Mô hình lý thuyết dựa trên quan điểm Hành vi người tiêu dùng dựa trên
nhận thức, cụ thể là mô hình TPB của Ajzen (1985, 1991, 2019) – là mô hình
phổ biến, phù hợp trong dự đoán hành vi thực tế (Shaw và cộng sự, 2000;
Conner và Armitage, 2006; Bray, 2008) – được áp dụng trong luận án để đo
lường mối quan hệ tác động của marketing đến CBBE, hướng đến ý định –
hành vi tiêu dùng. Điều này mang lại sự đóng góp ý nghĩa về mặt học thuật
và thực tiễn marketing thương hiệu.
Mô hình lý thuyết này, một mặt mở ra cách tiếp cận mới trong đo lường
về CBBE và đánh giá tác động của hoạt động marketing đến CBBE; mặt khác,
vẫn củng cố, phù hợp quan điểm phổ biến là Tâm lý học nhận thức (Cognitive
Psychology Perspective) hay Tiếp cận dựa trên nhận thức (Cognitive
Approach) (Anderson, 2007, 2011; Baalbaki và Guzmán, 2017), của nhiều tác
giả như Keller (2003, 2008), Keller và Lehmann (2006), Kartono và Rao
(2009b). Góp phần làm phong phú những thực nghiệm trước đây về mối quan
hệ tác động giữa marketing và CBBE (vd., Yoo và cộng sự, 2000; Ramos và
Franco, 2004; Gil và cộng sự, 2007; Tong và Hawley, 2009a; Nguyễn Đình
Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2011; Nguyen và cộng sự, 2011; Buil và cộng
sự, 2013; Ebied, 2014; Lê Đăng Lăng và Lê Tấn Bửu, 2014a, 2014b, 2017;.)
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tác động của marketing xã hội của doanh nghiệp đến các thành phần tài sản thương hiệu: Trường hợp sản phẩm sữa tại thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dùng với một thương hiệu (sản phẩm), sử dụng dữ liệu để đánh giá nhận thức,
cảm xúc và thái độ của người tiêu dùng đối với thương hiệu, đối với các hoạt
động marketing thương hiệu cụ thể (Lassar và cộng sự, 1995; Berry, 2000;
Yoo và Donthu, 2001; Baker và cộng sự, 2005; Kartono và Rao, 2005, 2009a,
2009b) nhằm (i) xác định CBBE (thành phần và/hoặc mối quan hệ giữa các
thành phần); hoặc (ii) đánh giá các hoạt động marketing cụ thể tác động đến
cảm nhận của người tiêu dùng – nguồn hình thành nên CBBE.
Nhiều thực nghiệm đã chứng minh hoạt động marketing có tác động gia
tăng các thành phần CBBE. Nhưng các nghiên cứu này chỉ dừng lại ở các hoạt
động marketing truyền thống (marketing – mix), trong khi tồn tại CSM – một
hình thức marketing bền vững, được nhỉn nhận là có tác động tích cực đến các
thành phần CBBE – nhưng chưa được đo lường và kiểm định lý thuyết bằng
các nghiên cứu thực nghiệm mà chỉ dừng lại ở nghiên cứu case study (vd.,
Hoeffler và Keller, 2002); và CSM cũng chưa được đánh giá dựa trên phản
ứng (nhận thức, thái độ, ý định – hành vi) của người tiêu dùng (Bloom và
cộng sự, 2006; Inoue và Kent, 2014; Deshpande, 2016; Truong và Hall, 2016).
8
2.2. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu chính thức
Khởi đầu, để xác định các thành phần CBBE sản phẩm sữa tại thị trường
Việt Nam, tác giả áp dụng mô hình CBBE của Aaker (1991, 1996) vì mô hình
này được trích dẫn nhiều nhất (Washburn và Plank, 2002; Pappu và cộng sự
2005, 2006; Atilgan và cộng sự, 2005; Tong và Hawley, 2009a; Su và Tong,
2015; de Oliveira và cộng sự, 2017); phù hợp với các nghiên cứu thực nghiệm
về CBBE (Quan, 2006; Buil và cộng sự, 2013).
Nghiên cứu định tính (phỏng vấn chuyên gia và thảo luận nhóm) giúp điều
chỉnh – xây dựng mô hình nghiên cứu chính thức, trường hợp sản phẩm sữa
tại thị trường Việt Nam: (i) xác định được 5 thành phần CBBE của sản phẩm
sữa, gồm nhận biết thương hiệu, liên tưởng thương hiệu, chất lượng cảm nhận,
trung thành thương hiệu, và một thành phần mới nổi lên là niềm tin thương
hiệu; (ii) xác định 2 hoạt động marketing mix được các doanh nghiệp trong
ngành hàng sữa áp dụng phổ biến nhất là quảng cáo và mật độ phân phối.
Song song đó, tác giả cũng tiến hành thực nghiệm nhằm xác định các thành
phần CBBE (sản phẩm sữa) và mối quan hệ tác động giữa các thành phần này
(kết quả được trình bày cụ thể tại phụ lục 5), làm cơ sở cho mục đích chính là
đánh giá mối quan hệ tác động của CSM, quảng cáo và mật độ phân phối đến
các thành phần CBBE, trường hợp sản phẩm sữa tại thị trường Việt Nam.
Mô hình nghiên cứu (hình 2.5) với 20 giả thuyết đề xuất sẽ được tiến hành
nghiên cứu để kiểm định đồng thời mối quan hệ của 3 hoạt động marketing
đến 5 phần CBBE (15 giả thuyết H1/H2/H3 – a, b, c, d, e – lần lượt là mối
quan hệ tác động tích cực của CSM, quảng cáo và mật độ phân phối đến nhận
biết thương hiệu, liên tưởng thương hiệu, chất lượng cảm nhận, niềm tin
thương hiệu, trung thành thương hiệu), và mối quan hệ tác động giữa các thành
phần CBBE này (5 giả thuyết H4, 5, 6, 7, 8), trường hợp sản phẩm sữa tại thị
trường Việt Nam. Qua đó, cũng nhằm đánh giá giá trị và độ tin cậy của thang
đo; khẳng định tính tương thích của mô hình với dữ liệu thị trường.
Mô hình nghiên cứu theo quan điểm hành vi người tiêu dùng dựa trên nhận
thức, cụ thể là mô hình TPB của Ajzen (1985, 1991, 2019). Khung khái niệm
mô tả niềm tin và thái độ của người tiêu dùng về CSM, quảng cáo và mật độ
phân phối sẽ tác động tích cực đến nhận thức, thái độ và ý định – hành vi của
9
người tiêu dùng đối với thương hiệu sản phẩm sữa – nghĩa là hình thành nên
CBBE, với trung thành thương hiệu biểu hiện ý định – hành vi của người tiêu
dùng (Backman và Crompton, 1991; Oliver, 1999; Wood, 2000; Yoon và
Uysal, 2005; Chaudhuri và Holbrook, 2001; Keller, 2008; Iordanova, 2016).
Hình 2.5: Mô hình nghiên cứu chính thức
Trong mô hình: ý định – hành vi (sự trung thành thương hiệu) là hệ quả từ
các nhân tố: (1) chuẩn chủ quan (nhận thức của người tiêu dùng về thương
hiệu, gồm nhận biết và liên tưởng thương hiệu (Keller, 1993, 2008); trong bối
cảnh xã hội là sản xuất bền vững, tiêu dùng xanh và/hoặc tiêu dùng bền vững);
(2) thái độ hướng đến hành vi (chất lượng cảm nhận và niềm tin thương hiệu;
dựa trên cảm nhận và kinh nghiệm của người tiêu dùng); (3) nhận thức kiểm
soát hành vi (các hoạt động marketing vừa tác động trực tiếp đến ý định hành
vi – tức trung thành thương hiệu; vừa tác động trực tiếp đến các thành phần
CBBE còn lại – đại diện cho chuẩn chủ quan và thái độ). Các biến điều tiết
nhận thức và ý định – hành vi của người tiêu dùng hướng đến thương hiệu là
địa lý, giới tính, tuổi, thu nhập, chủng loại sản phẩm và xuất xứ thương hiệu.
CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ SƠ BỘ
3.1. Qui trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu tổng thể được thực hiện qua 03 bước chính: nghiên
cứu định tính, định lượng sơ bộ và định lượng chính thức.
H3 (+)
(a,b,c,d,e)
H2 (+)
(a,b,c,d,e)
H1 (+)
(a,b,c,d,e)
Quảng cáo Ý định (hành vi)
Mật độ
phân phối
CSM
Chất lượng
cảm nhận
Niềm tin
thương hiệu
Trung thành
thương hiệu
Liên tưởng
thương hiệu
Nhận biết
thương hiệu
H4 (+) H5 (+)
H6 (+) H7 (+)
H8 (+)
10
3.2. Nghiên cứu định tính
3.2.1. Thiết kế nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính nhằm: (i) khám phá, xác định các thành phần CBBE,
trường hợp sản phẩm sữa tại thị trường Việt Nam; (ii) khám phá, khẳng định
các công cụ marketing mix được các doanh nghiệp trong ngành sữa áp dụng
phổ biến tại thị trường Việt Nam; bên cạnh đó, cũng xác định chủng loại sữa
được tiêu dùng nhiều nhất tại Việt Nam; (ii) khám phá vai trò và tầm ảnh hưởng
của CSM trọng tạo dựng CBBE; từng bước xây dựng nội dung và thang đo
khái niệm “CSM cảm nhận” (CSM ở góc độ nhận thức của người tiêu dùng);
(iii) xây dựng, điều chỉnh và bổ sung các biến quan sát để đo lường các khái
niệm nghiên cứu liên quan. Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua
thảo luận trực tiếp với từng chuyên gia (2 đợt, 10 chuyên gia/đợt) và thảo luận
nhóm với đối tượng người tiêu dùng (2 nhóm, tổng cộng là 13 người tiêu dùng).
3.2.2. Kết quả quan trọng từ phỏng vấn chuyên gia (lần 1 và 2)
Các hoạt động/công cụ marketing truyền thống (marketing mix) được các
doanh nghiệp sữa tại Việt Nam áp dụng phổ biến, theo tuần tự là (1) phân phối
(phát triển, mở rộng kênh bàn hàng), (2) quảng cáo (nội dung và cường độ/tần
xuất), (3) khuyến mãi, (4) giá cả và sản phẩm (chủng loại và bao bì).
Hai loại sữa được tiêu dùng phổ biến là sữa bột và sữa nước (sữa tươi).
Kết quả này cũng sát hợp với báo cáo, thống kê từ nhiều đơn vị nghiên cứu
thị trường như EVBN (2016), Stoxplus (2018), VDA (2018, 2019), VIRAC
(2018, 2019). Qua đó, nghiên cứu về CBBE sản phẩm sữa tại thị trường Việt
Nam được giới hạn trong 2 loại sữa là sữa bột và sữa tươi.
Tổng kết các luồng ý kiến, CBBE (sản phẩm sữa) gồm 5 thành phần, xuất
hiện 01 thành phần mới (so với dự kiến ban đầu), là Niềm tin thương hiệu.
CSM cảm nhận được xem là khả năng người tiêu dùng phân biệt hay nhận
dạng được giữa trách nhiệm/cam kết của doanh nghiệp với người tiêu dùng
(đảm bảo lợi ích của người mua/người tiêu dùng nói chung) với những trách
nhiệm khác của doanh nghiệp đối với các vấn đề xã hội như bảo vệ môi
trường, thiện nguyện cộng đồng (đóng góp tài lực), chủ động hoặc tham gia
tổ chức thực hiện các chương trình chăm lo giáo dục và y tế/sức khoẻ cộng
11
đồng, cải thiện an sinh – phúc lợi xã hội, thúc đẩy bình đẳng xã hội,...
Với 15 phát biểu của khái niệm nghiên cứu “CSM cảm nhận” (gợi ý ban
đầu) đã được các chuyên gia đánh giá và điều chỉnh nội dung để hình thành
các biến quan sát phản ánh được nội dung của khái niệm này. Căn cứ kết quả
đánh giá sự trùng lắp, tính mơ hồ, không liên quan đến nội dung khái niệm;
10 phát biểu được giữ lại phục vụ cho bước nghiên tiếp theo (các phát biểu
được điều chỉnh cách đặt câu, từ ngữ cho dễ hiểu, mô tả sát hợp với nội dung
của khái niệm CSM, CSM cảm nhận và phù hợp với bối cảnh nghiên cứu).
Tổng cộng 58 biến quan sát (“thang đo nháp 1a”) được dùng để đo lường
8 khái niệm nghiên cứu (trong mô hình) được kí hiệu mã hoá và lấy ý kiến
đánh giá từ các chuyên gia (lần 2). Kết quả thảo luận tay đôi cùng các chuyên
gia (lần 2) đã hình thành “thang đo nháp 1b”, gồm 61 biến quan sát dùng để đo
lường các khái niệm nghiên cứu, được sử dụng ở các cuộc thảo luận nhóm.
3.2.3. Kết quả chính yếu từ Thảo luận nhóm
Hầu hết người tiêu dùng tham gia thảo luận đều cảm nhận được mục đích
và ý nghĩa của các chương trình CSM của các doanh nghiệp sữa; họ tỏ thái độ
đồng tình, đánh giá cao về các chương trình CSM được các doanh nghiệp sữa
tài trợ - đóng góp hoặc thực hiện tại Việt Nam trong thời gian qua.
Kết quả thảo luận nhóm là hình thành “thang do nháp 2” gồm 51 biến quan sát
dùng để đo lường 08 khái niệm nghiên cứu: nhận biết thương hiệu, liên tưởng
thương hiệu, chất lượng cảm nhận, trung thành thương hiệu, niềm tin thương hiệu,
quảng cáo, mật độ phân phối và CSM (cảm nhận). Đây là các thang đo được sử
dụng cho nghiên cứu định lượng ở mục kế tiếp.
3.3. Kết quả nghiên cứu định lượng sơ bộ
Nghiên cứu định lượng sơ bộ nhằm điều chỉnh và xác định lại cấu trúc
thang đo để sử dụng cho nghiên cứu chính thức. Tác giả thực hiện phỏng vấn
trực tiếp 100 đáp viên (người trên 18 tuổi, mua dùng trực tiếp, thường xuyên
các sản phẩm sữa) tại các điểm mua sắm phổ biến trong Tp.HCM.
Kết quả: 51 biến quan sát dùng để đo lường 08 khái niệm nghiên cứu sau
khi phân tích độ tin cậy thông qua hệ số Cronbach’s Alpha thì 16 biến bị loại.
12
Tổng 35 biến quan sát (còn lại) này đều thỏa mãn các chỉ tiêu trong phân tích
nhân tố khám phá EFA, vì vậy được sử dụng trong định lượng chính thức.
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ CHÍNH THỨC VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng chính thức thông qua phỏng vấn 850 đáp viên theo
phương pháp lấy mẫu thuận tiện; phỏng vấn trực tiếp người tiêu dùng (cá nhân
trên 18 tuổi, người thường xuyên và trực tiếp mua/dùng các sản phẩm sữa) tại
Tp.HCM (500) và Hà Nội (350) bằng bảng hỏi chính thức (thang đo Likert 5
điểm, thực hiện điều chỉnh tên thương hiệu sữa để hình thành 10 mẫu bảng
câu hỏi gắn với 10 thương hiệu sữa phổ biến được chọn nghiên cứu). Trong
850 phiếu trả lời thu về, có 780 phiếu hợp lệ.
Bảng 4.1: Thống kê mô tả mẫu
Đặc tính mẫu Tần suất (%) Đặc tính mẫu Tần suất (%)
Giới tính
Nam 265 (33,97%)
Loại sữa
Sữa tươi 397 (50,90%)
Nữ 515 (66,03%) Sữa bột 383 (49,10%)
Khu vực
Tp.HCM 477 (61,15%)
Xuất xứ
Nội 462 (59,23%)
Hà Nội 303 (29,74%) Ngoại 318 (40,77%)
Thu nhập
< 7 triệu 260 (33,33%)
Nhóm
tuổi
18 – 29 232 (29,74%)
7 – 12 triệu 241 (30,90%) 30 – 39 286 (36,67%)
> 12 triệu 279 (35,77%) > 40 tuổi 262 (33,59%)
4.2. Kết quả nghiên cứu định lượng chính thức
Kết quả phân tích độ tin cậy các thang đo và nhân tố khám phá (EFA)
Tổng cộng 8 thang đo với 35 biến quan sát được đánh giá lần lượt độ tin
cậy. Kết quả cho thấy tất cả các biến đều có hệ số Cronbach Alpha lớn hơn
0,6 (trong khoảng: 0,815 – 0,897), và tương quan biến tổng đều lớn hơn 0,3.
Tổng cộng 35 biến quan sát sau khi phân tích EFA thì được rút thành 08
nhân tố với tổng phương sai trích là 68,224% (> 50%) tại Eigenvalue là 1,181
(> 1); hệ số KMO = 0,905 (thỏa điều kiện: 0,5 < KMO < 1); kiểm định Bartlett
có Sig = 0,000 (< 0,05) nên thoả mãn các điều kiện trích nhân tố.
13
Kết quả phân tích nhân tố khẳng định (CFA)
Kết quả CFA chuẩn hoá cho thấy mô hình tới hạn đạt độ tương thích với
dữ liệu thị trường (với các giá trị: Chi bình phương = 1174,560; df = 532;
Cmin/df = 2,208; TLI = 0,948; CFI = 0,954; RMSEA = 0,039). Các chỉ số
này cũng cho kết luận tính đơn hướng của các thang đo trong mô hình.
Các hệ số tương quan kèm với sai lệch chuẩn cho thấy chúng đều khác 1,
đồng nghĩa các khái niệm nghiên cứu đạt giá trị phân biệt; sai số của các biến
đo lường không có tương quan với nhau; các trọng số nhân tố (λi) đều lớn hơn
0,5 và có ý nghĩa thống kê, nghĩa là các thang đo đạt giá trị hội tụ.
Kết quả kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu
Kết quả phân tích cấu mô hình trúc tuyến tính (SEM) cho thấy: mô hình
có giá trị Chi bình phương = 1715,519, bậc tự do df = 540; Cmin/df = 3,177
với giá trị p – value = 0,000 (< 0,05) thì chưa thỏa mãn như mong đợi. Tuy
nhiên, các chỉ tiêu TLI = 0,906; CFI = 0,915; RMSEA = 0,053 cho thấy mô
hình nghiên cứu tương thích với dữ liệu thu thập từ thị trường.
Kết quả kiểm định 20 giả thuyết đề xuất (hình 2.5), có 18 giả thuyết được
chấp nhận ở độ tin cậy 95%, giả thuyết H2d (mối quan hệ tác động tích cực
của quảng cáo đến niềm tin thương hiệu) được xem xét chấp nhận ở độ tin cậy
90% (Hair và cộng sự, 2009); ngoài ra, bác bỏ giả thuyết H2e (mối quan hệ
của quảng cáo đến trung thành thương hiệu) do chưa ý nghĩa thống kê.
Kiểm định vai trò điều tiết
Kỹ thuật phân tích đa nhóm được sử dụng để kiểm định vai trò điều tiết
của các nhóm biến (giới tính, địa lý, tuổi, thu nhập, chủng loại sữa và xuất xứ
thương hiệu); kiểm định cho thấy không có sự khác biệt về các mối quan hệ.
tác động đến các thành phần CBBE. Kết quả này cũng cho thấy tính ổn định
của mô hình lý thuyết trong đo lường tác động của marketing đến CBBE;
trong phân tích ý định – hành vi của người tiêu dùng hướng đến thương hiệu
(sản phẩm sữa), theo quan điểm hành vi người tiêu dùng dựa trên nhận thức.
4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu đã mang lại những phát hiện quan trọng, bổ sung và
củng cố cho những phát hiện, nhận định từ những nghiên cứu trước đây. Tăng
14
tính đại diện dựa trên bằng chứng thực nghiệm về CSM, cụ thể là CSM cảm
nhận (ở góc độ người tiêu dùng); đa dạng quan điểm tiếp cận trong đo lường
về CBBE; phong phú mô hình thực nghiệm về CBBE, về mối quan hệ giữa
marketing và CBBE tại một thị trường chuyển đổi (Việt Nam), trong lĩnh vực
khác (ngành hàng sữa), và thời điểm khác (2018 – 2019).
Một là, Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận thức, thái độ và niềm tin của
người tiêu dùng đối với các hoạt động CSM. Kết quả hàm ý rằng, ngày nay
người tiêu dùng (sản phẩm sữa) nhận dạng và phân biệt được các hình thức
CSM; họ đã và đang quan tâm, ủng hộ những hoạt động CSM có ý nghĩa,
mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng – xã hội. Kết quả là bằng chứng ủng
hộ khuyến nghị nghiên cứu thực nghiệm về CSM ở góc độ nhận thức và hành
vi của người tiêu dùng từ nhiều tác giả (vd, Bloom và cộng sự, 2006; Inoue
và Kent, 2014; Deshpane, 2016; Truong và Hall, 2016).
Kết quả củng cố nhiều nhận định như: CSM ngày càng được áp dụng phổ
biến (Drumwright, 1996; Drumwright và Murphy, 2001); khuynh hướng sử
dụng CSM ngày càng gia tăng (Hoeffler và Keller, 2002; Truong và Hall,
2013, 2016); áp dụng CSM là một khuynh hướng rõ rệt vì kết nối được mục
đích hoạt động marketing của doanh nghiệp với những yêu cầu thiết thực của
xã hội (Andreasen, 1994, 2002; Kotler và cộng sự, 2012); CSM tạo ra lợi ích
xã hội và lợi nhuận kinh doanh (Du và cộng sự, 2008); CSM gia tăng ấn tượng
của doanh nghiệp với người tiêu dùng (Lichtenstein và cộng sự, 2004); CSM
thể hiện rõ nét chức năng đạo đức của thương hiệu (Kapferer, 1997, 2008).
Hai là, CSM (cảm nhận), quảng cáo và mật độ phân phối tác động tích cực
đến các thành phần CBBE. Phù hợp với nhận định của nhiều học giả cho rằng
các hoạt động marketing là tác nhân hình thành – gia tăng CBBE như: Keller
(1993, 2003), Keller và Lehmann (2003); Pappu và Quester (2008), Berry
(2000), Yoo và cộng sự (2000), Ailawadi và cộng sự (2003); CBBE được hình
thành trong tâm trí của người tiêu dùng, có nguồn gốc từ những nỗ lực
marketing thương hiệu (Hsieh, 2004; Leone và cộng sự, 2006; Keller, 2008;
Tong và Hawley, 2009a; Christodolides và De Chernatony, 2010).
CSM ý nghĩa với doanh nghiệp lẫn xã hội, hiệu quả hơn so với marketing
truyền thống trong tạo dựng CBBE (được trình bày trong bảng 4.13). Kết quả
15
cũng là bằng chứng thực nghiệm cho nghiên cứu case study của Hoeffler và
Keller (2002). Thêm vào đó, kết quả kiểm định CSM (cảm nhận) tác động tích
cực đến chất lượng cảm nhận là một phát hiện mới của tác giả.
Kết quả này cổ vũ các doanh nghiệp sữa đầu tư nhiều hơn nữa vào các
sáng kiến/chương trình CSM – phù hợp với các khẳng định: “Marketing xã
hội của doanh nghiệp có thể mang lại cho một thương hiệu những lợi thế cần
thiết để giành được trái tim và tâm trí của những người tiêu dùng đầy hoài
nghi trong thị trường phức tạp, siêu cạnh tranh hiện nay” (Bloom và cộng sự,
2006, trang 55); CSM hỗ trợ phát triển thị trường, gia tăng doanh số hoặc cải
thiện ấn tượng về doanh nghiệp (Bhattacharya và cộng sự, 2005; Bloom và
cộng sự, 1997; Kotler và Lee, 2005b); CSM khác biệt hóa doanh nghiệp so
với đối thủ cạnh tranh bằng cách tạo dựng mối liên kết tình cảm cũng như tinh
thần với người tiêu dùng (Meyer, 1999); nâng cao tín nhiệm và lòng trung
thành của người tiêu dùng (Inoue và Kent, 2012, 2014).
Ba là, xác định CBBE (sản phẩm sữa tại thị trường Việt Nam) bao gồm và
chịu tác động bởi 05 thành phần: nhận biết thương hiệu, liên tưởng thương
hiệu, chất lượng cảm nhận, niềm tin thương hiệu, và trung thành thương hiệu.
Kết quả nghiên cứu củng cố quan điểm tiếp cận nghiên cứu và đo lường tài
sản thương hiệu ở góc độ người tiêu dùng, tức CBBE (Wood, 2000; Hsieh,
2004; Anderson, 2007, 2011; Kartono và Rao, 2009a, b; Christodolides và De
Chernatony, 2010); để xây dựng và phát triển một thương hiệu thì cần phải
hiểu rõ về CBBE, phải nắm bắt và đo lường được CBBE (Baker và cộng sự,
2005; Keller và Lehmann, 2006; Crescitelli và Figueiredo, 2009; Nguyễn
Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2011; Baalbaki và Guzmán, 2017); cần
phải nghiên cứu, kiểm định CBBE tại các quốc gia (văn hoá, kinh tế, thói quen
tiêu dùng,) khác nhau và trên nhiều ngành hàng khác nhau (Washburn và
Plank, 2002; Kocak và cộng sự, 2007; Bick, 2009; Oliveira và cộng sự, 2015).
Khái niệm niềm tin thương hiệu (brand trust) lần đầu tiên được kiểm định
trong ngành hàng sữa ở thị trường Việt Nam (bối cảnh nghiên cứu về CBBE).
Sự tồn tại của “Niềm tin thương hiệu” là một thực tế vì nó thể hiện nhận thức
của người tiêu dùng Việt (Nielsen, 2015, 2017), vì liên quan chặt chẽ đến
thành công của thương hiệu và doanh nghiệp (Interbrand, 2018); là cơ hội để
16
doanh nghiệp phát triển hay mở rộng thương hiệu – điều này đã được đề cập
bởi Bainbridge (1997); là phương tiện để tạo dựng, gìn giữ và nâng cấp thành
công mối quan hệ giữa người tiêu dùng với thương hiệu (Labahn và Kohli,
1997; Hiscock, 2001; Keller, 2003; Atilgan và cộng sự, 2009); là nhân tố quan
trọng tác động đến hành vi dùng thử và tiêu dùng (Krishnan, 1996; Keller,
1993), và tác động tích cực đến trung thành thương hiệu (Chaudhuri và
Holbrook, 2001; Delgado-Ballester và Munuera-Aleman, 2001).
Bốn là, hoạt động marketing khác nhau tác động tích cực đến từng thành
phần CBBE với mức độ khác nhau (dựa trên trọng số chuẩn hoá, bảng 4.8).
Bảng 4.8: Tóm tắt kết quả đánh giá tác động của marketing đến CBBE
Hoạt động
marketing
Trọng số tác động tích cực (chuẩn hoá)
Nhận biết
thương
hiệu
Liên tưởng
thương hiệu
Chất lượng
cảm nhận
Niềm tin
thương
hiệu
Trung thành
thương hiệu
CSM 0,278 0,227 0,232 0,156 0,101
Quảng cáo 0,080 0,102 0,132 0,070 -
Phân phối 0,199 0,142 0,094 0,107 0,098
(Nguồn: Kết quả tổng hợp của tác giả)
Nhận biết thương hiệu chịu tác động bởi CSM, quảng cáo và mật độ phân
phối. Kết quả mật độ phân phối tác động tích cực đến nhận biết thương hiệu
góp phần củng cố kết quả thực nghiệm của một số tác giả (vd., Nguyen và
cộng sự, 2011; Lê Đăng Lăng và Lê Tấn Bửu, 2014b; Kim và Hyun, 2011;
Ebeid, 2014). Kết quả quảng cáo (cảm nhận) tăng nhận biết thương hiệu ủng
hộ một số kết luận trước đây theo nhiều hướng thực nghiệm, chẳng hạn nhận
biết thương hiệu chịu tác động bởi chi tiêu quảng cáo (Ramos và Franco, 2005;
Nguyen và cộng sự, 2011; Buil và cộng sự, 2013; Ebeid, 2014; Darabjerdi và
cộng sự, 2016; Lê Tấn Bửu và Lê Đăng Lăng, 2017); bởi thái độ với quảng
cáo của các tác giả Nguyen và cộng sự (2011), và Buil và cộng sự (2013).
Liên tưởng thương hiệu chịu tác động bởi CSM và các hoạt động
marketing truyền thống. Kết quả quảng cáo tác động tăng liên tưởng thương
hiệu góp phần củng cố một số kết quả trước đây, chẳng hạn, thực nghiệm về
mối quan hệ của chi tiêu quảng cáo (cảm nhận) tăng liên tưởng thương hiệu
17
của Ramos và Franco (2005) và Ebeid (2014); thái độ với quảng cáo tăng các
liên tưởng thương hiệu của Buil và cộng sự (2013) và Darabjerdi và cộng sự
(2016). Kết quả kiểm định mật độ phân phối tác động tích cực đến liên tưởng
thương hiệu (trọng số chuẩn hoá là 0,142) là một phát hiện mới của tác giả.
Chất lượng cảm nhận chịu tác động tích cực bởi CSM và các hoạt động
marketing truyền thống. Kết quả mật độ phân phối tác động tích cực đến chất
lượng cảm nhận góp phần củng cố kết quả thực nghiệm của Yoo và cộng sự
(2000), Kim và Hyun (2011) và Ebeid (2014). Phù hợp với kết quả thực
nghiệm về mối quan hệ của chi tiêu quảng cáo (cảm nhận) tác động tích cực
đến chất lượng cảm nhận của một số tác giả (vd, Yoo và cộng sự, 2000; Gil
và cộng sự, 2007; Ramos và Franco, 2005; Darabjerdi và cộng sự, 2016); về
mối quan hệ tác động của thái độ với quảng cáo gia tăng chất lượng cảm nhận
của tác giả Buil và cộng sự, 2013, và Nguyen và cộng sự (2011). Kết quả kiểm
định mối quan hệ tác động tích cực của CSM đến chất lượng cảm nhận (trọng
số chuẩn hoá là 0,232) là một phát hiện mới của tác giả.
Kết quả mật độ phân phối tác động tích cực đến chất lượng cảm nhận góp
phần củng cố kết quả thực nghiệm của các tác giả trước đây (Yoo và cộng sự,
2000; Kim và Hyun, 2011; Ebeid, 2014); phù hợp với kết quả quảng cáo tác
động tích cực đến chất lượng cảm nhận của nhiều tác giả (Yoo và cộng sự,
2000; Gil và cộng sự, 2007; Ramos và Franco, 2005; Nguyen và cộng sự,
2011; Buil và cộng sự, 2013; Darabjerdi và cộng sự, 2016).
Niềm tin thương hiệu chịu tác động bởi CSM và các hoạt động marketing
truyền thống. Kết quả kiểm định mật độ phân phối và quảng cáo tác động tích
cực đến niềm tin thương (trọng số chuẩn hoá lần lượt là 0,107 và 0,070) là
các phát hiện mới của tác giả.
Trung thành thương hiệu chịu tác động của CSM, phù hợp với nhận định
của Bloom và cộng sự (1997, 2006) và Kotler và Lee (2005a, b), Inoue và
Kent (2012, 2014); bổ sung kết quả thực nghiệm cho case study của Hoeffler
và Keller (2002) ở hai khía cạnh là CSM gợi nên cảm xúc thương hiệu và hình
thành cam kết thương hiệu. Kết quả mật độ phân phối tác động tích cực đến
trung thành thương hiệu góp phần củng cố kết quả thực nghiệm của các tác
giả như Yoo và cộng sự (2000), Kim và Hyun (2011) và Ebeid (2014).
18
Năm là, có mối quan hệ tác động tích cực giữa các thành phần CBBE.
Trung thành thương hiệu chịu sự tác động tích cực bởi: nhận biết thương hiệu,
liên tưởng thương hiệu, chất lượng cảm nhận, niềm tin thương hiệu (giả thuyết
H4, H5, H6 và H7 với trọng số chuẩn hoá lần lượt là 0,210, 0,333, 0,260 và
0,235). Chất lượng cảm nhận tác động mạnh niềm tin thương hiệu (giả thuyết
H8, trọng số chuẩn hoá 0,462); nghĩa là bên cạnh các hoạt động marketing,
chất lượng cảm nhận là cơ sở/lý do quan trọng để người tiêu dùng sẵn lòng
tin tưởng thương hiệu (sản phẩm sữa). Kết quả kiểm định về mối quan hệ giữa
các thành phần CBBE hàm ý tầm quan trọng của từng thành phần trong cấu
thành nên CBBE, trong hình thành và gia tăng trung thành thương hiệu – sự
thành công của một thương hiệu (Wood, 2000; Buil và cộng sự, 2013). Kết
quả phù hợp nhiều nhận định như: “tài sản thương hiệu bắt nguồn từ những
tiếng nói và hành động của người tiêu dùng” của Keller và Lehmann (2006,
trang 14); tán đồng quan điểm nắm bắt mối quan hệ giữa các thành phần
CBBE là một nhiệm vụ quan trọng (Lehmann và cộng sự, 2008; Buil và cộng
sự, 2013); và “cung cấp cho nhà quản lý các sự thật ngầm hiểu (insights) hữu
ích trong nỗ lực xây dựng thương hiệu” (Buil và cộng sự, 2013, trang 69).
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý
5.1. Kết quả nghiên cứu và đóng góp đối với mô hình đo lường
Thang đo khái niệm CSM ở góc độ người tiêu dùng, cụ thể là “CSM cảm
nhận” (Perceived CSM) là thang đo phát triển mới và được kiểm định trong
ngành hàng sữa tại thị trường Việt Nam, gồm 04 biến quan sát.
Thang đo khái niệm “CSM cảm nhận” là một đóng góp ý nghĩa, góp phần
xây dựng và phát triển thang đo lường để đánh giá tác động của CSM đến các
thành phần CBBE (theo quan điểm hành vi người tiêu dùng dựa trên nhận
thức). Kết quả nghiên cứu không những bổ sung bằng chứng thực nghiệm cho
nghiên cứu case study của Hoeffler và Keller (2002), mà còn phát hiện một
mối quan hệ mới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_tac_dong_cua_marketing_xa_hoi_cua_doanh_nghi.pdf