Đánh giá thông tin về giáo dục đào tạo trên các báo khảo sát
Những kết quả đạt được
- Về nội dung: Tác động đến chính sách giáo dục; Tác động các hoạt động dạy và học trong các nhà trường; Tác động đến đổi mới quản lý giáo dục, đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục; Tác động đổi mới thi và tuyển sinh Đại học - Cao đẳng; Tác động các cuộc vận động và phong trào thi đua trong ngành Giáo dục
- Về hình thức, các báo khảo sát cũng cải tiến cách viết bài cho phóng viên cũng như cách biên tập bài báo sao cho ngắn gọn và đủ ý, nhiều thông tin bổ ích. Cho nên các tác phẩm báo chí trên báo về GDĐT đã đi vào phản ánh vấn đề trọng tâm hơn, bỏ qua những nội dung phụ, tập trung phản ánh những chi tiết đắt trong bài. Các bài viết đa phần cũng không đặt nặng về số từ để tránh gây cảm giác quá vất vả cho người đọc. Các tin thường dao động trong phạm vi 200- 300 chữ. Các bài phản ánh, phân tích, bài phỏng vấn chuyên gia thường trong không quá 900 - 1200 chữ. Độ dài này rất phù hợp với đặc điểm của báo giấy và thói quen tiếp nhận thông tin của công chúng hiện nay.
Các bài viết được trình bày dễ nhìn. Đầu đề được in đậm, phóng to, sapo được in đậm, các đoạn được ngắt quãng hợp lý, không dài quá khiến người đọc mệt mỏi và có thời gian nghỉ cần thiết, đồng thời các nội dung khác nhau cũng được chia tách rõ ràng. Ngoài ra, hình ảnh minh họa sử dụng phù hợp, chú thích ảnh được in nghiêng, dễ nhìn. Đặc biệt, báo đã tận dụng tối đa tính tương tác của báo chí hiện đại. Các bài đều có địa chỉ của hòm thư điện tử để nhận và trả lời phản hồi của độc giả.
Những hạn chế
Hạn chế về nội dung:
- Nội dung về thông tin giáo dục và đào tạo phần lớn là phản biện, góp ý (đây là một chức năng của báo chí hết sức quan trọng và ý nghĩa đối với sự phát triển của giáo dục) những nội dung này chiếm quá lớn làm cho độc giả có cảm giác đọc về giáo dục chỉ có mà xám. Trong khi đó, báo chí thực hiện các chức năng thông tin về giáo dục và đào tạo còn là thông tin góp phần phổ biến, nâng cao kiến thức, động viên, cổ vũ thầy và trò dạy tốt, học tốt.
- Việc phản ánh, phân tích góp ý chuyên sâu lĩnh vực giáo dục đào tạo đôi khi còn có những bài chưa phân tích ở nhiều góc độ khách quan về chủ trương, chính sách, pháp luật và thực tế dẫn đến người đọc khó hiểu hoặc dẫn đến hoang mang cho học sinh, sinh viên.
- Nhiều đề tài chưa hay, chưa hấp dẫn, đề tài nhỏ lẻ, vụn vặt. Các chủ đề, đề tài phân phối không đồng đều.
- Phản ánh các cuộc vận động và phong trào trong ngành giáo dục chưa đầy đủ và quá chú trọng vào việc tìm kiếm những việc làm tiêu cực hay những vụ việc nhỏ lẻ.
- Nhiều bài viết còn khá hời hợt, viết nội dung mang tính chủ quan, dựa trên quan điểm riêng của tác giả khiến bài viết thiếu sức thuyết phục. Nhiều bài viết đặt ra vấn đề nhưng không giải quyết triệt để, kết bài vội vàng gây hụt hẫng cho độc giả.
- Ngôn ngữ sử dụng trong cách rút “tít” chưa mang tính giáo dục, dễ làm cho người đọc hiểu theo nhiều nghĩa.
- Hạn chế về tính thời sự và tính phản biện của báo ngành.
Hạn chế về hình thức:
- Tính hấp dẫn trong trình bày của mỗi tờ báo còn hạn chế.
- Bố trí sắp xếp thông tin chưa hợp lý.
- Hình thức, phương thức thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in hiện nay còn khá khô cứng, dập khuôn, ít cải tiến.
- Các đề tài, chủ đề, vấn đề phản biện các báo in chưa thông tin chuyên sâu, đa chiều.
- Thông tin về GDĐT vẫn còn rất nhiều những “hạt sạn” trong việc sử dụng ảnh như ảnh kém chất lượng, ảnh chụp chưa đẹp.
25 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ket) phát cho đối tượng tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, tổng số phiếu là 500 phiếu, bao gồm: Hà Nội 180 phiếu, Đà Nẵng 140 phiếu, thành phố Hồ Chí Minh 180 phiếu. Số phiếu thu về sau điều tra là 483 phiếu.
Các đối tượng cụ thể: Ở mỗi thành phố chúng tôi lựa chọn đối tượng để phát phiếu như sau: học sinh (chọn 1 trường THPT, 1 trường THCS, mỗi trường 1 lớp), sinh viên (chọn 3 trường đại học ở 3 thành phố thuộc 3 khối A, B, C, mỗi trường 1 lớp), giáo viên (chọn 1 số giáo viên Tiểu học, Phổ thông và đại học), cán bộ quản lý giáo dục (Hiệu trưởng đại học, phổ thông, sở Giáo dục và Đào tạo, Vụ trưởng Vụ chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo), người dân (phụ huynh học sinh Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, đại học), theo đó có các cứ liệu và cơ sở giúp tác giả thực hiện luận án.
Với những phiếu điều tra bằng bảng hỏi (anket), chúng tôi sử dụng phần mềm xử lý số liệu định lượng SPSS 16.0.
- Phương pháp phỏng vấn sâu (Phỏng vấn chuyên gia) : với hình thức phỏng vấn đặt câu hỏi với 20 đến 30 người trả lời là những đối tượng: lãnh đạo cơ quan quản lý báo chí (Tổng biên tập một tờ báo, trưởng, phó ban giáo dục của báo): 04 mẫu; phóng viên theo dõi giáo dục (các phóng viên hiện đang theo dõi giáo dục được các báo giới thiệu đến Bộ Giáo dục và Đào tạo): 10 mẫu; Công chúng (Chọn trong số những người điều tra XHH, mỗi thành phố chọn 2-3 người bất kỳ, thường xuyên đọc thông tin về GDĐT hoặc liên quan đến lĩnh vực GDĐT như giáo viên, quản lý giáo dục, học sinh, sinh viên): 08 mẫu. Từ đó, tập hợp các cứ liệu thực tế phục vụ cho đề tài nghiên cứu. Với phương pháp phỏng vấn sâu, chúng tôi sử dụng phần mềm xử lý dữ liệu định tính Nvivo 8.0.
- Phương pháp quan sát: tiến hành khi thực hiện phỏng vấn sâu, điều tra xã hội học và tiến hành các nghiên cứu. Mục đích để xem xét hoạt động của các cơ quan báo in, hoạt động tiếp nhận thông tin GDĐT của công chúng; các biểu hiện về nhận thức, thái độ, hành vi của công chúng và những người xây dựng các sản phẩm báo chí liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Kết quả quan sát sẽ là cơ sở để thực hiện nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp phân tích nội dung văn bản
- Mô tả về phương pháp: Phân tích nội dung văn bản là phương pháp phân tích tài liệu bài viết (có thể dưới dạng in ấn hoặc nghe nhìn) nhằm lượng hoá nội dung một cách có hệ thống, có thể nhân rộng dựa trên các tiêu chuẩn đã được xác định. Phân tích nội dung được đề cập ở đây (phân tích nội dung định lượng) khác với hai phương pháp phân tích nội dung thông tin khác đó là (1) Ký hiệu học – một phương pháp phân tích văn bản và các hiệu tượng khác nhấn mạnh việc tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của các hiện tượng này; (2) Phân tích nội dung mang tính dân tộc học, phương pháp tiếp cận văn bản theo hướng nhận mạnh vai trò của người điều tra trong việc xây dựng ý nghĩa của bài viết và trong toàn bộ quá trình phân tích nó. Phương pháp này được xem là phương pháp phân tích định tính trong đó yếu tố ngữ cảnh đóng vai trò quan trọng trong việc phân loại số liệu và xây dựng các ý nghĩa.
Bước tiếp theo của phần phân tích định lượng là phải quyết định xem cần xem xét những gì. Tất nhiên, việc quyết định phải xem xét cái gì trong quá trình phân tích nội dung bị ảnh hưởng các câu hỏi nghiên cứu. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu không chỉ phân loại dựa vào nội dung hiển nhiên mà còn cả những nội dung ẩn ý. Cần dò tìm dưới bề mặt để đặt câu hỏi sâu hơn về những sự việc đang diễn ra; (4) Khuynh hướng cũng là vấn đề mà các nhà nghiên cứu quan tâm tìm kiếm khi phân tích nội dung. Đó là sự thay đổi, mối quan tâm, niềm tin hay các nguyên tắc.
Mã hoá là bước trung tâm và đặc biệt nhất của phân tích nội dung. Có 2 yếu tố chính trong bước này là thiết một một bảng mã và thiết kế một sổ tay mã hoá. Bảng mã là một biểu/ bảng mẫu trong đó có tất cả các số liệu kiên quan tới một vấn đề được mã hoá được điền vào. Bảng này được đơn giản hoá để hỗ trợ các tranh luận về các nguyên tắc mã hoá trong phân tích nội dung và nguyên tắc xây dựng bảng mã nói riêng. Mỗi cột trong bảng mã sẽ là một khía cạnh được mã hoá. Đầu đề của các cột sẽ là các khía cạnh được mã hoá, các cột sẽ được đánh số. Mỗi mẫu sẽ dùng cho một bài được mã hoá. Các mã số sau đó có thể được chuyển thành một tệp sữ liệu máy tính cho việc phân tích bằng phần mềm SPSS. Để giúp điềm thông tin đúng và thống nhất vào bảng mã này, cần có sổ tay mã hoá. Sổ tay mã hoá là các hướng dẫn chi tiết cho người thực hiện mã hoá.
Trong luận án này, tất cả các bài viết về Giáo dục đào tạo được xem xét kỹ lưỡng trên 4 tờ báo in Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Nhân Dân, Giáo dục và Thời đại trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2010.
- Mẫu nghiên cứu bao gồm các thông tin về các tờ báo được lựa chọn để phân tích, hình thức đăng tải, chuyên mục đăng tải, nguồn và thời gian đăng tải. Các thông tin này giúp người nghiên cứu có một cái nhìn tổng thể về mẫu nghiên cứu.
- Cách thức chọn mẫu: Tất cả các bài báo liên quan, đề cập đến GDĐT trong khoảng thời gian nghiên cứu đều được sưu tầm. Với phương pháp lẫy mẫu ngẫu nhiên hệ thống từ 26875 tin, bài về GDĐT trong 5 năm, tác giả lựa chọn 720 tin, bài để phân tích (Mỗi báo chọn 180 tin, bài). Trong trường hợp những bài viết trùng nhau được đăng tải trên nhiều báo sẽ lựa chọn ngẫu nhiên một bài bất kỳ, không lấy tất cả các bài báo trùng nhau hoàn toàn trong mẫu nghiên cứu. Trong trường hợp giống nhau nội dung hay tiêu đề nhưng có sự khác biệt về cách phân tích hoặc thể hiện trong bài báo thì đều được chọn trong mẫu nghiên cứu.
Thông tin thu thập từ các bảng mã viết về Giáo dục và đào tạo trên 4 báo được mã hoá, nhập và xử lý bằng chương trình SPSS 16.0. Sau khi làm sạch số liệu sẽ tiến hành biến đổi các số liệu để phục vụ cho việc lượng hoá các nhóm vấn đề có liên quan đến GDĐT và đánh giá các bài viết về GDĐT
- Phương pháp phân tích diễn ngôn: Diễn ngôn là cách nói năng, phương thức biểu đạt của con người, thế giới về các sự việc trong đời sống. Do đó, nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu ngôn ngữ. Nhưng diễn ngôn không phải là hình thức mà là tư tưởng- tư tưởng trong dạng thức thực tiễn, trên kênh truyền thông đại chúng.
Theo Sara Mills trong Discourse, có thể thấy ba cách định nghĩa khác nhau về diễn ngôn trong các trước tác của Foucault. Thứ nhất, diễn ngôn được coi là tất cả các nhận định nói chung, đó là tất cả các phát ngôn hoặc văn bản có nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong thế giới thực. Thứ hai, diễn ngôn là một nhóm các diễn ngôn cụ thể, được qui ước theo một cách thức nào đó và có một mạch lạc hoặc một hiệu lực nói chung, “được nhóm lại với nhau bởi một áp lực mang tính thiết chế nào đó, bởi sự tương tự giữa xuất xứ và bối cảnh hay bởi chúng cùng hành động theo một cách gần giống nhau”[ Sara Mills, Diễn ngôn, Cấu trúc diễn ngôn, Diễn ngôn, các diễn ngôn ]. Ví dụ, diễn ngôn nữ giới là một nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là nhằm phản kháng lại diễn ngôn về phụ nữ của đàn ông, diễn ngôn chủ nghĩa đế quốc là nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là áp đặt quyền lực thực dân lên những xứ sở thuộc địa Thứ ba, diễn ngôn là một thực tiễn sản sinh ra vô số các nhận định và chi phối việc vận hành của chúng[Sara Mills, Diễn ngôn, Dẫn nhập ]. Diễn ngôn không chỉ được coi như “một cái gì tồn tại cố hữu, tự thân và có thể được phân tích một cách cô lập[Sara Mills, Diễn ngôn ]”, là những qui tắc và cấu trúc nhằm tạo ra những phát ngôn và những văn bản cụ thể. Đó là một hệ thống của “những tư tưởng, quan điểm, khái niệm, cách thức tư duy và hành xử, những cái được hình thành trong một bối cảnh xã hội cụ thể[Sara Mills, Diễn ngôn, Dẫn nhập ]”, có một hiệu lực chung đối với cách suy nghĩ và nói năng của mỗi nhóm người cũng như mỗi cá nhân.
Thông qua phương pháp phân tích diễn ngôn, luận án làm sáng tỏ những vấn đề của thời đại thông qua thông tin GDĐT, làm rõ hơn góc nhìn quyền lực truyền thông thông qua vấn đề được đề cập; làm sáng tỏ chủ thể thể hiện thông điệp về GDĐT, đó là những thông tin mà nhà hoạch định chính sách kỳ vọng, hay những thông tin phản biện từ vấn đề bất cập của thực tiễn triển khai chính sách.
- Ngoài ra luận án còn sử dụng một số phương pháp khác như: Phương pháp so sánh; Phương pháp tổng hợp...
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu gồm:
- Thông tin về GDDT là gì và vai trò của thông tin về GDDT trên báo in?
- Mô hình thông tin về GDDT trên báo in như thế nào và có vai trò gì?
- Các yêu cầu cụ thể đối với việc thông tin về GDĐT là gì?
- Báo in cần phải làm gì và làm như thế nào để thông tin về GDDT có hiệu quả?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết thứ nhất: Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, giáo dục đào tạo luôn được Đảng, Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu và đang có sự đổi mới quyết liệt trong nhiều năm qua. Việc triển khai đổi mới một lĩnh vực liên quan đến mọi người, mọi gia đình và thực hiện không chỉ ngành giáo dục mà cả hệ thống, toàn xã hội. Vì vậy, định hướng đúng đắn các chủ trương đổi mới về giáo dục, góp ý, phản biện những hạn chế trong quản lý, cách dạy, cách họclà hết sức quan trọng của các cơ quan báo chí, trong đó có báo in. Do đó, nâng cao chất lượng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in là hết sức cần thiết.
- Giả thuyết thứ hai: Thông tin về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay, còn có những hạn chế: đưa số lượng tin bài tiêu cực, giật gân nhiều; số lượng tin, bài phản ánh tích cực, gương tập thể, cá nhân tốt trong ngành ít. Việc khảo sát, phân tích một cách khoa học thực trạng để chỉ ra được những mặt tích cực và hạn chế, cơ hội, thách thức cho báo in thực hiện tốt thông tin về giáo dục và đào tạo.
- Giả thuyết thứ ba: Thông tin về giáo dục và đào tạo của báo in góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục, đặc biệt là thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
- Giả thuyết thứ tư: Cách thông tin về GDĐT hiện nay còn hạn chế về mặt tương tác, tư duy nhận thức của mỗi tờ báo chưa tương xứng với vị trí giáo dục và đào tạo được chỉ đạo qua các chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, kiến thức hiểu biết giáo dục của phóng viên được phân công theo dõi còn hạn chế, công tác truyền thông của ngành Giáo dục còn yếu.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thông tin về giáo dục và đào tạo, báo chí nói chung, báo in nói riêng và vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in; những yêu cầu cần có đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo inKhung lý thuyết cộng với cơ sở thực tiễn làm nền tảng cho việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề liên quan đến công tác thực hiện ở mảng đề tài thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in.
- Luận án chỉ ra được thực trạng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in hiện nay, về thế mạnh, điểm tích cực, hạn chế để từ đó có nhận định khái quát về thực trạng thông tin lĩnh vực này. Luận án khẳng định vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in.
- Luận án nêu những vấn đề đặt ra của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in trong bối cảnh sự phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời khuyến nghị những giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận
Hiện nay, việc tìm hiểu TT về GDĐT trên báo chí nói chung và báo in nói riêng chưa được quan tâm đúng mức vì nhiều lý do khác nhau. Việc tìm hiểu thông điệp về GDĐT chưa được thực hiện nhiều và còn nhiều bất cập. Luận án này xác định những ưu điểm và hạn chế cụ thể của TT về GDĐT trên báo in .
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên hệ thống một cách tổng quát, chuyên sâu, cập nhật về yêu cầu nâng cao chất lượng, vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam hiện nay.
Các cơ quan báo in trước đây thường sản xuất các tác phẩm theo cách truyền thống, thiếu sự sinh động, tương tác, nay cần lưu ý đến sự cạnh tranh đối với các loại hình báo chí mới. Công chúng sẽ lựa chọn tiếp nhận dòng thông tin gì và bằng các phương tiện nào.
Luận án là đề tài hết sức cần thiết để bổ sung cho các nguồn số liệu còn thiếu của các đề tài nghiên cứu trước đây; là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác giảng dạy báo chí trong nhà trường; làm tài liệu tham khảo cho sinh viên báo chí; gợi mở hướng nghiên cứu để tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng báo chí nói chung và báo chí in nói riêng.
7.2. Giá trị thực tiễn
Luận án sẽ cung cấp cho các cơ quan báo chí nói chung và cơ quan báo in nói riêng ở nước ta có những cơ sở khoa học đáng tin cậy để đánh giá đúng về TT GDĐT hiện nay, và là cơ sở để nâng cao chất lượng các tác phẩm báo chí, từ đó tạo ra hướng đi mới cho cơ quan báo in phát triển mạnh mẽ.
Luận án góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các cơ quan báo chí với các tác phẩm báo chí của chính họ. Để có được sự phát triển tốt phù hợp với báo chí hiện đại, các cơ quan báo in cần tìm hiểu và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới cũng như cách viết tác phẩm báo chí mới. Ứng dụng các thành tựu KHKT trong cơ quan báo chí có hiệu quả không chỉ là vấn đề của riêng báo chí nước ta mà còn là của báo chí quốc gia và báo chí thế giới.
Tìm hiểu TT về GDĐT như phân tích để làm rõ thực trạng, chỉ ra đặc điểm, những ưu điểm và hạn chế thông tin về giáo dục và đào tạo, đồng thời đề xuất, khuyến nghị, giải pháp của luận án sẽ giúp cho các cơ quan báo chí có cơ sở để sản xuất các sản phẩm báo chí hấp dẫn, thiết thực; cơ sở để nâng cao các tác phẩm báo chí và nâng cao chất lượng đội ngũ người làm báo. Từng bước góp phần giúp báo in phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan vấn đề nghiên cứu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án gồm 3 chương 11 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in.
Chương 2: Thực trạng thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in ở Việt Nam.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra, giải pháp và khuyến nghị thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in ở Việt Nam hiện nay.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong phần này NCS đã nghiên cứu một số công trình nghiên cứu về giáo dục và đào tạo, về lý luận báo chí, vai trò chức năng của báo chí với thông tin về giáo dục và đào tạo ở trong và ngoài nước. Qua đó cho thấy rằng, vai trò thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí nói chung, báo in nói riêng được đề cập từ rất sớm thông qua nghiên cứu các lĩnh vực như triết học, chính trị học, luật học, báo chí học, giáo dục học, xã hội học.Các nghiên cứu này chủ yếu được nghiên cứu ở góc độ lý luận cơ bản, nghiên cứu cụ thể trong hoạt động của cơ quan báo chí, hay kỹ năng, nghiệp vụ. Theo đó, giáo dục hay cụ thể hơn là thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí được đặt trong mối quan hệ với nhà nước pháp quyền, xã hội dân chủ, báo chí phát triển. Thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí được coi là nguyên tắc cơ bản và tất yếu trong đời sống chính trị và hoạt động quản lý xã hội đối với các quốc gia.
Các nghiên cứu cũng cho thấy đã chứng minh giáo dục đào tạo là một lĩnh vực quan trọng của mỗi quốc gia, thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí là một chức năng và có vị trí quan trọng của báo chí. Tuy nhiên, cũng chưa có một nghiên cứu nào chỉ ra một cách đầy đủ, cụ thể về thông tin giáo dục đào tạo trên báo chí và ở Việt Nam, cũng như chưa chỉ ra được bản chất, nội dung, phương thức thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí nói chung và từng loại hình báo chí nói riêng. Việc nghiên cứu cho thấy, nhiều vấn đề khái niệm và bản chất, nội dung và hình thức, phương thức, phương tiện, vai trò, hiệu quả tác độngcủa thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in ở nước ta vẫn chưa được làm rõ. Các nội dung này sẽ được NCS làm sáng tỏ qua đề tài: Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in Việt Nam (Khảo sát trên các báo Nhân Dân, Giáo dục và Thời đại, “Tuổi trẻ” và Thanh Niên)
Do vậy, trong luận án này, NCS sẽ nghiên cứu để làm rõ thực trạng thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí, ý nghĩa, hiệu quả tác động của báo chí với giáo dục và đào tạo. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đã được xác định là quốc sách hàng đầu, báo chí đã luôn dành sự quan tâm và phản ánh nhiều chiều về giáo dục. Với ý nghĩa như vậy, việc thông tin trên báo chí cũng cho thấy những mặt mạnh và những mặt còn hạn chế, như: ở nhiều bài viết cần có thêm hoặc tìm hiểu sâu về kiến thức giáo dục (Mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và đại học); cần bàn thêm nhìn ở góc độ tính giáo dục trong những ngôn ngữ sử dụng trong bài hoặc đặt đầu bài
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN
- Trong Chương 1, luận án đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản thông tin về GDĐT trong đó đưa ra các khái niệm liên quan đến phạm vi, lĩnh vực thuộc phạm vi đề tài nghiên cứu, khái niệm “Thông tin”, “Giáo dục”, “Đào tạo”, “Giáo dục và đào tạo”, “Báo in” và “Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in”, đây là những cơ sở để tác giả nghiên cứu khảo sát ở những nội dung tiếp theo về thông tin báo chí nói chung và thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in nói riêng.
+Thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội được báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công chúng.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này Thông tin được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác nhau: có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi là một chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác phẩm trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ báo đều chứa đựng thông tin.
Thuật ngữ “Thông tin” trong hoạt động báo chí còn có có cách hiểu rộng hơn, chúng còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ tác phẩm, hay hệ thống những tin tức là thông tin.
Thông qua việc phân tích thông tin GDĐT trên báo in, luận án sẽ làm sáng tỏ những nội dung thông tin từ các nhà quản lý, hoạch định chính sách, thông tin phản biện những vấn đề bất cập trong triển khai chính sách giáo dục giai đoạn 2005-2010, thông qua đó, luận án nêu lên những vấn đề của thời đại thông qua việc phân tích thông tin, làm rõ hơn góc nhìn của quyền lực của truyền thông.
+ Giáo dục và đào tạo là hoạt động có tổ chức, có mục đích của xã hội, nhằm bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng lực của người.
Trong đó, giáo dục chỉ là sự bồi dưỡng và phát triển toàn diện con người từ bậc giáo dục mầm non đến trung học phổ thông.
Đào tạo chỉ sự bồi dưỡng và chuẩn bị nghề cho con người trong các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học.
Điều 4 của Luật Giáo dục năm 2005 đã nêu rõ về hệ thống giáo dục quốc dân là: “(1) Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên; (2) Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo; Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề; Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.”
+Thông tin về giáo dục và đào tạo là thông tin về một lĩnh vực cũng như các lĩnh vực khác như y tế, giao thông, môi trườngTheo đó khảo sát của tác giả thông tin về giáo dục và đào tạo là thông tin về hoạt động giảng dạy, hoạt động điều hành quản lý, hoạt động giáo dục giáo dục nói chung, bao gồm:
Quan điểm, mục tiêu và chủ trương, chính sách về giáo dục và đào tạo
Tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí về giáo dục và đào tạo
Quản lý về giáo dục - đào tạo và hệ thống các cơ quan quản lý và nội dung quản lý về giáo dục - đào tạo
Thông tin về hoạt động của giáo dục gồm: quản lý giáo dục, hoạt động nhà trường, hoạt động của học sinh, sinh viên
Nói tóm lại Thông tin về giáo dục và đào tạo bao gồm các thông tin về quan điểm, mục tiêu và chủ trương, chính sách về giáo dục và đào tạo; tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí về giáo dục và đào tạo; quản lý về giáo dục - đào tạo và hệ thống các cơ quan quản lý và nội dung quản lý về giáo dục - đào tạo; thông tin về hoạt động của giáo dục.
+Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in là thông tin về một lĩnh vực chuyên về giáo dục và đào tạo, đây là những dữ liệu đề xây dựng nên các tác phẩm báo chí trên báo in phản ánh về lĩnh vực giáo dục.
Theo Luật báo chí, báo in bao gồm: báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn. Nghị định số 51/2002/NĐ-CP, ngày 26 tháng 4 năm 2002 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí định nghĩa “Báo in: là tên gọi loại hình báo chí được thực hiện bằng phương tiện in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn)”. Căn cứ vào Luật Báo chí năm 2016, Báo in là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in.
“Báo in là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội. Trong trường hợp này, thuật ngữ báo in dùng để chỉ 2 bộ phận báo và tạp chí”. [ 63; tr 81]
-Trong chương này, tác giả cũng làm rõ đặc điểm và vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo, trong đó đi vào cụ thể từng phần đặc điểm chung và riêng. Theo đó, làm rõ vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in, cụ thể đối với cơ quan báo chí và đối với công chúng báo chí.
- Đặc điểm của thông tin báo chí: Thông tin thời sự; Thông tin có tính công khai; Thông tin có tính mục đích; Thông tin báo chí có tính phong phú, đa dạng nhiều chiều; Thông tin dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo; Thông tin tương tác; Thông tin đa phương tiện.
- Đặc điểm thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in: Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in có tính thời sự; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in có tính công khai; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in có tính mục đích; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in có tính định kỳ; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in phong phú, đa dạng; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in dễ nhớ, dễ hiểu dễ làm theo; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in có tính tương tác và tính đa phương tiện.
Vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in
- Đối với chủ thể thông tin: Chủ thể thông tin bao gồm cơ quan báo chí và nhà báo.
+ Thông tin về giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng là chất liệu hình thành nên các tác phẩm báo chí về giáo dục
+ Thông tin về GDĐT mang lại giá trị kinh tế
+ Thông tin về GDĐT tạo lập thương hiệu cho cơ quan báo in
- Đối với khách thể thông tin về GDĐT trên báo in
Khách thể thông tin GDĐT là các tập thể: các cơ quan quản lý GDĐT, các cơ quan thực thi GDĐT. Theo Nghị định Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của Chính phủ số 115/2010/NĐ-CP, các cơ quan quản lý GDĐT bao gồm: Bộ GDĐT, UBND cấp tỉnh, Sở GDĐT, UBND cấp huyện, Phòng GDĐT, UBND cấp xã. Khách thể thông tin GDĐT còn là tổ chức, cá nhân liên quan đến GDĐT, công chúng quan tâm đến thông tin GDĐT.
Vai trò của TTGDĐT đối với khách thể thông tin: Tư vấn, hoạch định chính sách GDĐT; Quản lý, giám sát, phản biện chính sách GDĐT; Cung cấp tri thức GDĐT và các giá trị văn hoá, lịch sử.
Luận án cũng trình bày cụ thể cơ sở chính trị và pháp lý của thông tin về GDĐT trên báo chí, từ đó giúp tác giả luận án nhận thức rõ vai trò quan trọng của GDĐT và có sơ sở để phân tích về giá trị các thông tin GDĐT trên báo in ở Việt Nam hiện nay.
- Những yêu cầu đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in
Đối với nội dung thông tin
- Thứ nhất, thông tin về GDĐT tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ... những ý tưởng và quyết định trong công tác đổi mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thứ hai, thông tin về giáo dục và đào tạo đảm bảo tính nhân văn, giáo dục và văn hóa.
- Thứ ba, thông tin về GDĐT đã đưa ra các mô hình giáo dục, phương pháp giảng dạy hiệu quả, giúp nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
- Thứ tư, thông tin về GDĐT chia sẻ những tấm gương, những câu chuyện tích cực và phê phán các hiện tượng tiêu cực trong GDĐT.
- Thứ năm, Thông tin về hoạt động đổi mới trong GDĐT
Yêu cầu đối với hình thức thông tin
Thông tin giáo dục và đào tạo phải thể hiện được đặc thù của báo in, trình bày đẹp, hấp dẫn, khoa học, hiện đại. Cùng với đó việc thể hiện mỗi tác phẩm báo chí phải được chú trọng việc đặt “tít” bài, “Sapo”, “Box” thông tin, ảnh phù hợp với nội dung cần phản ánh. Các thể loại báo chí phải được sử dụng phong phú, đa dạng phù hợp theo từng chủ đề, nội dung, chuyên mục, chuyên trang khác nhaunhư tin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_thong_tin_ve_giao_duc_va_dao_tao_tren_bao_in.docx