CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM TRẦM TÍCH PLEISTOCEN MUỘN
-HOLOCEN THỀM LỤC ĐỊA ĐÔNG NAM VIỆT NAM
3.1. Trầm tích Pleistocen muộn phần sớm (Q13a )
Trầm tích này được xác định nằm bên dưới bề mặt đất phong
hóa cứng, phân bố hầu khắp trên toàn thềm từ vùng thềm nông đến
gần mép thềm lục địa. Kết quả nghiên cứu về XRF trên cột mẫu
187-116 có tuổi cổ hơn 50 nghìn năm và cột mẫu 140-04 thu thập
được trên vùng thềm ngoài tại độ sâu 99 m nước có tuổi vào khoảng
27140 năm trước. Trầm tích bao gồm trầm tích đồng bằng châu thổ,
vũng vịnh, bãi triều, tiền châu thổ thổ và biển nông.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
27 trang | 
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 764 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tiến hóa trầm tích pleistocen muộn-Holocen khu vực thềm lục địa đông nam Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồng Nai. sông Mekong là một 
trong những con sông lớn nhất trên thế giới và ở châu Á. Sông 
Đồng Nai là một hệ thống sông nằm hoàn toàn trong lãnh thổ Việt 
Nam hội nhập với sông Sài Gòn chảy qua thành phố Hồ Chí Minh 
trước khi đổ ra biển. 
1.1.2. Đặc điểm khí tượng và động lực biển 
Dòng chảy tầng mặt: Khu vực nghiên cứu bị chi phối bởi chế 
độ gió mùa đông bắc vào mùa đông từ tháng 10 đến hết tháng 3 
năm sau và gió mùa tây nam từ tháng 4 đến hết tháng 9.Trong mùa 
đông dưới ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, dòng chảy có hướng 
tây nam. Ngược lại trong mùa hè dưới ảnh hưởng của gió mùa tây 
nam, dòng chảy có hướng đông bắc. 
Chế độ thủy triều: Trong khu vực nghiên cứu có chế độ triều 
hỗn hợp thiên về bán nhật triều. Biên độ triều lớn nhất ở Cần Giờ 
đạt đến cực đại khoảng 4 m và giảm dần về phía tây nam đến mũi 
Cà Mau với biên độ còn khoảng 2 m và số ngày nhật triều tăng lên. 
Chế độ sóng: Trong mùa gió đông bắc, hướng sóng ưu thế ở vùng 
ngoài khơi Bình Thuận là đông bắc với tần suất lớn nhất là 83,0% 
 7 
xẩy ra vào tháng 1 ở vùng phía bắc và 89,2% vào tháng 2 ở vùng 
phía nam. ở vùng ven bờ hướng sóng ưu thế là đông hoặc đông bắc. 
1.1.3. Đặc điểm địa chất khu vực 
Khu vực nghiên cứu thuộc vùng rìa mảng Đông Dương. Các 
pha tạo rift trong suốt Kanoizoi đã tạo nên các khối sụt lún và khối 
nâng lớn trong khu vực. Trong số này, các bể Cửu Long và Nam 
Côn Sơn là các bể đáng chú ý nhất nằm trên khu vực TĐN. Đá 
móng trước Kainozoi trong khu vực nghiên cứu chủ yếu gồm granit 
và granodiorit-diorit, ngoài ra còn gặp đá biến chất, phiến sét, phiến 
serixit, cát, bột kết và các thành tạo núi lửa [3,4]. Địa tầng trầm tích 
khu vực bao gồm chủ yếu các thành tạo Eocen, Oligocen, Miocen, 
và thành tạo Đệ tứ. 
1.2. Lịch sử nghiên cứu khu vực 
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 
Sự gia tăng hiểu biết về thay đổi mực nước biển trong giai 
Pleistocen muộn-Holocen cùng khối lượng tài liệu địa chấn nông 
phân giải cao (ĐCNPGC) thu thập được và kết quả phân tích trầm 
tích đã tạo thêm hướng tiếp cận nghiên cứu địa tầng Đệ tứ muộn 
mới bằng cách sử dụng lý thuyết địa tầng phân tập của một số tác 
giả [34, 77,100 vv...] nhằm đưa tới những hiểu biết sâu sắc hơn về 
địa tầng và tiến hóa trầm tích [41, 47, 49, 50, 51, 70, 75, 78, 90, 108, 
109 vv...]. Các nghiên cứu này nhằm đến việc xác định các bề mặt 
bất chỉnh hợp, chỉnh hợp và các miền hệ thống trầm tích được bao 
bọc bởi các bề mặt trong tương quan với sự thay đổi mực nước biển 
giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen. Các kết quả nghiên cứu này 
cũng phản ánh vai trò của các yếu tố địa phương (địa hình, lưu 
lượng trầm tích, đặc trưng khí hậu, chế độ động lực) trong chi phối 
quá trình hình thành các miền hệ thống trầm tích. Các bề mặt bao 
gồm bề mặt SB được xác định như các ranh giới địa tầng của một 
phức tập, bề mặt biển tiến/bào mòn biển tiến TS/RS, bề mặt ngập 
 8 
lụt cực đại (MFS). Các miền hệ thống trầm tích nằm giữa các bề 
mặt bao gồm chủ yếu các miền hệ thống trầm tích biển cao-thoái 
(HST), miền hệ thống biển thấp (LST), và miền hệ thống biển tiến 
(TST). Việc nghiên cứu địa tầng phân tập đặt trong quan hệ với sự 
thay đổi mực nước biển tương ứng vởi các thời kỳ đồng vị oxy biển 
(MIS) cũng được thực hiện ở nhiều vùng thềm lục địa trên thế giới 
[47, 49, 78 vv..]. 
Nghiên cứu đặc điểm và sự hình thành các dạng sóng cát lớn 
dưới đáy biển được thực hiện bằng tài liệu ĐCNPGC, tài liệu đo 
sâu đơn tia, và đa tia cũng đã được thực hiện ở nhiều vùng thềm 
trên thế giới [53, 57, 60, 61, 82, 85, 98, vv...]. Các nghiên cứu này 
đã đặt sự phát triển của sóng cát trong quan hệ với tiến hóa trầm 
tích trên thềm lục địa dưới ảnh hưởng của mực nước biển dâng. Kết 
quả nghiên cứu đã góp phần giải thích nguồn gốc sự hình thành của 
một số sóng cát dưới đáy biển rõ ràng và thuyết phục hơn. 
Nghiên cứu quá trình tích tụ và vận chuyển trầm tích trong 
giai đoạn Holocen muộn- hiện đại bằng phương pháp đo tốc độ tích 
tụ trầm tích từ các đồng vị 14C, 210Pb và 137Cs đã được triển khai 
trên hầu hết các thềm lục địa liền kề các châu thổ lớn trên thế giới 
[26, 29, 36, 44, 69, 71, 86, 87, 101, 106 vv...]. Những nghiên cứu 
này nhằm đạt được sự hiểu biết hơn về phản ứng của hệ thống trầm 
tích châu thổ trong các điều kiện địa phương khác nhau (tự nhiên và 
nhân sinh) và dưới ảnh hưởng của sự thay đổi mực nước biển. 
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 
Trong khoảng 20 năm qua các nghiên cứu địa chất biển thuộc 
phần Đệ tứ đã được thực hiện bao gồm: chương trình điều tra địa 
chất ven bờ biển Việt Nam 0-30 m nước do TSKH Nguyễn Biểu 
chủ trì (1990-2000) [1], một số điều tra về địa chất biển đạt đến độ 
sâu khoảng 100 m nước đã được thực hiện [9, 10, 12 ]. Các sản 
phẩm là các bản đồ chuyên đề về phân bố trầm tích, sa khoáng vv... 
 9 
Các bản đồ tướng đá-cổ địa lý thềm lục địa Việt Nam tỷ lệ 
1/1.000.000 năm 2001, bản đồ tướng đá cổ địa lý Pliocen-Đệ tứ 
TĐN tỷ lệ 1/250.000 do GS Trần Nghi chủ trì, và bản đồ địa chất 
Pliocen-Đệ tứ TĐN do TSKH Nguyễn Biểu chủ biên thuộc đề tài 
KC09-09 [19]. Một số các công trình nghiên cứu về địa tầng phân 
tập trên đồng bằng châu thổ và thềm lục địa Việt Nam trong 
Pliocen-Đệ tứ cũng đã được thực hiện để phân ra các phức tập trầm 
tích thời kỳ Đệ tứ với mỗi phức tập bắt đầu từ miền hệ thống biển 
thấp (LST) đến miền biển tiến (TST) và kết thúc là biển cao (HST) 
[11, 15, 66, 67]. Chương trình hợp tác Viêt-Đức trong các giai đoạn 
1999-2001, 2003-2005, và 2006-2009 nghiên cứu về trầm tích và 
động lực trầm tích đã được tiến hành [5, 24, 104, 105]. Một số kết 
quả nghiên cứu đã được công bố tại khu vực TĐN như của 
Schimanski (2002) [79] về một số đặc điểm trầm tích Holocen thềm 
ngoài của TĐN; Dung và nnk (2009); Kubiski (2008) về cơ chế 
hình thành các sóng cát do dòng chảy đáy và dòng chảy tổng hợp 
[37,72]. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một kết quả nào đo 
đạc về dòng chảy được công bố để kiểm chứng. Vì vậy, việc luận 
giải cơ chế hình thành sóng cát cũng cần được nhìn nhận dưới góc 
độ về địa chất liên quan đến lịch sử tiến hóa thềm lục địa. Nghiên 
cứu về địa tầng phân tập khu vực TĐN Việt Nam được thực hiện 
chủ yếu tập trung vào thời gian biển tiến sau LGM [38]. Tuy nhiên, 
việc luận giải môi trường trầm tích sơ sài và đặc biệt giai đoạn 
Pleitocen muộn phần sớm (Q13a) bị bỏ qua. Sự phân chia đơn vị địa 
chấn địa tầng này chưa có sự thống nhất với công trình nghiên cứu 
của Tjallingii và nnk (2010) về tướng trầm tích lấp đầy thung lũng 
cắt xẻ. Một số nghiên cứu về tích tụ trầm tích giai đoạn Holocen 
muộn-hiện đại chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực xung quanh bán đảo 
Cà Mau [22, 24, 87, 86, 95]. 
 10 
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN, TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Cơ sở lý luận về cộng sinh tướng và miền hệ thống trầm 
tích 
2.1.1. Cơ sở lý luận về cộng sinh tướng 
Công sinh tướng và sự biến đổi tương quan với sự thay đổi 
mực nước biển là cơ sở quan trong trong nghiên cứu tiến hóa trầm 
tích. Công sinh tướng là sự phân bố liền kề của hai hay nhiều tướng 
theo chiều ngang và chiều thẳng đứng trong mối quan hệ với sự 
thay đổi mực nước biển [11]. 
2.1.2. Địa tầng phân tập và các miền hệ thống trầm tích 
Trong luận án này, các miền hệ thống trầm tích trên thềm lục 
địa trong giai đoạn Pleistocen giữa-muộn được phân chia tương đối 
theo mực nước biển lên xuống theo chu kỳ băng hà và gian băng: (1) 
Miền hệ thống trầm tích biển cao-thoái (HST) hình thành trong giai 
đoạn mực nước biển cao đến thoái diễn ra từ MIS 5 đến bắt đầu 
MIS 2; (2) Miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) hình thành 
trong giai đoạn biển thấp, hình thành trong khoảng nửa đầu MIS 2; 
(3) Miền hệ thống biển tiến (TST) hình thành trong giai đoạn mực 
nước biển dâng lên từ nửa cuối MIS 2 cho đến bắt đầu MIS 1; (4) 
Miền thệ thống biển cao trẻ nhất thuộc thành tạo xâm lấn của châu 
thổ Sông Mekong hiện đại (HST) hình thành trong MIS 1. Thêm 
vào đó, miền hệ thống thềm (SST) được sử dụng cho các trầm tích 
biển tích tụ trên thềm xa bờ trong giai đoạn biển cao hiện nay để 
phân biệt với miền hệ thống biển cao (HST) trẻ nhất. 
2.2.Cở sở tài liệu 
Tổng cộng hơn 4000 km tuyến địa chấn được phân tích minh 
giải trên toàn bộ khu vực TĐN thu thập từ năm 1999 đến nay trong 
hợp tác nghiên cứu biển Việt Đức, Việt -Mỹ. Sáu mươi cột mẫu 
trầm tích trong khu vực được thu thập từ hợp tác Việt Đức, Việt-
 11 
Mỹ. Một số chỉ tiêu địa hóa và thạch học của một số cột mẫu đã 
được phân tích và ba mươi cột mẫu đã được định tuổi bằng phương 
pháp xác định 14C. Ba mươi cột mẫu khu vực châu thổ ngầm 
ĐBSCL thuộc thềm trong đã được xác định tốc độ tích tụ trầm tích 
bằng đồng vị 210Pb. Hơn ba trăm mẫu trầm tích bề mặt được phân 
tích phân tích độ hạt, một số mẫu được phân tích thành phần hạt 
vụn. Mười một mẫu trầm tích bề mặt được phân tích bằng lát mỏng 
thạch học và ba mươi mẫu trầm tích được phân tích hàm lượng 
thành phần cacbonat và tổng cacbon hữu cơ (TOC). 
2.3. Phương pháp nghiên cứu 
2.3.1 Phương pháp lấy mẫu và mô tả trầm tích 
Các mẫu sau khi được lấy lên tàu bằng cuốc đại dương, ống 
phóng trọng lực, được xử lý sơ bộ (cưa, cắt, mô tả sơ bộ, chụp ảnh) 
và ghi nhật ký. 
2.3.2. Phương pháp phân tích độ hạt 
Các thiết bị để phân tích độ hạt bao gồm hệ rây và máy phân 
tích Mastersizer và ....ứng dụng tia lazer để phân tích dải kích 
thước hạt từ 0,02-3000 m bằng việc sử dụng nguyên lý tán xạ ánh 
sáng và so sánh tán xạ của mẫu với một mô hình quang học thích 
hợp là mô hình của Frauhofer hay của Mie. 
2.3.3. Tính toán và xử lý các số liệu độ hạt 
Sau khi phân tích độ hạt các mẫu bằng các phương pháp đề cập 
trên. Kết quả phân tích độ hạt được đưa vào xử lý và tính toán bằng 
phần mềm Gradistat chạy trên nền Excel. Các tham số độ hạt được 
tính toán bao gồm kích thước hạt trung bình (d50), độ chọn lọc, độ 
lệch, và độ nhọn vv... 
2.3.4. Phương pháp phân tích thành phần hạt vụn 
Các hạt kích thước 250-500 m của mẫu được tách ra và đưa 
vào phân tích bằng kính hiển vi soi nổi để đếm và tách ra 5 thành 
phần chính: foram đáy, foram trôi nổi, mảnh đá (bao gồm các 
 12 
khoáng vật các vụn đá), mảnh thực vật, mảnh vỏ sinh vật và hàm 
lượng glauconit. 
2.3.5. Phân tích lát mỏng thạch học 
Sau khi mẫu trầm tích bở rời được gia công và mài thành lát 
mỏng, Kính hiển vi phân cực ZEISS AXIOSKOP 40, ZEISS (2013) 
được sử dụng để xác định khoáng vật, mô tả đặc điểm khoáng vật, 
phân loại trầm tích và xác định độ mài tròn, độ chọn lọc, độ cầu và 
mức độ biến đổi thứ sinh, các di tích sinh vật xuất hiện trong mẫu 
Xác định kiến trúc-cấu tạo và hàm lượng phần trăm các khoáng vật 
trong mẫu. 
2.3.6. Phương pháp phân tích nguyên tố bằng nhiễu xạ tia X (XRF) 
Thiết bị Avaatech XRF Core Scanner được sử dụng cho phép 
quét cột mẫu bằng huỳnh quang tia X để tính hàm lượng bán định 
lượng của các nguyên tố. Các phép đo huỳnh quang tia X được tiến 
hành với thời gian thời gian đo 30s và hiệu điện thế 10 kV, cho 
phép xác định dải nguyên tố từ nhôm (Al) cho đến sắt (Fe). Việc 
ghi liên tục thành phần hóa học bằng phương pháp quét huỳnh 
quang tia X cho phép xác định chính xác các thay đổi về tướng trầm 
tích. Máy quét mẫu XRF sử dụng bức xạ huỳnh quang để đo thành 
phần hóa học của trầm tích dựa trên cơ sở cường độ nguyên tố trên 
tổng số đếm hay số đếm trên giây. 
2.3.7 .Phương pháp tính tốc độ tích tụ trầm tích hiện đại 
Để đo hoạt độ 210Pb ta tiến hành đo đồng vị 210Po là đồng vị 
con của 210Pb trải qua quá trình phân hủy alpha thành đồng vị bền 
206Pb với chu kỳ bán hủy 138 ngày. Tốc độ tích tụ trầm tích được 
xác định theo sự suy giảm hoạt độ chì dư tích cực 210Pb theo hàm số 
mũ khi độ sâu trầm tích tăng lên kể từ bề mặt với giả thiết một sự 
tập trung khởi đầu ổn định của đồng vị. Từ phương trình của 
Robbins and Edgington (1975) [77] ta xác lập được công thức tính 
toán tốc độ tích tụ trầm tích sau: 
 13 
 SAR=   z  [ln(A0 /Az)]-1 
Trong đó z là độ sâu trong lõi mẫu (cm), A0 là hoạt độ đồng vị 
210Pb dư tích cực tại bề mặt tham khảo (dpm/g), và Az là hoạt độ 
210Pb dư tích cực tại độ sâu z bên dưới bề mặt tham khảo (dpm/g),  
là hệ số bán hủy 0.0311/năm. 
2.3.8. Phương pháp đo tuổi trầm tích bằng đồng vị 14C 
Việc đo đồng vị 14C trên các vật liệu trầm tích lựa chọn được 
thực hiện tại phòng phân tích đồng vị Leibniz CHLB Đức. Các tuổi 
AMS-14C được đo trên hệ thống máy đo AMS 4130 Tandentron 3 
MV. Sai số nằm trong khoảng 0,25 đến 0,3%. Sau đó chương trình 
CALIB (HTML version 5.0.1) được sử dụng để chuyển đổi tuổi 
AMS 14C thành tuổi tương ứng với thời gian dương lịch. Đối với 
các cột mẫu trầm tích thu thập ở vùng châu thổ ngầm, các mẫu phân 
tích được loại cacbonat, đốt lên, vật chất hữu cơ trong mẫu cháy 
sinh ra khí CO2. Khí CO2 được thu lại chuyển sang dạng graphit để 
tiến hành phân tích 14C bằng khối phổ kế gia tốc (AMS)Viện nghiên 
cứu biển Woods Hole, Hoa Kỳ. Các giá trị tuổi được so sánh tương 
đối với nhau theo cột mẫu để ước tính tốc độ tích tụ trầm tích giai 
đoạn Holocen muộn. 
2.3.9. Phương pháp địa chấn địa tầng 
Các số liệu ĐCNPGC được xử lý, lọc tần thấp/tần cao thích 
hợp nhằm đạt được các băng địa chấn rõ nét và có các lớp thông tin 
cần thiết. Tốc độ âm trung bình được lấy 1.500 m/s trong nước biển 
và 1.550 m/s trong trầm tích để tính độ sâu với thời gian nhân đôi. 
Số liệu địa chấn được minh giải theo lý thuyết địa tầng phân tập mà 
khởi đầu bởi Mitchum và nnk (1977) [64] và Vail (1987) [96], và 
sau đó được phát triển bởi nhiều tác giả khác dựa vào trường sóng 
và dạng hình học. Các đơn vị địa chấn được phân biệt dựa trên các 
đặc điểm như tính liên tục phản xạ, biên độ, tần số và hình học phân 
lớp. 
 14 
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM TRẦM TÍCH PLEISTOCEN MUỘN 
-HOLOCEN THỀM LỤC ĐỊA ĐÔNG NAM VIỆT NAM 
3.1. Trầm tích Pleistocen muộn phần sớm (Q13a ) 
Trầm tích này được xác định nằm bên dưới bề mặt đất phong 
hóa cứng, phân bố hầu khắp trên toàn thềm từ vùng thềm nông đến 
gần mép thềm lục địa. Kết quả nghiên cứu về XRF trên cột mẫu 
187-116 có tuổi cổ hơn 50 nghìn năm và cột mẫu 140-04 thu thập 
được trên vùng thềm ngoài tại độ sâu 99 m nước có tuổi vào khoảng 
27140 năm trước. Trầm tích bao gồm trầm tích đồng bằng châu thổ, 
vũng vịnh, bãi triều, tiền châu thổ thổ và biển nông. 
3.2. Trầm tích Pleistocen muộn phần muộn-Holocen Q13b -Q21 
3.2.1 Trầm tích tiền châu thổ-biển nông (Q13b) 
Trầm tích tiền châu thổ được tìm thấy ở dạng nêm, phân lớp 
nghiêng phủ đáy, phân bố ở mép rìa thềm lục địa có tuổi trầm tích 
nằm trong khoảng 26-17 nghìn năm. Cấu tạo của trầm tích chủ yếu 
là bùn sét có các xen kẹp cát hạt mịn. Các kết quả nghiên cứu về 
thành phần thạch học cho thấy hàm lượng cát 40-50 %, hàm lượng 
cacbonat vào khoảng 6 %, hàm lượng cacbon hữu cơ vào khoảng 
0,24 %. Kết quả phân tích về thành phần hạt thô cho thấy hàm 
lượng mảnh thực vật 5-20%, mảnh đá <5%, foram trôi nổi nhỏ hơn 
5%, hàm lượng foram đáy 10-40%. Kết quả nghiên cứu về tỷ số địa 
hóa log(Ti/Ca) nằm trong khoảng -0,75 đến -0,5. 
3.2.2 Trầm tích bãi triều lầy/rừng ngập mặn/vũng vịnh ven bờ 
(Q13b-Q21) 
Nhóm tướng trầm tích này được tìm thấy trong nhiều nơi trên 
khu vực thềm lục địa chuyển tiếp với bề dày trầm tích biến đổi 
trung bình 1-3 m. Kết quả nghiên cứu một số mẫu cho thấy hàm 
lượng cát nhỏ hơn 20 %, hàm lượng bột sét hơn 80 %, thành phần 
hạt vụn tại cột mẫu 140-17, 187-114 thuộc thềm ngoài và thềm 
chuyển tiếp cho thấy hàm lượng mảnh thực vật chiếm ưu thế trong 
 15 
phần thấp của cột mẫu, hàm lượng mảnh đá gia tăng về phía trên, 
hàm lượng cát lớn hơn về phía trên, hàm lượng cacbonat có chiều 
hướng tăng, trong khi hàm TOC có chiều hướng giảm. Trầm tích 
này phủ trên bề mặt bào mòn (sét loang lổ cứng). 
3.2.3. Trầm tích sông lấp đầy thung lũng cắt xẻ (Q13b -Q21) 
Trầm tích lấp đầy thung lũng cắt xẻ được xác định khá rõ 
trên một số tuyến ĐCNPGC và các cột mẫu thu được. Thành phần 
bao gồm cát, cát bùn, bùn cát có mầu nâu xám, xám sẫm. Phân tích 
các cột mẫu thu được cho thấy hàm lượng bột sét chiếm ưu thế 
trung bình khoảng 50-80 %, chứa nhiều mảnh thực vật, có rất ít các 
mảnh vỏ sinh vật. Sự chiếm ưu thế của hàm lượng bột sét phản ánh 
môi trường tích tụ trầm tích thuộc vùng sông/cửa sông chịu ảnh 
hưởng của thủy triều. Kết quả nghiên cứu thành phần hạt vụn tại 
trên thềm chuyển tiếp cho thấy hàm lượng mảnh thực vật và mảnh 
đá chiếm ưu thế. Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng cacbonat 
nhỏ hơn 2%, hàm lượng TOC biến đổi từ 0,2 đến 1%. Kết quả phân 
tích về địa hóa cho thấy hàm lượng Fe trong khoảng 25-35 
(cnts*103), hàm lượng Ti trong khoảng 3,5-4,5 (cnts*103), hàm 
lượng Ca trong khoảng từ 1-2 (cnts*103), hàm lượng Al 1,75-2,75 
(cnts*103). Kết quả tính tỷ số Log(Ti/Ca) nằm trong khoảng -0,5 
đến 0. 
3.2.4. Trầm tích biển nông-biển mở (Q13b-Q23 ) 
Trầm tích hình thành trong môi trưởng biển nông-biển mở (từ 
thềm chuyến tiếp đến thềm ngoài) khá đa dạng từ cát sạn, cát bùn 
lấn ít sạn, bùn cát vv... Nhìn chung, hàm lượng trầm tích kích thước 
hạt thô >63 m chiếm ưu thế. Một số mẫu trầm tích được lấy ở độ 
sâu 50-60 m và khoảng 25-30 m trên TĐN, bao gồm các trầm tích 
cát, sạn laterit có chứa vỏ sinh vật độ mài tròn tốt, chọn lọc tốt 
thuộc tướng đê cát ven bờ, bãi biển cổ [14]. Trầm tích chứa nhiều 
vụn vỏ sinh vật [92]. Nghiên cứu phân tích thành phần hạt vụn cho 
 16 
thấy trầm tích thường bao gồm mảnh đá, mảnh vỏ sinh vật foram 
đáy, foram trôi nổi và một số mẫu cho thấy sự có mặt của khoáng 
vật glauconit. Trầm tích này nằm phủ trên toàn khu vực thềm từ độ 
sâu khoảng 30-120 m nước. Bề dày trầm tích trung bình vào khoảng 
2- 4 m. Kết quả phân tích về thành phần địa hóa XRF cho thấy tỷ số 
log(Ti/Ca) vào khoảng -1 đến -1.2. 
Kết quả nghiên cứu về thạch học lát mỏng trên các mẫu trong 
độ sâu 30-50 m có hàm lượng cát trên 70 % cho thấy hàm lượng 
thạch anh chiếm khoảng 80%, Plagioclas <4%, felspat kali <1%, 
caxit khoảng 10%, mảnh đá phiến thạch anh-sericit-chlorit và thạch 
anh - mica vào khoảng 3%. Các kết quả tính toán về độ cầu và độ 
mài tròn các hạt thạch anh cho thấy độ cầu Sf từ 0,69-0,72 và độ 
mài tròn Ro = 0,65-0,70. 
3.3. Thành tạo trầm tích Holocen muộn (Q23) 
Trầm tích phân bố chủ yếu ở vùng châu thổ ngầm của 
ĐBSCL. Lớp đỉnh của châu thổ ngầm với thành phần cát hạt mịn 
chọn lọc tốt phân bố trong khoảng độ sâu 3- 6 m có bề dày mỏng 
hơn 2 m khu vực trước cửa sông [91]. Lớp sườn châu thổ với thành 
phần bột sét chiếm ưu thế có hàm lượng vào khoảng 80-95%. Kết 
quả nghiên cứu vi cấu tạo trầm tích bằng tia X cho thấy trầm tích 
sườn châu thổ có cấu tạo phân lớp mỏng và nghiêng tạo bởi trầm 
tích bùn sét có nhiều xen kẹp bột cát mịn. Kết quả phân tích về kích 
thước hạt trung bình (d50) nằm trong khoảng 10-45 m, hàm lượng 
cát rất mịn (10-40 %), bột và sét (10-90 %). 
Kết quả phân tích thành phần thạch học bằng lát mỏng cho 
thấy hàm lượng thạch anh, mảnh đá chiếm hơn 80%, các hàm lượng 
khác chiếm tỷ lệ nhỏ, hàm lượng khoáng vật caxit có không đáng 
kể cho thấy môi trường trầm tích ở đây bị chi phối mạnh bởi quá 
trình lục nguyên của hệ thống sông Mekong. Đặc biệt các hạt thạch 
anh thường cho thấy có lớp vỏ hydroxit sắt mỏng bọc phía ngoài. 
 17 
Kết quả phân tích hàm lượng thành phần khoáng vật cột mẫu KC-
05 bao gồm: thạnh anh 30-50%, semectit 10-20%, muscuvite 10-
20%, koalinite 5-0%, illit 2-7%, clorite 7-15%, abit 1-5%, canxit < 
2%, goethit 0,1-1% (hình 3.31). 
3.4. Các bề mặt phản xạ và đơn vị địa chấn địa tầng 
Phân tích và minh giải địa chấn cho phép xác định bốn bề 
mặt phản xạ chính bao gồm bề mặt phản xạ SB2, SB1, TS, MFS. 
Tương ứng với bốn bề mặt phản xạ lớn ta xác định được năm đơn 
vị địa chấn địa tầng T1, T2, T3, T4 và T5. Trong đó tập T1 tương 
ứng với thành tạo trầm tích Q13a, T2 tương ứng với thành tạo nêm 
phân bố ở mép thềm Q13b, T3 tương ứng với thành tạo lấp đầy thung 
lũng cắt xẻ Q13b- Q21, T4 tương ứng với thành tạo biển nông-biển 
mở Q13b- Q23, T5 tương ứng với thành tạo châu thổ ngầm hiện đại 
Q23. 
3.5. Đặc điểm phân bố trầm tích bề mặt đáy biển 
3.5.1. Phân bố trầm tích bề mặt trên thềm lục địa 
Các trầm tích phân bố trên bề mặt đáy biển chủ yếu thuộc 
thành tạo trầm tích Holocen (Q21-3). Các kết quả nghiên cứu cho 
thấy có 13 trường trầm tích phân bố trên đáy biển: cát bùn lẫn ít sạn 
((g)mS); cát bùn sạn (gmS); cát sạn (gS); cát lẫn ít sạn ((g)S); cát 
lẫn ít bùn ((g)S); cát (S); cát sạn (gS); cát bùn(mS); bùn cát (sM); 
cát bùn (mS); bùn (m) [9,10,12]. Nhìn tổng thể, trầm tích thô với 
thành phần là cát chiếm ưu thế ở khu vực thềm chuyển tiếp và thềm 
ngoài, trong khi trầm tích mịn bùn chiếm ưu thế khu vực thềm trong 
viền quanh bờ ĐBSCL. 
3.5.2.Đặc điểm địa hóa TOC và Cacbonat trầm tích bề mặt 
Các kết quả phân tích TOC và cacbonat cho thấy: khu vực 
thềm trong TOC trong khoảng 0,7-1 %, cabonat nhỏ hơn 5%; khu 
vực thềm chuyển tiếp TOC 0,31 %, cacbonat trung bình khoảng 5-
27 %; khu vực thềm ngoài TOC 0,1-0,4 %, cacbonat 4,7-25,7 %. 
 18 
Hàm lượng TOC giảm từ khu vực châu thổ ngầm ra khu vực thềm 
chuyển tiếp và thềm ngoài, trong khi hàm lượng cacbonat tăng cao. 
CHƯƠNG 4 . TIẾN HÓA TRẦM TÍCH PLEISTOCEN 
MUỘN-HOLOCEN THỀM LỤC ĐỊA ĐÔNG NAM 
4.1. Các yếu tố chi phối tiến hóa trầm tích thềm lục địa 
Các yếu tố có vai trò quan trọng trong quá trình tiến hóa trầm 
tích khu vực thềm lục địa trong giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen 
bao gồm: (1) sự thay đổi mực nước biển, (2) nguồn cung cấp vật 
liệu trầm tích, (3) tốc độ tích tụ trầm tích, (4) địa hình đáy biển, và 
(5) chế độ động lực [45,100]. Trong các yếu tố trên, sự thay đổi 
mực nước biển toàn cầu giữ vai trò chủ đạo trong suốt quá trình tiến 
hóa trầm tích của thềm lục địa giai đoạn Pleitocen muộn-Holocen 
[11, 18]. Sự thay đổi mực nước biển tương đối được khống chế bởi 
sự thay đổi mực nước biển toàn cầu và yếu tố kiến tạo địa động lực 
khu vực. 
4.2. Thay đổi mực nước biển Pleistocen muộn-Holocen 
Vào khoảng 130 nghìn năm cách ngày nay, khí hậu Trái đất đi 
vào thời kỳ ấm và mực nước biển tăng lên nhanh chóng sau giai 
đoạn băng hà tương ứng với thời kỳ MIS 6 vào khoảng 140 nghìn 
năm trước [52]. Mực biển cao nhất vào thời kỳ đầu Pleistocen 
muộn tương ứng thời kỳ MIS 5e, cách ngày nay khoảng 125-115 
nghìn, cao hơn mực biển ngày nay khoảng 5-6 m tại các vùng xa 
cực [52]. Sau thời kỳ gian băng cuối cùng tương ứng với MIS 5, 
Trái đất bắt đầu đi vào thời kỳ băng hà cuối cùng. Nhiều nghiên cứu 
chi tiết về thay đổi mực nước biển kể từ khoảng 140 nghìn năm trở 
lại đây trong chu kỳ băng hà cuối cùng đã được thực hiện [28, 52, 
81]. Thay đổi mực nước biển giai đoạn Pleistocen muộn-Holocen 
được nghiên cứu tương đối chi tiết hơn so với các giai đoạn trước 
đó [28, 34, 42, 46, 54, 81]. 
 19 
4.3. Phân chia các miền hệ thống trầm tích 
Trong phần cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu phân 
chia các miền hệ thống tương đối dựa trên sự thay đổi mực nước 
biển giai đoạn Pleitocen muộn-Holocen bao gồm: (1) hệ thống miền 
biển cao-thoái (HST) từ khoảng 125-26 nghìn năm trước; (2) miền 
hệ thống biển thấp (LST) từ 26-17 nghìn năm trước; (3) miền hệ 
thống biển tiến (TST) từ 17-6 nghìn năm trước; (4) miền hệ thống 
thềm SST hình thành trong 6 nghìn năm qua tương ứng với HST trẻ 
nhất, nhưng phân bố trên thềm được đặc trưng bởi trầm tích biển 
nông-mở hoàn toàn; (5) miền hệ thống miền biển cao (HST) trẻ 
nhất hình thành sau 6 nghìn năm cho đến nay, nằm ven bờ biển-đặc 
trưng cho sự xâm lấn của châu thổ Mekong hiện đại. 
4.3.1. Miền hệ thống trầm tích biển cao- thoái (Q13a) 
Miền trầm tích biển cao-thoái (HST) được hình thành trong 
tiến trình mực nước biển hạ xuống từ 125 nghìn năm đến 26 nghìn 
năm, tương ứng từ thời kỳ MIS 5e cho đến hết MIS 3.Tập trầm tích 
miền biển cao-thoái T1 được xác định trên tài liệu ĐCNPGC có mặt 
từ khu vực thềm trong cho đến vùng thềm ngoài, nằm trên bề mặt 
SB2 và dưới bề mặt SB1. Miền hệ thống trầm tích biển cao-thoái 
tương ứng với tập trầm tích T1 thuộc thành tạo Pleistocen muộn 
phần sớm Q13a. Thông qua việc minh giải các tuyến địa chấn khu 
vực thềm và xác định tại một số mẫu 187-116, 187-114, 187-106 
187-67, và 140-04 cho thấy tập trầm tích này nằm bên dưới bề mặt 
sét loang lổ cứng. Đặc điểm tướng trầm tích tiền châu thổ, bãi triều 
ven biển thể hiện rõ nét trong cột mẫu 187-116 tại độ sâu 38 m 
nước, có tuổi cổ hơn 50 nghìn năm trước và tại cột mẫu 140-4 độ 
sâu 89 m nước, có tuổi khoảng 27 nghìn năm trước. Phản ánh xu 
thế trầm tích trẻ dần từ khu vực gần bờ ra mép thềm lục địa. 
4.3.2. Miền hệ thống biển thấp (Q13b) 
 20 
Miền hệ thống trầm tích biển thấp (LST) tương ứng với tập 
trầm tích T2 có cấu tạo dạng nêm trầm tích phủ đáy hình thành ở 
khu vực mép của thềm lục địa tại độ sâu hơn 125 m nước vào thời 
kỳ mực nước biển thấp trong khoảng 26-17 nghìn năm trước, tương 
ứng với giai đoạn cuối của MIS 3 đến MIS 2. Đặc điểm trầm tích 
của nêm
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tt_tien_hoa_tram_tich_pleistocen_muon_holocen_khu_vuc_them_luc_dia_dong_nam_viet_nam_3939_1920486.pdf