nhân tố ảnh hưởng đến nó, cần được đề cập cụ thể ở từng lĩnh vực, trong mỗi quốc gia. Các công trình này giúp cho nghiên cứu sinh có thêm hiểu biết về tên gọi, mối quan hệ qua lại giữa kinh tế với ANKT.
Hai là: Một số công trình đã đề cập đến ảnh hưởng của ANKT nước sở tại đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vai trò của chính phủ trong việc duy trì sự ổn định của an ninh để thúc đẩy thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ phản ánh đến các chính sách thu hút đầu tư, hoặc so sánh lợi ích, có ít công trình nghiên cứu các tác động bất lợi của ĐTNN đến ANKT trong nước một cách cụ thể.
Ba là, các công trình khác đã đưa ra những vấn đề nảy sinh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài cả về mặt nhân lực, kinh tế, xã hội. Một số công trình đã trình bày được thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Bắc Bộ và một số tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam góp phần phát triển bền vững và bảo đảm an ninh. Tuy nhiên, các tác động của ĐTNN đến ANKT chưa được các công trình đề cập đến.
Bốn là: Một số công trình đã nêu lên và phân tích các vấn đề an ninh trong hội nhập và ĐTNN. Đã chỉ ra những ảnh hưởng của ĐTNN tại Việt Nam và những thách thức an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập. An ninh tài chính tiền tệ, an ninh thông tin, an ninh lương thực, an ninh môi trường, an ninh trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng đã được một số tác giả đề cập. Các tác giả cũng đã đưa ra các giải pháp để đảm bảo ANKT trong các hoạt động phát triển KT - XH. Một số công trình đã đề cập đến thực trạng, giải pháp công tác bảo vệ ANKT trong lĩnh vực FDI và tại các khu công nghiệp trên địa bàn các tỉnh, thành phố. Đề cập thực trạng hoạt động phá hoại ANKT của các thế lực thù địch lợi dụng FDI. Một số công trình đã bổ sung, hoàn thiện lý luận nghiệp vụ an ninh, bảo vệ an ninh các khu vực, địa bàn kinh tế đặc thù trong điều kiện hội nhập và đề xuất, tham mưu cho lãnh đạo, các cơ quan quản lý về hoạt động đầu tư trong khu vực. Có một số công trình đã nghiên cứu, phân tích hệ thống lý luận nghiệp vụ bảo vệ ANKT trong thời điểm hiện tại, đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện công tác bảo đảm ANKT của ngành công an trong lĩnh vực ĐTNN. Ở đây, vấn đề mà nghiên cứu sinh quan tâm là các tác động tích và cực tiêu cực của ĐTNN đến những gì thuộc ANKT trong ở các vùng miền, cũng như ở phạm vi cả nước. Công tác bảo vệ ANKT cần phải tiến hành như thế nào trước tác động của ĐTNN. Do vậy, cần thiết nghiên cứu chi tiết tác động của ĐTNN cả chiều tích cực và bất lợi đến các vấn đề cụ thể của ANKT.
Năm là, các công trình đã đề cập đến những tác động tiêu cực của FDI đến các vấn đề kinh tế xã hội và ANKT. Các tác động đó thể hiện ở những hoạt động phá hoại an ninh trên cơ sở các khoản tài trợ, đầu tư đã được các tác giả đề cập, phân tích và đưa ra các giải pháp.
Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống tác động tích cực và tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam. Do vậy “Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam” cần được nghiên cứu một cách hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, cùng các quan điểm và giải pháp về nhận thức, về quản lý, về nghiệp vụ bảo vệ ANKT trong thời kỳ hội nhập nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam thời gian tới.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Từ tổng quan các công trình đã được công bố trong nước và quốc tế, tác giả luận án nhận thấy còn một số khoảng trống khoa học trước những tác động của ĐTNN đến ANKT tại Việt Nam. Một là, đầu tư nước ngoài và an ninh kinh tế là gì? Quan niệm tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam như thế nào? Nội dung tác động ra sao? Hai là, thực trạng tác động cả mặt tích cực, tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam như thế nào? Nguyên nhân thực trạng và những vấn đề cần giải quyết từ tác động của ĐTNN đến ANKT trong thời gian tới? Ba là, để phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các quan điểm, giải pháp nào?
Để trả lời cho các câu hỏi trên, luân án tập trung luận giải và làm rõ những vấn đề sau: Thứ nhất, xây dựng khung lý luận về ĐTNN, ANKT và sự tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam; Thứ hai, khảo sát, đánh giá khách quan thực trạng tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam, chỉ rõ nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới; Thứ ba, đề xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực, khắc phục tác động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam thời gian tới.
Kết luận chương 1
Trong chương 1, tác giả đã tổng quan 16 công trình của tác giả nước ngoài; 33 công trình của các tác giả trong nước dưới nhiều loại hình khác nhau, như sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ và các đề tài, báo khoa học. Trên cơ sở đó, NCS đã khái quát được những thành công và hạn chế của các công trình, từ đó đưa ra nhũng vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI ĐẾN AN NINH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Những vấn đề chung về đầu tư nước ngoài và an ninh kinh tế
2.1.1. Quan niệm, hình thức và vai trò của đầu tư nước ngoài
2.1.1.1. Quan niệm đầu tư nước ngoài
Với Luật Đầu tư năm 2014 đã có nhiều điểm mới về ĐTNN vào Việt Nam. Theo luật này thì các hình thức đầu tư tại Việt Nam được áp dụng chung cho các nhà đầu tư (theo mục 13, Điều 3 của Luật Đầu tư năm 2014 thì “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”.
2.1.1.2. Hình thức đầu tư: Luật Đầu tư năm 2014 đã quy định rõ các hình thức đầu tư tại Việt Nam. Theo đó, có 4 hình thức đầu tư như sau: Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế; hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư (hợp đồng PPP); hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC).
2.1.1.3. Vai trò của đầu tư nước ngoài
1) Bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển ở trong nước, giải quyết được khó khăn về vốn nội lực đối với nước đầu tư; 2) Góp phần làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp, khai thác tiềm năng; 3) Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, kỹ thuật, phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại một cách trực tiếp và nhanh chóng, tạo tiền đề cho việc đổi mới công nghệ và phát huy năng lực trong nước và mục tiêu phát triển; 4) Tạo điều kiện cho nước tiếp nhận đầu tư tiếp cận với thị trường thế giới, mở rộng ảnh hưởng, khai thác tiềm năng, tìm tòi và phát huy lợi thế của chính mình và thời đại, giúp tham gia và cạnh tranh quốc tế; 5) Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động trong nước trên cơ sở phát triển các ngành nghề mới hoặc các dịch vụ tổng hợp, góp phần khắc phục dần tình trạng thất nghiệp; 6) Giúp cho nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện tham gia vào các diễn đàn quốc tế và khu vực khác nhau, tạo lợi thế trong các quan hệ song phương và đa phương cả về kinh tế và chính trị, từng bước nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.
2.1.2. An ninh kinh tế
2.1.2.1. Quan niệm An ninh kinh tế
Từ sự nghiên cứu phân tích ở trên, tác giả luận án quan niệm rằng: ANKT là một bộ phận của an ninh quốc gia, là trạng thái của nền kinh tế phát triển ổn định, có ít hoặc không có nguy cơ đe dọa các lợi ích kinh tế cốt lõi của quốc gia, có khả năng ngăn ngừa và đối phó có hiệu quả với những tác động của nhân tố trong nước và quốc tế; ANKT bao gồm an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực.
ANKT quốc gia là trạng thái của nền kinh tế phát triển ổn định - nền kinh tế tự chủ, có sức cạnh tranh quốc tế của các ngành sản xuất trụ cột, thị trường phát triển Nền kinh tế có ít hoặc không có nguy cơ đe dọa các lợi ích kinh tế cốt lõi của quốc gia; nền kinh tế có đủ khả năng ngăn ngừa và đối phó hiệu quả những tác động của các nhân tố trong nước và quốc tế.
Nội dung của ANKT bao gồm: An ninh tài chính, an ninh năng lượng và an ninh lương thực. Đó là sự phản ánh những lợi ích cốt lõi của quốc gia, là cơ sở của quan hệ an ninh khác ở một quốc gia.
2.1.2.2. Các yếu tố cấu thành An ninh kinh tế
* An ninh tài chính là phạm trù chỉ trạng thái tài chính ổn định, an toàn, vững mạnh, không bị khủng hoảng, có khả năng ngăn ngừa chống đỡ một cách hiệu quả những tác động tiêu cực bên trong và bên ngoài trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
* An ninh lương thực: Năm 1996, FAO định nghĩa an ninh lương thực, mà tác giả luận án rất đồng tình là: An ninh lương thực tồn tại khi tất cả mọi người, ở mọi thời điểm, có thể tiếp cận xã hội cả về vật chất và kinh tế tới lương thực một cách đầy đủ, an toàn và đủ dinh dưỡng, đáp ứng nhu cầu và sở thích về ăn uống của người dân cho một cuộc sống năng động và khỏe mạnh.
* An ninh năng lượng: Khái niệm ANNL đã trải qua nhiều tranh luận và các cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên các quan niệm hiện nay ở Việt Nam tương đối thống nhất, tác giả luận án cũng đồng tình rằng: An ninh năng lượng là sự đảm bảo đầy đủ năng lượng dưới nhiều dạng khác nhau, sạch và giá cả hợp lý.
2.2. Quan niệm, nội dung tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
2.2.1. Quan niệm về tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
Từ sự phân tích một số lý luận tác giả đưa ra quan niệm: Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam là hoạt động của đầu tư nước ngoài với sự tham gia của các chủ thể tạo ra những biến đổi tích cực và tiêu cực đến các yếu tố cấu thành an ninh kinh tế như an ninh tài chính, an ninh lương thực, an ninh năng lượng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan niệm chỉ rõ những vấn đề sau:
Tác động của ĐTNN đến ANKT là hoạt động của các chủ thể với tư cách là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện đầu tư tại Việt Nam. Trong thực tế, tác động của ĐTNN đến ANKT thể hiện trên một số vấn đề như: Thứ nhất, ĐTNN với chủ thể nó là những tập đoàn lớn, xuyên quốc gia, xét theo một ý nghĩa nào đó, ĐTNN đã và đang trở thành người ra quyết sách đứng ở sau hậu trường, của quá trình hình thành chính sách đối ngoại của một quốc gia có chủ quyền. Thứ hai, điều cốt lõi của các nhà ĐTNN quan tâm chỉ là sự khác nhau về tỉ lệ thu lợi so với các yếu tố và tài nguyên của các nước và các khu vực khác nhau đối với nguồn vốn lưu động, nhằm bảo đảm lời ích lớn nhất của nguồn vốn đầu tư. Ba là, sự thúc đẩy ĐTNN trên quy mô lớn có tác động lớn đến nước chủ nhà cả mặt tích cực và mặt tiêu cực.
2.2.2. Nội dung tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
2.2.2.1. Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài chính ở Việt Nam
* Tác động tích cực của ĐTNN đến an ninh tài chính
Một là, tác động làm phát triển và ổn định an ninh tài chính trong nước; Hai là, làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp của xã hội; Ba là, tác động tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Bốn là, tác động làm tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Năm là, tác động như cú hích nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
* Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài chính
Thứ nhất, các công ty đa quốc gia (TNCs) có thể can thiệp, lũng đoạn nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng đến tự chủ nền tài chính.
Thứ hai, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài quá lớn lấn át đầu tư trong nước; hoạt động đầu cơ tiền tệ, rút vốn đột ngột dẫn đến nền kinh tế thị trường dễ phụ thuộc bên ngoài.
Thứ ba, ĐTNN rất hạn chế chuyển giao công nghệ mới có tính cạnh tranh cao.
Thứ tư, tạo xung lực lạm phát trong nền kinh tế.
Thứ năm, tăng mức độ nhạy cảm và khả năng bất ổn về kinh tế liên quan đến các nhân tố nước ngoài.
Thứ sáu, gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán.
Thứ bảy, tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm kinh tế quốc tế
2.2.2.2. Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh lương thực ở Việt Nam
* Tác động tích cực của ĐTNN đến an ninh lương thực ở Việt Nam
Thứ nhất, ĐTNN góp phần bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp.
Thứ hai, gia tăng cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng nông sản thế giới.
Thứ ba: Đầu tư nước ngoài tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa, đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp cung ra thị trường.
Thứ tư: Đầu tư nước ngoài tác động đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tạo việc làm trong kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
* Tác động tiêu cực của ĐTNN đối với an ninh lương thực ở Việt Nam.
Một là, các dự án ĐTNN trong nông nghiệp còn ít, vốn thấp và phân bố không đều ở các lĩnh vực ảnh hưởng đến cung lương thực.
Hai là, làm biến đổi cơ cấu các nguồn lực gây bất lợi đối với an ninh lương thực.
Ba là, gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường nội địa.
Bốn là, tác động mạnh mẽ của các “rào cản kĩ thuật” đối với các doanh nghiệp, người nông dân - nguồn cung bảo đảm an ninh lương thực.
Năm là, gây mất an ninh môi trường doanh nghiệp và môi trường sống của dân cư trên địa bàn đầu tư.
2.2.2.3. Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh năng lượng ở Việt Nam
* Tác động tích cực của Đầu tư nước ngoài đến an ninh năng lượng ở Việt Nam
Một là, tác động đến giá năng lượng, nguồn cung cấp điện và hoàn thiện chính sách năng lượng ở Việt Nam.
Hai là, làm dịch chuyển nền kinh tế nông nghiệp sử dụng năng lượng chủ yếu dựa trên các loại nhiên liệu sinh khối truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp sử dụng các dạng năng lượng tổng hợp và hiện đại.
* Tác động tiêu cực của ĐTNN đến an ninh năng lượng ở Việt Nam
Một là, nhiều rủi ro trong cung ứng điện toàn quốc.
Hai là, tác động bất lợi đến quản lý tài nguyên năng lượng và cơ chế giá năng lượng.
Kết luận chương 2
Trong chương 2, NCS đã xây dựng khung lý luận. Đây là căn cứ quan trọng để NCS tiếp tục nghiên cứu thực trạng, thu hút đầu tư nước ngoài và thực trạng tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế, từ đó đề xuất các quan điểm và các giải pháp phát huy tắc động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế thời gian tới
Chương 3
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
ĐẾN AN NINH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua
Luận án đã tổng kết khái quán tình hình thu hút đầu tư nước ngoài đến năm 2018 cự thể: Sau hơn 30 năm “đón” vốn FDI, từ năm 1988 đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước thu hút 26.438 dự án FDI của 129 quốc gia và vùng lãnh thổ còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt 183,62 tỷ USD, bằng 55% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực được giải ngân trong 30 năm, ÐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Qua khái quán đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua, NCS đi đến khẳng định: Trong một số trường hợp, việc thu hút ÐTNN chưa tính toán đầy đủ, toàn diện, thu hút đầu tư bằng mọi giá... dẫn đến nguy cơ mất cân đối các biến số vĩ mô đe dọa an ninh kinh tế như: (i) mức độ tăng trưởng vẫn còn thấp, chất lượng tăng trưởng chưa thật sự bền vững; (ii) Cán cân thượng mại trong giai đoạn từ 2001-2017 chủ yếu thâm hụt; (iii) Thâm hụt NSNN có xu hướng tăng do hiệu quả sản xuất, đầu tư thấp. Để bù đắp thâm hụt ngân sách, nếu Chính phủ phải vay nợ sẽ làm gia tăng gánh nặng cho thế hệ tương lai cũng như tạo ra cuộc khủng hoảng nợ nếu quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà nước. Đây là những một nhân tố đe dọa đến tính bền vững của an ninh kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Thực trạng tác động tích cực, tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
3.2.1. Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài chính
* Tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài chính
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài bổ sung vốn, tăng thu ngân sách nhà nước thông qua thuế.
Như đã tổng quan về thu hút ĐTNN 30 năm qua, tính đến tháng 8/2018 đã có hơn 26.500 dự án FDI, vốn đăng ký hơn 334 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 184 tỷ USD. Nhà đầu tư nước ngoài có đóng góp gần 20% GDP và là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đầu tư phát triển với tỷ trọng khoảng 23,7% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho biết, ĐTNN đóng vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP của cả nước tăng từ 9,3% năm 1995 lên 19,6% năm 2017.
Thứ hai, ĐTNN tác động đến ANTC trên thị trường tài chính quốc gia.
ĐTNN có đầy đủ điều kiện đảm bảo để tham gia phát triển thị trường tài chính, trong đó có thị trường chứng khoán. Năm 2016 mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 2,53 triệu tỷ đồng (đạt 56% GDP năm 2016) tăng 30% so với thời điểm cuối năm 2016; đối với thị trường trái phiếu, dư nợ tương đương khoảng 30,09% GDP. Năm 2017 vốn FII thông qua các hoạt động đầu tư góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN lên tới 6,2 tỷ USD (tăng 45,1% so với năm 2016). Điều này đồng nghĩa với việc đã có gần 140.000 tỷ đồng vốn FII được nhà đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam. Việc khai thác hiệu quả dòng vốn FII luôn gắn với công tác thu hút vốn vào và kiểm soát rủi ro rút vốn ra. Dòng vốn FII vào Việt Nam là tín hiệu tốt cho cả nền kinh tế, thị trường chứng khoán, bảo hiểm và sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được thực hiện đồng bộ.
* Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh tài chính,
Thứ nhất, ĐTNN can thiệp, lũng đoạn nền kinh tế thị trường, gây bất ổn cho nền tài chính quốc gia.
Các hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh phi truyền thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của các dòng vốn kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có tổ chức” của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn thương và có thể gây ra lạm phát cao của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà nước, ảnh hưởng và gián tiếp can thiệp vào chính trị, gây sụp đổ một nội các chính phủ.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài quá lớn sẽ chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất trong nước.
Hoạt động đầu cơ tiền tệ, rút vốn đột ngột dẫn đến nền kinh tế thị trường dễ phụ thuộc bên ngoài. Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ cổ phần đầu tư trong sản xuất chế tạo và thị trường tài chính, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư nước ngoài đến một mức “vượt ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất.
Thứ ba, ĐTNN ở Việt Nam thường là cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường và ít chuyển giao công nghệ mới.
Theo thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đào Quang Thu, thống kê cho thấy trên 80% doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 5-6% sử dụng công nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu. Không ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của luật pháp, yếu kém trong quản lý nhà nước để nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị chuyển giao công nghệ.
Thứ tư, ĐTNN gây bất ổn tâm lý cho nhà đầu tư trong nước . Thứ năm, ĐTNN tác động làm cho thị trường chứng khoán trong nước phát triển không bền vững dễ bị lũng đoạn
Thứ sáu, tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài ngày càng gia tăng, tinh vi và phức tạp hơn.
3.2.2. Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh lương thực
* Tác động tích cực của ĐTNN đến an ninh lương thực
Thứ nhất, ĐTNN giúp đẩy nhanh dòng lưu chuyển vốn trên thế giới, đặc biệt là dòng vốn FDI vào Việt Nam qua đó tăng nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến tháng 2/2018, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp là 350 triệu USD với 514 dự án. Nếu so với tổng vốn đầu tư lũy kế vào ngành Nông nghiệp thì số vốn này chỉ chiếm khoảng 1%. Nguồn vốn này chủ yếu đến từ Nhật Bản.
Thứ hai, ĐTNN bước đầu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa, đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp.
Các dự án FDI đã thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu nông, lâm nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm. Tính đến thời điểm này, đã có hơn 50 quốc gia và cùng lãnh thổ đầu tư trong lĩnh vực nông lâm thủy sản của nước ta. Các quốc gia dẫn đầu là: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia. Nhật Bản là nhà đầu tư lớn trong lĩnh vực này, cho đến nay, đã có các dự án triển khai thành công trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp của Nhật Bản vào Việt Nam
Thứ ba, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm trong nước.
Nông nghiệp nước ta đã đáp ứng cơ bản nhu cầu lương thực và thực phẩm trong nước, an ninh lương thực đảm bảo, đã hình thành những vùng sản xuất nông sản hàng hóa quy mô tương đối lớn, tỷ suất hàng hóa tăng nhanh.
Thứ tư, tăng giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam.
Tổng kim ngạch Xuất khẩu 10 năm (2008 - 2017) đạt 261,28 tỷ USD, tăng bình quân 9,24%/năm; riêng năm 2017 đạt 36,52 tỷ USD, tăng 20,05 tỷ so với năm 2008 và dự kiến năm 2018 kim ngạch Xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 40 tỷ USD. Nông sản Việt Nam hiện có mặt trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xuất khẩu nông sản Việt Nam đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 16 thế giới.
Thứ tư, góp phần đào tạo đội ngũ chất lượng cao và giải quyết việc làm cho người lao động trong nông nghiệp.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, tính đến 01/07/2008 lao động làm việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tổng cộng 1831,4 nghìn lao động, trong đó ngành nông nghiệp chiếm khoảng 8,2% số lao động
* Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến an ninh lương thực
Một là, chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn vào nông nghiệp, phân bố chưa đồng đều
Các dự án ĐTNN trong nông nghiệp cũng chủ yếu đến từ các nhà đầu tư của khu vực Châu Á có nền công nghệ chưa thực sự phát triển cao như Thái Lan, Đài Loan, Indonesia Nhà đầu tư từ những nước có trình độ phát triển nông nghiệp cao như Mỹ, Nhật Bản, EU còn ít.
Hai là, thay đổi việc làm và thu nhập của người lao động, bất ổn cho phát triển bền vững trong nông nghiệp.
Chất lượn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_tac_dong_cua_dau_tu_nuoc_ngoai_den_an_ninh_k.doc