Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI Ở LÀO
2.1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài
Nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố cho thấy đầu tư là
khái niệm được xem xét dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau. Chẳng hạn dưới
góc độ kinh tế đầu tư được hiểu là khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất kinh
doanh của một chủ thể đầu tư.
Đầu tư được phân thành hai loại cơ bản là đầu tư trong nước và ĐTNN.
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.8
Đầu tư nước ngoài là việc nhà ĐTNN đưa vào Lào vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu đầu tư nước ngoài như sau: “Đầu
tư nước ngoài là loại hình kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn
bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào đó để thiết lập các cơ sở sản xuất kinh
doanh ở nước tiếp nhận đầu tư, nhờ đó họ có quyền sở hữu và tham gia quản
lý, điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích thu được lợi
nhuận từ những hoạt động đầu tư đó ”.
2.1.2. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài
- Có quan niệm cho rằng pháp luật ĐTNN là một bộ phận, hay một chế
định của tư pháp quốc tế, bởi các quan hệ đầu tư mà nó điều chỉnh có yếu tố
nước ngoài, chủ thể đầu tư là cá nhân, tổ chức nước ngoài.
- Quan niệm khác lại cho pháp luật ĐTNN không thuộc một ngành luật nào,
mà là ở vùng giao thoa của nhiều ngành luật, song gần gũi với ngành luật kinh tế.
- Bên cạnh đó quan niệm coi pháp luật đầu tư chỉ là một bộ phận của pháp
luật thương mại, bởi quan niệm có tính phổ biến trên thế giới, trong đó có quan
niệm của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong các hiệp định của tổ
chức này, đầu tư chỉ được coi là một trong các hành vi thương mại.
27 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 569 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu tư nước ngoài và thực hiện pháp luật đầu tư nước
ngoài; cũng như những hình thức thực hiện pháp luật này dưới góc độ lý luận chung
về Nhà nước và Pháp luật. Luận án cũng cần chỉ ra được những kết quả, bất cập và
nguyên nhân của thực trạng này. Từ đó tìm kiếm, đề xuất giải pháp khắc phục. Đó
chính là những vấn đề cần tiếp tục đặt ra để nghiên cứu của luận án.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI Ở LÀO
2.1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài
Nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố cho thấy đầu tư là
khái niệm được xem xét dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau. Chẳng hạn dưới
góc độ kinh tế đầu tư được hiểu là khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất kinh
doanh của một chủ thể đầu tư.
Đầu tư được phân thành hai loại cơ bản là đầu tư trong nước và ĐTNN.
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
8
Đầu tư nước ngoài là việc nhà ĐTNN đưa vào Lào vốn bằng tiền và các
tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu đầu tư nước ngoài như sau: “Đầu
tư nước ngoài là loại hình kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn
bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào đó để thiết lập các cơ sở sản xuất kinh
doanh ở nước tiếp nhận đầu tư, nhờ đó họ có quyền sở hữu và tham gia quản
lý, điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích thu được lợi
nhuận từ những hoạt động đầu tư đó ”.
2.1.2. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài
- Có quan niệm cho rằng pháp luật ĐTNN là một bộ phận, hay một chế
định của tư pháp quốc tế, bởi các quan hệ đầu tư mà nó điều chỉnh có yếu tố
nước ngoài, chủ thể đầu tư là cá nhân, tổ chức nước ngoài.
- Quan niệm khác lại cho pháp luật ĐTNN không thuộc một ngành luật nào,
mà là ở vùng giao thoa của nhiều ngành luật, song gần gũi với ngành luật kinh tế.
- Bên cạnh đó quan niệm coi pháp luật đầu tư chỉ là một bộ phận của pháp
luật thương mại, bởi quan niệm có tính phổ biến trên thế giới, trong đó có quan
niệm của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong các hiệp định của tổ
chức này, đầu tư chỉ được coi là một trong các hành vi thương mại.
Luận án tiếp cận khái niệm pháp luật ĐTNN dưới góc độ lý luận chung về
nhà nước và pháp luật nên có thể hiểu pháp luật ĐTNN là tổng hợp những quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lính vực đầu tư nước
ngoài nhằm bảo đảm các hoạt động ĐTNN được thực hiện có hiệu lực, hiệu quả
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
2.1.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào
Xuất phát từ quan niệm pháp luật ĐTNN nêu trên và pháp luật ĐTNN
hiện hành của Lào cho thấy pháp luật này tập trung điều chỉnh một số nhóm
quan hệ sau:
Một là, nhóm các quy định về quan điểm và chính sách ĐTNN.
Hai là, nhóm các quy định về hình thức ĐTNN.
Ba là, Nhóm các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư.
Bốn là, nhóm của quy định và tổ chức quản lý đầu tư nước ngoài
9
2.2. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI
2.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật đầu tư
Về phương diện lý luận có các quan niệm khác nhau về thực hiện pháp
luật, tác giả luận án đồng tình với khái niệm thực hiện pháp luật được hiểu là một
quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật trở thành
hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ
thể pháp luật. Theo đó, có thể hiểu thực hiện pháp luật ĐTNN là toàn bộ quá
trình hoạt động có mục đích của các chủ thể đầu tư nước ngoài làm cho các quy
định của pháp luật ĐTNN được hiện thực hóa trong thực tiễn cuộc sống.
2.2.2. Các hình thức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
Về phương diện lý luận thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cũng gồm
bốn hình thức nêu trên cụ thể như:
Một là, tuân thủ pháp luật đầu tư nước ngoài tuân thủ pháp luật là hình thức
thực hiện pháp luật thụ động, trong đó các chủ thể đầu tư kiềm chế không tiến hành
những hoạt động mà pháp luật đầu tư nước ngoài ngăn cấm.
Hai là, thi hành hay chấp hành pháp luật đầu tư nước ngoài là hình thức
thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý
của của mình bằng hành động tích cực.
Ba là, sử dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là hình thức thực hiện pháp
luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể, tức là thực hiện
những hành vi mà pháp luật cho phép.
Bốn là, áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là thực hiện pháp luật trong
đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức
cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật.
2.2.3. Vai trò thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
Một là, thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần thu hút nguồn
vốn đầu tư của nước ngoài nhằm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hai là, thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần tăng cường pháp
chế XHCN ở Lào nói chung và trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói riêng.
Ba là, thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ đầu tư.
10
2.3. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở LÀO
2.3.1. Bảo đảm về chính trị
Nước CHDCND Lào là một nước có một Đảng lãnh đạo, Đảng NDCM
Lào là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Trong lĩnh vực
kinh tế, Đảng lãnh đạo bằng việc xác định rõ đường lối chính sách mở rộng
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để học hỏi, tiếp thu
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, nhằm tạo lập một hệ thống pháp luật đầu tư phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của cả nước.
Thứ nhất, ổn định kinh tế chính trị là cơ sở để tăng cường ĐTNN.
Thứ hai, thống nhất môi trường pháp lý giữa đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài là chủ trương để xây dựng mặt bằng pháp lý cho doanh nghiệp trong
nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng như để phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ ba, chú trọng cải tạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng
vững chắc. Đây là điều hết sức quan trọng để các nhà đầu tư quyết định đầu tư
vốn của mình vào một quốc gia khác.
Tóm lại, trong quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng trong tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài đặt ra yêu cầu là:
Phải nghiên cứu, nhận thức đúng hệ thống các quan điểm của Đảng về mở cửa,
hội nhập kinh tế quốc tế để việc thực hiện pháp luật về ĐTNN ở CHDCND Lào đi
đúng hướng và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện phát triển chung của Lào. Trong
đó, luôn luôn phải đảm bảo yêu cầu là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
2.3.2. Bảo đảm về pháp lý
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật và tính đồng bộ trong cơ chế thực hiện
pháp luật, bảo vệ pháp luật của Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Một là, bảo đảm về sự hoàn thiện của hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật về ĐTNN.
Hai là, bảo đảm hiệu quả các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật và là
tổ chức thực hiện vốn.
Ba là, bảo đảm sự hoàn thiện của quy trình thực hiện pháp luật.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu ý thức pháp luật với tư cách là yếu tố bảo đảm
thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cần chú ý các đặc thù của các quan hệ
pháp luật đầu tư nước ngoài, trong đó chủ thể một bên là người nước ngoài, đối
tượng của các quan hệ đó là tài sản thuộc sở hữu của người nước ngoài. Đây là
vấn đề phức tạp trong bảo đảm thực hiện pháp luật về ĐTNN.
11
2.3.3. Bảo đảm kinh tế đối với thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
2.3.3.1. Bảo đảm về vốn và tài sản của nhà đầu tư
Việc bảo đảm về vốn và các tài sản khác của nhà đầu tư là biện pháp bảo
đảm đầu tư quan trọng nhất, bởi vì điều đầu tiên mà các nhà đầu tư quan tâm khi
đầu tư là vốn có được bảo đảm không, bảo đảm như thế nào. Ngược lại, Nhà nước
đang rất cần huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế.
Nguồn vốn này lại chỉ phải trả lãi nếu đem lại lợi nhuận và việc trả lãi này
còn bị khống chế bởi hệ thống thuế và các chính sách kiểm soát của Nhà nước
có chủ quyền.
Theo quy định của pháp luật Lào, chủ đầu tư có toàn quyền quyết định việc
sử dụng vốn bằng tiền, thiết bị, máy móc, dụng cụ, bộ phận rời được đưa vào đầu
tư, dưới mọi hình thức mà pháp luật cho phép, theo các hình thức đầu tư trực tiếp.
Ngoài ra, với các vốn đầu tư dưới hình thức bằng sáng chế, bí quyết kỹ
thuật, dịch vụ kỹ thuật, căn cứ vào pháp luật về quyền bảo hộ sở hữu công
nghiệp, các vốn này được Nhà nước CHDCND Lào bảo hộ, phù hợp với các
Điều ước quốc tế mà Lào tham gia, hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
Tóm lại, việc bảo đảm vốn đầu tư là một việc quan trọng và là một yếu tố tích
cực trong môi trường đầu tư. Số phận của tài sản của nhà đầu tư phải được đảm bảo
bằng một loạt những quy định của pháp luật để tạo nên một cơ sở pháp lý ổn định
cho vấn đề này. Bên cạnh đó, Nhà nước còn phải thực hiện nhiều hoạt động khác để
bảo đảm cho nhà đầu tư thực sự yên tâm trong việc bỏ vốn vào đầu tư.
2.3.3.2. Bảo đảm chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài của nhà đầu tư
Nhà nước CHDCND Lào luôn luôn tôn trọng và bảo đảm cho các nhà
đầu tư có thể chuyển lợi nhuận và các tài sản hợp pháp của mình ra nước
ngoài một cách thuận tiện và nhanh chóng.
Nhà nước CHDCND Lào cũng không cấm các nhà ĐTNN, người nước
ngoài làm việc tại Lào cho các dự án đầu tư thực hiện việc chuyển vốn và tài
sản hợp pháp ra nước ngoài (Điều 12 Luật đầu tư năm 2004), những khoản hợp
pháp được chuyển ra nước ngoài bao gồm: Lợi nhuận thu được tự hoạt động
kinh doanh; Những khoản tiền trả cho việc cũng cấp kỹ thuật dịch vụ sở hữu trí
tuệ; tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài; vốn đầu tư các khoản thanh lý
đầu tư; các khoản tiền và tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của nhà đầu tư; thu
nhập hợp pháp của người lao động nước ngoài làm việc cho các dự án đầu tư.
Tuy nhiên, việc qui định về thuế vận chuyển lợi nhuận ra nước ngoài có
những bất cập mà một trong những bất cập đó đánh thuế trùng lập trên một đối
tượng chịu thuế. Trên thực tế phần lợi nhuận của các nhà đầu tư đã phải gánh
12
chịu nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu sau đó lại là đối tượng chịu thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thì không hợp lý. Vì vậy, pháp luật hiện hành
của CHDCND Lào về thuế cũng như về đầu tư đã thống nhất bỏ thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các nhà đầu tư.
2.3.3.3. Bảo đảm đối đãi công bằng giữa các nhà đầu tư tại Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào
Pháp luật CHDCND Lào bảo đảm đối đãi với nhà đầu tư thực sự công
bằng, điều này được thể hiện như là: đối xử công bằng và bảo đảm điều kiện
sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư. Đối xử công bằng có thể hiểu là sự đối xử
không phân biệt nhà đầu tư là ai, ở nước nào.
Đảm bảo đối xử thỏa đáng với các nhà đầu tư được hiểu là : khi một tổ
chức, cá nhân đưa vốn vào đầu tư tại CHDCND Lào, Nhà nước phải tạo cho họ
những điều kiện thuận lợi nhất tương ứng với giá trị tài sản họ bỏ ra đầu tư. Để
đảm bảo vấn đề này, Nhà nước dựa chủ yếu vào những biện pháp đòn bẩy kinh
tế, mà hiệu quả nhất là thuế. Bằng những quy định của pháp luật, chúng ta đã
đưa ra các biểu thuế, thuế suất cho các tổ chức, cá nhân có hoạt động đầu tư tại
Lào. Nói chung, các sắc thuế của Lào hiện nay đầu tư bảo đảm tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư.
2.3.4. Các điều kiện đảm bảo khác
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ trình độ, năng lực
về chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến đầu tư nước ngoài, đồng thời có kỹ
năng tổ chức tốt quá trình thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp
luật đầu tư nước ngoài nói riêng.
Hai là, bảo đảm về ý thức tự giác chấp hành pháp luật các chủ thể. Hành vi xử
sự của các chủ thể pháp luật là yếu tố quyết định tính hiệu quả trong điều chỉnh pháp
luật, trong việc thực hiện pháp luật.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, cùng với
sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội thì việc nâng cao ý thực pháp luật sẽ là điều
kiện quan trọng để tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả, trong đó có việc thực hiện
pháp luật về ĐTNN.
Kết luận Chương 2
Trên đây là những nội dung lý luận cơ bản của chương 2 luận án. Đó là
những luận cứ lý luận để nghiên cứu đánh giá thực trạng và đề xuất của giải
quyết nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào ở các chương tiếp theo của luận án.
13
Chương 3
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1. SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1.1. Pháp luật đầu tư nước ngoài trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986)
Sau ngày giải phóng đất nước Lào năm 1975, Đảng và Nhà nước Lào
đề ra chủ trương khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Đến năm
1978 Uỷ ban kế hoạch nhà nước Lào đã đề ra kế hoạch phục hồi phát triển
kinh tế xã hội 3 năm (1978 - 1981).
Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1986, thực hiện chủ trương phát triển kinh
tế và tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống đường giao thông kết
nối từ Bắc đến Nam trên phạm vi cả nước và các nước láng giềng, trong đó tổ
chức phát triển và khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế đối ngoại
của Đảng NDCM Lào là nội dung quan trọng, Nhà nước Lào đã quan tâm đến
việc xây dựng thể chế, thiết chế để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Lào.
Tóm lại, trong giai đoạn từ sau ngày giải phóng năm 1975 đến năm 1986,
Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào tập trung mọi nguồn lực để khôi phục và phát
triển kinh tế, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1981 - 1986)
theo con đường XHCN. Trong thời kỳ này, vấn đề đầu tư nước ngoài chưa được
quan tâm đúng mức. Các quan hệ đầu tư nếu có chỉ áp dụng ở những văn bản
riêng lẻ có quy định đề cập đến vấn đề này. Nói cách khác pháp luật đầu tư
nước ngoài ở Lào thời kỳ này rất ít và tản mạn. Chưa có những văn bản pháp
luật chuyên biệt về đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Vì lẽ đó,
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Lào thời kỳ này rất hạn chế.
3.1.2. Pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào thời kỳ đổi mới (từ năm
1986 đến nay)
Từ năm 1986 đến nay, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào thực hiện
đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng NDCM Lào đề ra Đại hội
Đảng lần thứ IV. Trong đó nội dung cơ bản là đổi mới cơ cấu kinh tế nhằm
chuyển nền kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp thành nền kinh tế hàng hoá; đổi
14
mới cơ chế quản lý kinh tế, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Theo luật đầu tư năm 1988, nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào Lào
dưới ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh; hợp doanh giữa nhà đầu tư
nước ngoài và đầu tư trong nước, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Trước hết, cần khẳng định rằng doanh nghiệp có vốn ĐTNN được đối xử
bình đẳng so với các tổ chức kinh doanh khác của Lào có toàn quyền quyết định
chương trình và kế hoạch kinh doanh của mình phù hợp với giấy phép đầu tư đã
được cấp và thực hiện đúng các nghĩa vụ mà pháp luật Lào quy định.
Chính phủ CHDCND Lào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc các nhà đầu
tư nước ngoài, người lao động nước ngoài kể cả các thành viên gia đình của họ
trong việc xuất nhập cảnh và nghỉ ngơi ở Lào vì mục đích kinh doanh hoặc vì
công việc gia đình, nhưng họ phải tôn trọng và tuân theo pháp luật của Lào
trong suốt thời gian ở CHDCND Lào. Nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài khoản
bằng tiền Kip và tiền nước ngoài tại Ngân hàng của Lào hoặc ngân hàng nước
ngoài đặt tại Lào. Trong việc quản lý kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài phải
áp dụng chế độ kế toán của Lào và chịu sự kiểm soát thường xuyên theo chế độ
quản lý, kế toán của Chính phủ Lào.
Tóm lại, có thể đánh giá chung quá trình phát triển pháp luật đầu tư nói
chung và đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào nói riêng là quá
trình phát triển từ chưa thống nhất, đồng bộ đến thống nhất đồng bộ hơn; từ tản
mạn đến hệ thống và được hoàn thiện từ thấp đến cao. Kỹ thuật lập pháp và
pháp điển hoá ngày càng cao hơn. Điều đó, bước đầu đã tạo được khuôn khổ
pháp lý để điều chỉnh, quản lý đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài ở
CHDCND Lào nói riêng ngày càng tốt và hiệu quả hơn
3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở
CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.2.1. Những ưu điểm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào
3.2.1.1. Chấp hành pháp luật đầu tư nước ngoài
Để chấp hành thực hiện tốt pháp luật ĐTNN tại CHDCND Lào, Chính
phủ Lào đã thành lập cơ quan Nhà nước về chấp hành luật đầu tư nước ngoài tại
Lào đạt được kết quả cao, đây gọi là Uỷ ban quản lý đầu tư nước ngoài. Các
15
nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu xin phép đầu tư phải gửi cho Uỷ ban quản lý
ĐTNN hồ sơ gồm: Đơn xin cấp giấy phép đầu tư; Giải trình kinh tế - kỹ thuật,
điều lệ doanh nghiệp; Hợp đồng liên doanh; Hợp đồng hợp tác kinh doanh và
các tài liệu cần thiết khác.
3.2.1.2. Thực thi pháp luật đầu tư nước ngoài
Nhà nước đã chú ý đặc biệt giữa hai bên đầu tư cấp Trung ương và địa
phương để thành lập bộ máy giúp việc của Uỷ ban tổ chực thực hiện pháp luật
về ĐTNN tại CHDCND Lào, đây là một cách để thực hiện pháp luật đầu tư
nước ngoài có hiệu quả. Chính phủ là nơi quản lý chung và thống nhất trên toàn
quốc, giao ngành Kế hoạch và Đầu tư, ngành Công thương phối hợp với các
ngành hữu quan liên quan và chính quyền địa phương là chủ quản theo vai trò,
chức năng nhiệm vụ của mỗi nơi.
Chính quyền địa phương có nhiệm vụ tham gia theo chức năng vai trò của
mình trong việc quản lý dự án đầu tư đặt tại địa phương mình do Trung ương
cấp phép. Việc phân cấp quản lý đã được quy định rõ trong luật của các ngành,
do đó thực hiện theo như các luật đã định [75, tr.36-43]. (Luật 2009)
Vì vậy để đạt hiệu quả cao trong tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước
ngoài cần phải đào tạo đội ngũ chuyên gia, người có nghiệp vụ chuyên môn tốt
về lĩnh vực này trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức
thành phần kinh tế khác nhau.
3.2.1.3. Sử dụng pháp luật đầu tư nước ngoài
Sử dụng pháp luật ĐTNN ngoài là một hình thức thực hiện pháp luật về
đầu tư trong đó chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện
những hành vi mà pháp luật cho phép).
Sử dụng pháp luật ĐTNN, trước hết cần khẳng định rằng doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài được đối xử bình đẳng so với các tổ chức kinh doanh
khác của Lào, có toàn quyền quyết định chương trình và kế hoạch kinh doanh
của mình phù hợp với giấy phép đầu tư đã được cấp và thực hiện đúng các
nghĩa vụ mà pháp luật Lào quy định.
Chính phủ CHDCND Lào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc các nhà đầu
tư nước ngoài, người lao động nước ngoài kể cả các thành viên gia đình của họ
trong việc xuất nhập cảnh và nghỉ ngơi ở Lào vì mục đích kinh doanh hoặc vì
công việc gia đình, nhưng họ phải tôn trọng và tuân theo pháp luật của Lào
16
trong xuất thời gian ở CHDCND Lào. Nhà đầu tư nước ngoài phải mở tải khoản
bằng tiền Kíp và tiền nước ngoài tại Ngân hàng của Lào hoặc ngân hàng nước
ngoài đặt tại Lào. Trong việc quản lý kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài phải
áp dụng chế độ kế toán của Lào và chịu sự kiểm soát thường xuyên theo chế độ
quản lý, kế toán của Chính phủ Lào.
3.2.1.4. Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài
Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài luôn gắn liền với việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước với hoạt động quản
lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, vào cuộc sống với hiệu quả
cao nhất chỉ khi những quy phạm của nó phản ánh chính xác ý nguyện của nhân
dân, phù hợp quy luật xã hội và được thực chính xác, triệt để.
Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham gia
để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó, hoặc nhà
nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế.
Ví dụ, việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp... Tóm lại, áp dụng pháp luật
ĐTNN là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước mà biểu hiện
cụ thể là một hình thức thực pháp luật, hoặc là cách thức nhà nước tổ chức các
chủ thể thực hiện pháp luật.
Áp dụng pháp luật ĐTNN được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ
thể bị áp dụng pháp luật; Áp dụng pháp luật ĐTNN có tính chất bắt buộc (trong
trường hợp cưỡng chế) đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên quan;
Áp dụng luật pháp luật ĐTNN được thực hiện theo một quy trình, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định; Áp dụng pháp luật ĐTNN là hoạt động điều
chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội xác định; Áp dụng pháp luật đầu
tư nước ngoài là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo, khi áp dụng pháp luật này, các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ
bản chất pháp lý của nó để từ đó lựa chọn đúng, chính xác quy phạm, ra văn bản
áp văn bản áp dụng pháp và tổ chức thi hành kịp thời.
Như vậy, áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là hoạt động mang tính tổ
chức, tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoạt
các tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền thực hiện nhằm đưa các quy
phạm pháp luật vào cuộc sống và lợi ích cho người dân toàn diện.
17
3.2.2. Hạn chế của thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào
Một là, việc tuân thủ pháp luật đầu tư của một số pháp luật đầu tư còn
hạn chế.
Hai là, việc áp dùng pháp luật đầu tư chưa được nhất quán.
Ba là, Công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư trong và nước ngoài
cũng còn nhiều mặt yếu kém.
3.2.3. Nguyên nhân của những yếu kém về thực hiện pháp luật về đầu
tư ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
- Nguyên nhân khách quan: Những năm qua, Nhà nước CHDCND Lào
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư; Sự cạnh
tranh trong thu hút FDI đối với việc thực thiện pháp luật ĐTNN, giữa các
nước trong khu vực.
- Nguyên nhân chủ quan: Do nhận thức về vai trò, vị trí của thực hiện
pháp luật ĐTNN trong nền kinh tế chưa thực sự thống nhất cao và do chưa
quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ trương thực hiện pháp luật ĐTNN của Đảng
ở các cấp các ngành đến người dân; Hệ thống luật pháp, chính sách về thực
hiện pháp luật ĐTNN ở Lào nói chung đang trong quá trình hoàn thiện nên
còn thiếu tính đồng bộ và ổn định, thiếu chính xác, thậm chí còn chồng chéo,
đặc biệt là thiếu tính thể chế nên chưa tạo điều kiện cho hoạt động thực hiện
các dự án FDI một cách dễ dàng.
Kết luận Chương 3
Trên cơ sở những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở
CHDCND Lào ở chương 2, chương 3 luận án tập trung nghiên cứu quá trình hình
thành phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà DCND Lào. Có thể nhận
thấy rằng quá trình phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào là quá trình thể
chế hoá chủ trương của Đảng NDCM Lào về đường lối đổi mới toàn diện đất
nước Lào nói chung và đường lối hợp tác kinh tế quốc tế nhằm thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài vào Lào nói riêng. Hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài được
phát triển từ những quy định tản mạn, thiếu luật chuyên biệt điều chỉnh đầu tư ở
Lào nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng đến hệ thống pháp luật đầu tư nước
ngoài ngày càng đồng bộ và hoàn thiện và có luật riêng đến điều chỉnh quan hệ
này. Những kết quả của chương này luận án là cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc
đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài
ở CHDCND Lào ở chương tiếp theo (chương 4) của luận án.
18
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
4.1.1. Thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào gắn liền với
chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài của Lào trong thời kỳ đổi mới
Đầu tư nước ngoài có ý nghĩa là sự chuyển vốn gồm có: Tài sản, kỹ thuật và
kinh nghiệm vào nước CHDCND Lào bởi nhà đầu tư nước ngoài nhằm mục đích
kinh doanh. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài đến đầu
tư ởnước CHDCND Lào.
Tài sản là bằng tiền tệ, các đồ vật tài sản về trí tuệ. Chúng ta điều biết, các
nhà đầu tư chỉ yên tâm và mạnh dạn bỏ vốn, tài sản ra sản xuất, kinh doanh khi
họ chắc chắn rằng vốn họ bỏ ra sẽ có lãi và cả vốn lẫn lãi của họ đều được bảo
đảm an toàn. Do vậy, bảo đảm đầu tư là một trong những p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_thuc_hien_phap_luat_ve_dau_tu_nuoc_ngoai_o_nuoc_cong_hoa_dan_chu_nhan_dan_lao_hien_nay_2115_19162.pdf