Nền kinh tế phát triển, Nhân dân được thụ hưởng đời sống ấm no hơn
nhiều so với thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc hay bao cấp trước đổi mới.
Tuy nhiên, còn một bộ phận lớn dân nghèo có sống chật vật, thiếu thốn.
Nhiều nơi còn tình trạng mất dân chủ, xâm phạm quyền làm chủ, quyền tự
do của Nhân dân; tình trạng duy ý chí, quan liêu, áp đặt sai pháp luật của cơ
quan, cá nhân trong bộ máy chính quyền với người dân có xu hướng diễn
biến phức tạp. Mặt khác, đời sống xã hội hiện nay đang nảy sinh và lan rộng
biểu hiện tự do quá mức, vượt ngoài khuôn khổ pháp luật, vô tổ chức, mất kỷ
cương. Điều kiện vật chất được cải thiện hơn nhưng các giá trị tinh thần
trong gia đình, dòng tộc, cộng đồng xã hội đang bị tấn công và xói mòn
nghiêm trọng. Không ít người đang thừa vật chất nhưng thiếu tinh thần nên
không thể có một cuộc sống hạnh phúc đúng nghĩa. Thành tích về mặt phát
triển con người thấp hơn so với phát triển kinh tế. Phát triển con người của
Việt Nam từng tiến nhanh nhưng gần đây đã chậm lại
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về nhân dân và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm rõ những vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ quan niệm về Nhân dân, vị trí, vai trò
của Nhân dân theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.
8
Thứ hai, phân tích để làm rõ rằng trong tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh về Nhân dân, con đường để Nhân dân Việt Nam thực hiện đúng vị
trí, vai trò của mình khi mà tình cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến
đã tước mất chính là tiến hành sự nghiệp cách mạng. Luận giải rõ những
vấn đề trên để cho thấy đây không chỉ là lý thuyết, mong muốn chính trị
mà còn là nội dung hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, ý nghĩa của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân
trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay.
Tiểu kết Chương 1
Nghiên cứu “Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân và ý
nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay”, Chương 1 của luận án đã tổng
quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài thông qua khảo sát, phân
tích, nhận định các công trình nghiên cứu (sách, bài viết trên tạp chí khoa
học) trong và ngoài nước theo hai nhóm: (1) Các công trình nghiên cứu
liên quan đến tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; (2) Các công trình nghiên
cứu liên quan đến tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân. Kết quả
nghiên cứu của các công trình liên quan là nguồn tư liệu quý báu giúp thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
Chương 2
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
2.1. QUAN NIỆM VỀ NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Quan niệm chung về Nhân dân
Từ nhiều khái niệm về nhân dân có thể nhận thấy những đặc trưng
nổi bật sau của phạm trù này:
Trước hết, nhân dân là toàn thể cộng đồng người (nghĩa rộng, hiểu
thông thường) hoặc cộng đồng người chiếm đa số trong xã hội (nghĩa hẹp,
cách hiểu khoa học chặt chẽ).
Thứ hai, nhân dân là cộng đồng người được gắn kết chặt chẽ thành
thể thống nhất bởi mẫu số chung. Mẫu số chung này khác nhau trong nhiều
quan niệm.
Thứ ba, nhân dân là phạm trù chính trị - xã hội có tính lịch sử, vừa
mang tính cộng đồng xã hội vừa mang tính giai cấp. Thành phần trong
nhân dân có sự thay đổi và luôn khác biệt về giai cấp, tầng lớp.
9
Đảng Cộng sản Việt Nam quan niệm Nhân dân là toàn thể dân tộc,
không phân biệt giai cấp, tầng lớp, vị thế xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn
giáo cùng tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong sự
đồng thuận, thống nhất, đoàn kết toàn dân, lực lượng nền tảng, nòng cốt là
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
2.1.2. Cơ sở hình thành và nội dung quan niệm về Nhân dân
trong tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh nói riêng, Nhân dân đứng ở vị trí trung tâm thể hiện qua tần suất rất
lớn các quan điểm đề cập đến trong di sản bài viết, bài nói. Trong đó, quan
niệm về Nhân dân là sự khởi đầu, điểm xuất phát cho hệ thống quan điểm
chính trị toàn diện và sâu sắc về Nhân dân của Người.
2.1.2.1. Cơ sở hình thành quan niệm về Nhân dân trong tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh
Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhân dân là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo quan niệm về nhân dân của các nhà tư tưởng Mác –
Lênin và nhiều quan niệm thuộc các trường phái tư tưởng khác, kế thừa và
phát huy tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc vào điều kiện cụ thể
đương thời của Việt Nam. Do vậy, Nhân dân trong quan niệm của Người
vừa có điểm nhất quán, vừa có những thay đổi, điều chỉnh phù hợp với
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
2.1.2.2. Nội dung quan niệm về Nhân dân trong tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh xem Nhân dân là tập hợp gắn kết đa số người khác
nhau về dân tộc, tôn giáo, giới tính, giai tầng, địa vị,... trong xã hội nhưng
thống nhất thành một cộng đồng chung. Đó là toàn dân, toàn dân tộc Việt
Nam, bao gồm mọi người thuộc các dân tộc đa số và thiểu số, sống ở trong
nước hay ở nước ngoài, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
tôn giáo. Hồ Chí Minh viết: Dân là mọi người dân Việt Nam; là mọi con
dân nước Việt; là mỗi người con Rồng cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ,
gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện, trong đó công nông chiếm tuyệt đại đa số.
Trong nhiều trường hợp, Hồ Chí Minh gọi Nhân dân là quần chúng,
quốc dân, đồng bào. Quan niệm này bao hàm trong đó các tiêu chí văn
hóa, lịch sử, lãnh thổ cư trú. Nhân dân Việt Nam là cộng đồng mọi người
dân, không phải tất cả, mà phải là người Việt Nam chung gốc tích, lịch sử,
văn hóa. Hồ Chí Minh cũng không cứng nhắc khi lấy tiêu chí lãnh thổ cư
10
trú để xác định thành phần Nhân dân. Cần lưu ý cách Hồ Chí Minh nói:
Dân là mọi người dân Việt Nam; là mọi con dân nước Việt; là mỗi người
con Rồng cháu Tiên... . "người dân Việt Nam" muốn nói ở đây là tất cả
mọi người Việt Nam đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Hồ Chí Minh
đặt ở vị trí đầu tiên trong quan niệm nêu trên tiêu chí về lãnh thổ cư trú để
nhấn mạnh. Ở điểm này, Hồ Chí Minh tương đồng với nhiều quan niệm
hiện nay khi lấy chủ quyền quốc gia làm một trong những tiêu chí để xác
định thành phần nhân dân. Tuy nhiên, biên độ Nhân dân của Hồ Chí Minh
không dừng lại ở phạm vi lãnh thổ cư trú – lãnh thổ quốc gia – mà mở
rộng ra ở phạm vi văn hóa. "mọi con dân nước Việt", "mỗi người con
Rồng cháu Tiên" trong quan niệm về Nhân dân của Hồ Chí Minh chỉ cả
người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài. Kết hợp
tiêu chí lãnh thổ cư trú và văn hóa, lịch sử giúp cho quan niệm về Nhân
dân của Hồ Chí Minh phản ánh đầy đủ thành phần trong Nhân dân, vừa có
trọng tâm là mọi người Việt Nam sinh sống trong nước, vừa bao quát khi
có cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đây là quan niệm về Nhân
dân theo nghĩa rộng.
Từ cách tiếp cận hẹp hơn, Hồ Chí Minh phân biệt sự khác nhau giữa
quốc dân và Nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân và quốc dân khác nhau.
Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và
những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân.
Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân. Nhưng
chúng không được ở trong địa vị nhân dân, không được hưởng quyền lợi
như nhân dân. Chúng không có quyền tuyển cử, ứng cử; không có quyền
tổ chức tuyên truyền, v.v.. Song chúng cần phải làm tròn nghĩa vụ, như
phục tùng trật tự, tuân theo pháp luật của nhân dân”.
Hồ Chí Minh lấy "yêu nước" làm tiêu chí để xác định các thành phần
trong quốc dân gắn kết thành khối thống nhất với tên chung "Nhân dân".
Quan niệm cho thấy, khái niệm Nhân dân mang màu sắc và ý nghĩa chính
trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội.
Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một phạm trù rộng, mang tính
cộng đồng dân tộc mà vẫn bao hàm và thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc.
Điểm nổi bật dễ nhận thấy là có hai kiểu phân chia thành phần Nhân
dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, căn cứ theo giai tầng, tôn giáo, tầng lớp, độ tuổi, giới tính,
nghề nghiệp, dân tộc, Hồ Chí Minh xem Nhân dân là tập hợp thống nhất
11
của "bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử
khác yêu nước"; cộng đồng người không phân biệt "già, trẻ, gái, trai, giàu,
nghèo, quý, tiện". Trong đó, Hồ Chí Minh khẳng định liên minh công nhân
- nông dân - trí thức là cốt lõi, nền tảng.
Thứ hai, căn cứ theo hệ giá trị tinh thần, vào vai trò tiến bộ xã hội,
theo Hồ Chí Minh, về đại thể dân gồm ba tập hợp con người: "Bất kỳ nơi
nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng
vừa vừa, và hạng kém. Mà trong ba hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa,
nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém đều ít hơn".
Trong nhiều hoàn cảnh cụ thể, Hồ Chí Minh quan niệm về Nhân dân
một cách ngắn gọn, phản ánh những đặc trưng chung nhất. Với cán bộ, đảng
viên, Nhân dân là chủ, là đối tượng lãnh đạo và phục vụ. Với hệ thống chính
trị, Nhân dân là lực lượng tổ chức ra, nuôi dưỡng và bảo vệ, đồng thời là
người chịu sự lãnh đạo, quản lý. Với sự nghiệp chính trị, Nhân dân là chủ thể,
lực lượng chủ yếu. Nhìn chung, với cách tiếp cận này, quan niệm về Nhân dân
của Hồ Chí Minh vừa cho thấy vị trí, vai trò của Nhân dân, vừa cho thấy mối
quan hệ giữa Nhân dân với các chủ thể khác, vừa nêu rõ những yêu cầu về
nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhân dân.
2.2. NHÂN DÂN LÀ MỤC TIÊU VÀ ĐỘNG LỰC CỦA SỰ
NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.2.1. Nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Xét đến cùng, nhận thức cũng như hành vi chính trị của Hồ Chí Minh
nhất quán hướng đến Nhân dân như là mục tiêu thường xuyên và tối thượng.
Nhân dân là mục tiêu, lý tưởng của Hồ Chí Minh, của sự nghiệp cách
mạng trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh không mang tính nhất thời,
không là một thủ đoạn, sách lược chính trị mà là vấn đề có tính chiến lược
được duy trì và phát triển theo hướng không ngừng củng cố, bổ sung, phát
triển. Mục tiêu, lý tưởng vì Nhân dân trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt, ngọn
hải đăng dẫn đường cho toàn bộ quan điểm và hành vi chính trị của Hồ
Chí Minh và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhiều nghiên cứu cho rằng,
mục tiêu, lý tưởng đó tựu trung lại trong các mệnh đề: (1) Dân tộc độc lập;
(2) Nhân dân tự do; (3) Nhân dân hạnh phúc; (4) Dân trí nâng cao; (5)
Dân chủ thực hành.
2.2.2. Nhân dân là động lực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Vai trò của Nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam thể
hiện ở chỗ Nhân dân là động lực to lớn thúc đẩy cách mạng tiến lên, quyết
12
định mọi thắng lợi của cách mạng. Nhân dân, bằng tất cả tinh thần và lực
lượng của mình, đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các yếu tố mà nếu
thiếu thì sự nghiệp cách mạng không thể nảy sinh, duy trì và phát triển
được. Có thể phân tích điều đó qua các điểm chủ yếu sau:
- Nhu cầu, nguyện vọng của Nhân dân là động lực khởi phát sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Nhân dân đóng góp trí tuệ góp phần quyết định việc xây dựng và
đảm bảo tính đúng đắn của đường lối cách mạng.
- Nhân dân cung cấp tài lực, vật lực đảm bảo yêu cầu nền tảng vật
chất để sự nghiệp cách mạng được thực hiện thắng lợi.
- Nhân dân là lực lượng đông đảo, hùng hậu đóng vai trò chính thực
hiện đường lối cách mạng, bảo vệ thành quả cách mạng.
Tiểu kết Chương 2
Với nhiệm vụ làm rõ quan niệm, vị trí, vai trò của Nhân dân trong tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh, nội dung Chương 2 trình bày hai phần: Quan
niệm về Nhân dân trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; Nhân dân là mục
tiêu và động lực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh. Tinh thần cốt lõi là:
Thứ nhất, mọi quan niệm về Nhân dân của Hồ Chí Minh trước hết
đều là quan niệm chính trị, đều mang sắc thái chính trị.
Thứ hai, sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trên tất cả các khía cạnh,
ở mọi phạm vi, cấp độ đề cập, đều vì dân.
Thứ ba, Nhân dân là động lực to lớn thúc đẩy cách mạng tiến lên,
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.
Chương 3
SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH LÀ ĐƯA NHÂN DÂN LÊN ĐÚNG
VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN
3.1. GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN, ĐƯA NHÂN DÂN LÊN ĐỊA
VỊ LÀ CHỦ VÀ LÀM CHỦ XÃ HỘI, LÀM CHỦ ĐẤT NƯỚC
3.1.1. Cách mạng Việt Nam là sự nghiệp giải phóng Nhân dân
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về Nhân dân khẳng định: Trong điều
kiện đất nước đương thời, để Nhân dân trở về đúng vị trí, vai trò, thực hiện
được mục đích chính trị của mình thì trước hết phải giải phóng Nhân dân.
Giải phóng Nhân dân Việt Nam là mục tiêu và nội dung chính trong
sự nghiệp đấu tranh cách mạng của toàn thể Nhân dân dưới sự lãnh đạo
13
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm giải thoát Nhân dân khỏi tình cảnh bị
thống trị, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân đế quốc và các thế lực nội
phản, khỏi sự trói buộc bởi những thói quen và truyền thống lạc hậu đang
kiềm kẹp sự phát triển, mang lại cho Nhân dân cuộc sống tự do cả về tinh
thần lẫn thể chất trong tư cách người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội,
làm chủ chế độ, làm chủ chính mình.
Nội dung của giải phóng Nhân dân có nhiều cấp độ gắn liền với các
quan điểm về xác định và nhận định kẻ thù của Nhân dân – thế lực nắm địa
vị thống trị, áp bức, kiềm kẹp Nhân dân trong tình cảnh mất tự do, cũng là
đối tượng của cuộc đấu tranh giải phóng:
Trước hết, giải phóng Nhân dân Việt Nam khỏi sự thống trị của các
thế lực ngoại xâm.
Hai là, giải phóng Nhân dân Việt Nam khỏi các thế lực nội phản áp
bức, bóc lột.
Ba là, giải phóng Nhân dân Việt Nam khỏi sự cản trở của thói quen
và truyền thống lạc hậu.
Muốn giải phóng Nhân dân phải làm cách mạng, tùy đối tượng đấu
tranh thế nào mà có hình thức cách mạng tương ứng. Đồng thời, làm cách
mạng không để giải phóng cho riêng ai, riêng giai tầng nào mà là để giải
phóng đất nước, giải phóng toàn dân.
Mục tiêu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh hướng đến trong giải phóng
Nhân dân luôn mang tính triệt để. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh chống
thực dân đế quốc và tay sai bán nước dẫu lâu dài nhưng chắc chắn có ngày
kết thúc thắng lợi. Với kẻ thù là thói quen và truyền thống lạc hậu cản trở
sự tiến bộ của Nhân dân trong tư cách lực lượng chính trị đóng vai trò chủ
thể của cách mạng, chủ thể của chế độ, xã hội, đất nước, thì không có điểm
kết thúc. Để giải phóng Nhân dân khỏi kẻ thù này, Hồ Chí Minh yêu cầu
phải có một cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hóa – xã hội một cách bền
bỉ, không ngừng nghỉ và quyết tâm cao.
Theo Hồ Chí Minh, "cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ
không phải việc một hai người". Lực lượng tiến hành cách mạng nhằm mục
tiêu giải phóng Nhân dân không đâu khác ngoài Nhân dân yêu nước được
giác ngộ, "nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm
cách mệnh". Trong thành phần cấu thành lực lượng cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam là tổ chức tiên phong đóng vai trò lãnh đạo.
14
3.1.2. Lập ra nhà nước của Nhân dân, người dân là chủ xã hội,
làm chủ đất nước
Ngay khi xác định cách mạng Việt Nam là sự nghiệp giải phóng
Nhân dân thì Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến "giành lấy chính quyền về
tay nhân dân" và xây dựng chính quyền trở thành công cụ mạnh mẽ, sáng
suốt để Nhân dân thực hiện vai trò là chủ xã hội, làm chủ đất nước.
- Giành lấy và kiến lập Nhà nước của Nhân dân là điều kiện đảm bảo
đầu tiên để đưa Nhân dân lên đúng vị trí, vai trò và thực hiện đúng mục
đích của mình.
- Thông qua nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân để
xác lập và đảm bảo quyền là chủ và quyền làm chủ của Nhân dân.
Sự kiến lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ thắng lợi của
Tổng khởi nghĩa tháng 8 đã hiện thực hóa tư tưởng xây dựng nhà nước dân
chủ thực sự của Hồ Chí Minh. Những nỗ lực thiết kế, tổ chức, xây dựng
Nhà nước sau đó đều được Hồ Chí Minh chú tâm xác lập, đảm bảo quyền là
chủ và làm chủ của Nhân dân. Có thể đánh giá trên ba nét lớn:
Một là, thể chế hóa, pháp lý hóa quyền là chủ và làm chủ nhà nước
của Nhân dân.
Hai là, nhà nước phải nâng cao năng lực làm chủ cho Nhân dân.
Ba là, xây dựng nhà nước trở thành công cụ cốt yếu để Nhân dân
thực hiện vai trò làm chủ xã hội, làm chủ đất nước.
3.2. CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM LÀ CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN
3.2.1. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là của Nhân dân và
do Nhân dân
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân.
Nói công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vị trí chủ thể của nhân dân đối với giai đoạn
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trong con đường cách mạng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều này vốn được xác
lập từ lâu, rất rõ ràng và thống nhất cao nên Hồ Chí Minh đề cập như là sự
khẳng định hơn là luận giải nguyên nhân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp do Nhân dân,
thể hiện trên ba góc độ cơ bản sau:
Một là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do Nhân dân mà có.
Hai là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do Nhân dân thực hiện.
15
Ba là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do Nhân dân giữ gìn,
bảo vệ.
Hồ Chí Minh là một thành tố trong Nhân dân Việt Nam tham gia xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh là một thành tố đặc biệt,
là người tiên phong, dẫn đường, người thấy rõ và đề cao nhất, kiên quyết
và sáng tạo nhất để khẳng định và thực tiễn hóa vị trí, vai trò của Nhân dân
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tôn trọng và thấu hiểu Nhân
dân, Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là của
Nhân dân, do Nhân dân. Đến lượt mình, Nhân dân tin cậy, ủng hộ, đoàn
kết, kiên quyết gắng sức tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chính phủ. Trong trường hợp này, mối quan hệ giữa cá
nhân kiệt xuất và quần chúng nhân dân hòa hợp, quyện chặt, tương tác
thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
3.2.2. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vì nhân dân
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội khẳng định và thực hiện các mục
tiêu vì lợi ích và sự phát triển của Nhân dân trên các khía cạnh cơ bản sau:
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống vật chất
cho Nhân dân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống văn hóa –
tinh thần cho Nhân dân.
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xây dựng chế độ chính trị phục vụ
Nhân dân, từng bước hướng đến xóa bỏ bất công, bóc lột, giải phóng triệt
để con người.
Tiểu kết Chương 3
Chương 3 của Luận án trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh về Nhân dân trên hai góc độ: (1) Giải phóng Nhân dân,
đưa nhân dân lên vị trí là chủ và làm chủ xã hội, làm chủ đất nước; (2)
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Tựu trung lại có thể rút ra mấy kết luận sau:
Một là, giải phóng Nhân dân Việt Nam là mục tiêu và nội dung chính
trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của toàn thể Nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm giải thoát nhân dân khỏi tình
cảnh bị thống trị, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân đế quốc và các
thế lực nội phản, khỏi sự trói buộc bởi những thói quen và truyền thống lạc
hậu đang kiềm kẹp sự phát triển, mang lại cho Nhân dân cuộc sống tự do
16
cả về tinh thần lẫn thể chất trong tư cách người làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội, làm chủ chế độ, làm chủ chính mình.
Hai là, cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai đoạn tiếp liền sau khi cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi, giải phóng đất nước khỏi ách
thống trị của ngoại xâm và tay sai, thiết lập chính quyền của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân.
Nói công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của Nhân dân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vị trí chủ thể của Nhân dân đối với giai đoạn
thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa trong con đường cách mạng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội do Nhân dân mà có bởi nó được khởi xướng từ nhu cầu của
Nhân dân và được thực hiện bởi Nhân dân. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội từ chỗ "do Nhân dân" mà có phải chuyển thành "vì Nhân dân" mà
thực hiện mới đảm bảo vị trí chủ thể của Nhân dân xuyên suốt từ khi bắt
đầu đến quá trình thực hiện và đích đến cuối cùng.
Chương 4
Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
VỀ NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
4.1. CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI PHẢI ĐẠT TỚI MỤC TIÊU VÀ LÝ
TƯỞNG CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
4.1.1. Công cuộc đổi mới phải đạt tới “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”
Mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh",
trên phạm vi chỉnh thể hay từng phạm trù, nội hàm, đều thể hiện sự kế
thừa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh về Nhân dân nói riêng. Thực tiễn đổi mới phấn đấu hiện thực
hóa các mục tiêu ấy được soi đường bởi hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc này của Hồ Chí Minh.
- Dân giàu
Dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau song một trong những tiêu chí cốt
lõi của chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đề cập chính là "dân giàu". Thế
nhưng, trước đổi mới, chúng ta không nói “dân giàu” vì cho rằng nói “dân
giàu” không đúng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với
nhận thức này, sau mười năm cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, "đời sống
nhân dân lao động còn nhiều khó khăn". Tiến hành đổi mới, lần đầu tiên “dân
17
giàu” được xem là tiêu chí của chủ nghĩa xã hội. Trước đây, không nói "dân
giàu" thì nay làm giàu được khuyến khích, tạo mọi điều kiện, tất nhiên là phải
hợp pháp. Sau ba mươi năm đổi mới, nền kinh tế phát triển lên nhiều lần; đời
sống Nhân dân được nâng lên rõ rệt, từ chỗ thiếu đói, thiếu thốn nhiều nhu yếu
phẩm cần thiết đến nay đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào hàng
ngũ các nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình.
- Nước mạnh:
Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi thân phận
thuộc địa, khỏi tình cảnh nước nhược tiểu, vươn lên sánh vai với các
cường quốc năm châu. Mười năm trước đổi mới, làm cho đất nước hùng
cường thông qua xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được nói đến. Tuy nhiên,
trong thời gian này, đất nước yếu cả về vị thế và nội lực – hai yếu tố biểu
hiện sức mạnh của quốc gia.
Nội lực của một đất nước thể hiện qua nhiều khía cạnh, tập trung ở
sức mạnh kinh tế, quốc phòng và văn hóa.
Về kinh tế, trước đổi mới (12/1986), trong bối cảnh khủng hoảng,
nền kinh tế chẳng những không cấu tạo nên sức mạnh quốc gia mà còn cho
thấy rõ hình ảnh một đất nước đang suy yếu, khủng hoảng. Nhờ động lực
của tiến trình đổi mới, nền kinh tế đã vượt qua được tình trạng trì trệ, suy
thoái, từng bước nâng dần nhịp độ tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế trong 30 năm đổi mới đưa đất nước ta thoát khỏi nước nghèo, trở
thành nước có thu nhập trung bình.
Cùng với nền kinh tế, nội lực của một quốc gia mạnh thể hiện ở năng
lực quốc phòng. Sau 30 năm đổi mới, nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân được xây dựng toàn diện, có bước phát triển cả về chiều rộng và
chiều sâu, ngày càng vững chắc. Nhờ vậy, trong 30 năm đổi mới, "Độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững”.
Trước đây, khi đề cập đến sức mạnh quốc gia thì văn hóa ít được nhắc
đến. Đây là cách hiểu chưa đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiến hành đổi
mới, trở lại với những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, xuyên suốt nhiều kỳ Đại hội
Đảng, chúng ta xác định mục tiêu phải xây dựng văn hóa thành nền tảng tinh
thần của xã hội, là sức mạnh, động lực tinh thần to lớn thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. “Qua 30 năm đổi mới, lĩnh vực xây dựng,
phát triển văn hóa, con người đã đạt những kết quả quan trọng... đời sống
tinh thần của con người, xã hội phong phú, đa dạng hơn, mức hưởng thụ văn
hóa của nhân dân từng bước được nâng lên”.
18
Vị thế quốc gia được nâng cao cả về "chỗ đứng" và "tiếng nói". Từ
chỗ bị bao vây, chủ yếu quan hệ đối ngoại với các nước trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa, từ Đại hội VI với tinh thần muốn là bạn với tất cả các nước,
cùng hợp tác phát triển bình đẳng đến nay Việt Nam đã là thiết lập quan hệ
ngoại giao với hầu hết các nước và nhiều tổ chức quốc tế. Với các nước,
Việt Nam đưa quan hệ ngoại giao ngày càng đi vào chiều sâu.
- Dân chủ
Thực hành dân chủ là mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong mọi giai
đoạn. Khởi xướng đổi mới, bài học đầu tiên được Đảng xác định là "trong
toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm
gốc”. Tổng kết 30 năm đổi mới, nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật
nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ
của Nhân dân tiếp tục được ban hành. Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện
được đổi mới góp phần phát huy tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế.
- Công bằng
"Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước
ta" được Đại hội VI xác định là một trong các mục tiêu cụ thể về kinh tế -
xã hội của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ. Quan điểm này được kế thừa và phát huy cho đến nay. Chúng ta đã
thực hiện công bằng xã hội trên nhiều mặt. Về kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội đối với các thành phần kinh tế. Về xã hội, từng bước hoàn
thiện chính sách xã hội, làm tốt chính sách bảo trợ xã hội, xóa đói giảm
nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, "bảo đảm sự công bằng
về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, chống đặc quyền đặc lợi".
Về xây dựng hệ thống chính trị, công bằng xã hội phải được thể hiện trong
từng hoạt động, từng chính sách phát triển. Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội giai đoạn 2011 – 2020 tiếp tục xác định "thực hiện tốt tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từng chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_tu_tuong_chinh_tri_ho_chi_minh_ve_nhan_dan_v.pdf