Tôn Trung Sơn đã tách biệt “tri” với “hành”, điều này mâu thuẫn với
quan điểm “lấy việc làm mà tìm biết, rồi do biết để tiến lên làm” do chính
ông đưa ra. Ông đã cường điệu thái quá vai trò của những cá nhân đặc biệt,
gọi họ là “nhà phát minh”, “tiên tri tiên giác”; đồng thời coi quần chúng
nhân dân là những “người thực hành”, “bất tri bất giác”, ông chưa nhận thức
được chính thực tiễn xã hội của quần chúng nhân dân mới là cái nguồn của
tri thức chân chính, lấy mãi không hết, dùng mãi không cạn. Do đó, ông cho
rằng, “tri” và “hành” phải có sự phân định rõ ràng – “người biết bất tất phải
tự làm, người làm bất phải tự biết” (người biết thì không cần phải tự làm,
người làm thì không cần phải tự biết).
32 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tư tưởng triết học của tôn trung sơn và ý nghĩa của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à Chủ nghĩa Tam dân đối với Hồ Chí Minh của tác giả Lê Thị Tình (Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8/2015); Nhìn chung, các công trình
trên đã trình bày sơ lược mối quan hệ giữa Tôn Trung Sơn và cách mạng
Việt Nam đầu thế kỷ XX, thể hiện ở những ảnh hưởng của cách mạng
Trung Quốc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam, đối
với các nhà cách mạng tiền bối của Việt Nam.
1.4. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất, các công trình vừa nêu ở trên đã đề cập đến rất nhiều nội
dung tư tưởng của Tôn Trung Sơn: Tư tưởng cận đại, tư tưởng chính trị, tư
tưởng dân chủ, tư tưởng khoa học, giáo dục, quân sự, tư tưởng đối ngoại, tư
tưởng kiến thiết xã hội, v.v.. Nhiều công trình thông qua nghiên cứu về chủ
nghĩa Tam dân đã phân tích tư tưởng của Tôn Trung Sơn về chủ nghĩa dân
tộc, chủ nghĩa dân quyền và chủ nghĩa dân sinh. Qua các công trình này,
người đọc thấy được những nội dung phong phú trong tư tưởng Tôn Trung
Sơn, không chỉ thấy được tầm vóc của một nhà tư tưởng có tinh thần đổi mà
còn là một nhà cách mạng, một lãnh tụ của cuộc cách mạng Tân Hợi.
Bên cạnh đó, nhiều công trình đã đề cập đến ảnh hưởng của Tôn
Trung Sơn, cách mạng Tân Hợi, Chủ nghĩa Tam dân đến phong trào cách
mạng và các nhà tư tưởng của Việt Nam giai đoạn cận đại, v.v.. Hầu hết các
công trình đều khẳng định rằng, Tôn Trung Sơn và cuộc cách mạng Tân
Hợi có ảnh hưởng to lớn đến cách mạng Việt Nam, ảnh hưởng đến các nhà
cách mạng Việt Nam như Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh Nhiều bài viết
đã phân tích những biểu hiện trong tư tưởng, trong đường lối cách mạng của
Hồ Chí Minh thể hiện sự ảnh hưởng từ Tôn Trung Sơn, từ Chủ nghĩa Tam
dân.
Thứ hai, ở Việt Nam, mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về tư tưởng của Tôn Trung Sơn, tuy nhiên những công trình chuyên sâu về
tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn lại khá khiêm tốn. Nhiều công trình
có đề cập đến tư tưởng triết học của ông nhưng dung lượng chưa lớn, hầu
hết nội dung của các công trình này còn tương đối đơn giản, chưa có sự
phân tích sâu, còn thiếu tính hệ thống.
Thứ ba, ở Việt Nam, cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một tác
phẩm chuyên khảo nào nghiên cứu một cách hệ thống và khái quát về tư
tưởng triết học của Tôn Trung Sơn. Các công trình nghiên cứu về Tôn
Trung Sơn chủ yếu bàn về Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa Tam dân, Tôn
Trung Sơn với cách mạng Tân Hợi, ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với
các nhà yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, v.v., đặc biệt, các công trình
này đa phần được thể hiện trên các bài báo, tạp chí. Vì vậy, đây là một khó
khăn cho việc thực hiện đề tài, nhưng đồng thời cũng là một thuận lợi để đề
tài có thể đóng góp một phần trong việc nghiên cứu tư tưởng Tôn Trung
Sơn nói chung, tư tưởng triết học của ông nói riêng. Đề tài cũng mong
muốn góp phần khai thác những giá trị tích cực trong tư tưởng triết học của
Tôn Trung Sơn để từ đó vận dụng trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta
hiện nay.
Thứ tư, qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu của các học giả
đi trước, trên cơ sở kế thừa, phát triển những kết quả nghiên cứu đã đạt
được, luận án sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu tư tưởng triết học của Tôn Trung
Sơn, nhất là tư tưởng Tiến hóa luận, tư tưởng Tri nan hành dị, tư tưởng dân
chủ, tư tưởng về quyền con người. Trên cơ sở nghiên cứu sâu hơn và hệ
thống hóa tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn, luận án chỉ ra giá trị và ý
nghĩa của tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn đối với xã hội hiện nay.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC CỦA TÔN TRUNG SƠN
2.1. Bối cảnh xã hội Trung Quốc giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu
thế kỷ XX
Trung Quốc giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là giai
đoạn tiến hành cuộc cách mạng dân chủ cũ do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm
mục đích chống lại sự xâm lược của các thế lực bên ngoài (đế quốc phương
Tây) và lật đổ sự thống trị của chế độ phong kiến ở Trung Quốc, với mục
đích chính trị là xây dựng chính quyền nhà nước chuyên chính của giai cấp
tư sản, mục tiêu của cuộc cách mạng là nhằm phát triển chủ nghĩa tư bản,
trong đó cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 là cuộc cách mạng dân chủ
kiểu cũ đầu tiên có ý nghĩa hết sức quan trọng.
2.2. Nguồn gốc lý luận cho sự hình thành và phát triển tư tưởng
triết học của Tôn Trung Sơn
2.2.1. Những quan niệm về quốc gia, dân tộc, nhà nước trước Tôn
Trung Sơn
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, quan niệm về quốc gia, dân tộc,
nhà nước đã có từ rất sớm. Từ thời cổ đại, Trung Quốc đã có nhiều tư tưởng
về chính trị xã hội như các học thuyết chính trị của Lão, Mặc, Khổng, Pháp
gia rất nổi tiếng, và mỗi học thuyết đều chỉ ra mục đích của việc xây dựng
một quốc gia lý tưởng. Chẳng hạn”, học thuyết “Vô vi” của Lão Tử đã phác
họa mô hình “nước nhỏ, dân ít”; học thuyết “Đức trị” của Khổng Tử nhắc
đến xã hội “tiểu khang, đại đồng” ; thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử với chủ
trương xây dựng một quốc gia lý tưởng “chính bình dân an”; phái Pháp gia
thiết kế mô hình quốc gia lý tưởng là “quốc cường quân tôn”;
2.2.2. Những quan niệm về dân quyền của các nhà tư tưởng trước
Tôn Trung Sơn
Từ thời cổ, Mạnh Tử đã có ý tưởng manh nha về “dân ý” khi cho
rằng, trọng dân ý là luôn lấy quan điểm của người dân để xét về chính trị,
nhưng vẫn phải có giới hạn về đẳng cấp. Đến thời Minh - Nguyên, Lưu Cơ
phát triển tư tưởng lấy “dân làm gốc” thành nguyên tắc tối cao trong trị
quốc. Tới đời Thanh, Khang Hữu Vi tin rằng, đó là một trong những nền
tảng để đạt tới thế giới đại đồng.
2.2.3. Những quan niệm về dân sinh trước Tôn Trung Sơn
Về tư tưởng “dân sinh”, Tôn Trung Sơn tiếp thu nhiều ý tưởng của
các nhà tư tưởng trước ông, chẳng hạn: Lão Tử với tư tưởng làm cho dân
“đầy cái bụng” (thực kỳ phúc); Khổng Tử với tư tưởng quý dân; Mạnh Tử
với tư tưởng “cùng dân”; Tuân Tử với tư tưởng “vị dân”; phái Pháp gia với
tư tưởng dưỡng dân; tư tưởng trọng dân của Hoàng Tôn Di (cuối đời Minh
đầu đời Thanh).
2.3. Con người và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Tôn
Trung Sơn
Tôn Trung Sơn có tên là Văn, tự là Dật Tiên, xuất thân trong một gia
đình nông dân nghèo tại thôn Thuý Hanh, huyện Hương Sơn (nay là thành
phố Trung Sơn), tỉnh Quảng Đông. Từ nhỏ ông đã tham gia lao động làm
ruộng và sớm thấy được nỗi vất vả của người nông dân. Tôn Trung Sơn
ngay từ thời kỳ còn là thiếu niên đã vô cùng căm hận những thói hư tật xấu
tồn tại trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Khi lớn lên, Tôn Trung Sơn đã
có cơ hội được ra nước ngoài học tập. Trong thời gian học tập tại nước
ngoài, ông đã bền bỉ học tập, thu hoạch được rất nhiều và có hệ thống những
tri thức về khoa học tự nhiên; đặc biệt, có điều kiện khảo sát tình hình kinh
tế - chính trị của các nước Âu – Mỹ, tiếp xúc với nền dân chủ tư sản phương
Tây, bị thuyết phục bởi những khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của
phương Tây. Với mong muốn cải tạo xã hội Trung Quốc cũ, sau khi trở về
Trung Quốc, ông đã vận dụng một cách sáng tạo những kiến thức mà ông
đã học được ở nước ngoài vào trong quá trình hoạt động cách mạng của
mình.
Tiểu kết chương 2
Vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chế độ phong kiến
Trung Quốc vốn tồn tại hàng nghìn năm bắt đầu suy yếu và đứng trước
nguy cơ tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang dần hình thành
dẫn đến những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
cũng như mâu thuẫn giữa những lực lượng, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là
tầng lớp tư sản cấp tiến với tầng lớp quan lại phong kiến bảo thủ. Không
những vậy, Trung Quốc lại phải đối phó với sự xâm lược của thực dân
phương Tây. Cuộc chiến tranh Nha phiến là một trong những biểu hiện của
mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước tư bản phương Tây.
Bối cảnh xã hội Trung Quốc giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX đặt ra yêu cầu cho việc tìm kiếm con đường để giải phóng Trung Quốc,
mà hạt nhân của con đường ấy chính là hệ tư tưởng lý luận để làm kim chỉ
nam, dẫn đường giải phóng Trung Quốc. Tôn Trung Sơn là người sống
trong bối cảnh Trung Quốc lúc đó, tất cả những diễn biến của xã hội Trung
Quốc lúc đó đã tác động mạnh mẽ đến ông, thôi thúc ông đi tìm con đường
giải phóng Trung Quốc. Là người được hấp thụ hai nền giáo dục là nho giáo
truyền thống của Trung Quốc và nền giáo dục phương Tây, cộng thêm cơ
hội được tiếp xúc với các tác phẩm của phương Tây, có được những nhận
thức về dân chủ, tự do, bình đẳng, v.v. đã hình thành trong tư tưởng Tôn
Trung Sơn những phác thảo ban đầu về tư tưởng, đường lối giải phóng
Trung Quốc.
Trong quá trình tìm tòi, xây dựng hệ tư tưởng cứu nước, Tôn Trung
Sơn cũng đã nghiên cứu các học thuyết tư tưởng, các nền triết học truyền
thống như Nho gia, Mặc gia, đồng thời tiếp thu những quan niệm về quốc
gia, dân tộc, về dân quyền, dân sinh, về thế giới đại đồng; về tư tưởng trọng
dân, lấy dân làm gốc, v.v. trong truyền thống Trung Quốc. Đồng thời, ông
cũng đã kết hợp những tư tưởng về tự do, bình đẳng của phương Tây với
những tư tưởng truyền thống Trung Quốc để hình thành nên tư tưởng triết
học của riêng mình.
CHƯƠNG 3: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TÔN TRUNG
SƠN
3.1. Tư tưởng triết học tự nhiên của Tôn Trung Sơn trong Tiến
hóa luận
3.1.1. Về nguồn gốc và sự tiến hóa của vũ trụ
Tôn Trung Sơn cho rằng, tiến hóa là quy luật phổ biến của vạn vật
trong vũ trụ. Ông cho rằng, sự hình thành và phát triển của vũ trụ chính là
quá trình tiến hóa vật chất, là quá trình lịch sử phát triển thế giới vật chất.
Ông phân chia quá trình tiến hóa vũ trụ thành 3 thời kỳ như sau: Thời kỳ thứ
nhất là thời kỳ tiến hóa vật chất; thời kỳ thứ hai là thời kỳ tiến hóa giống
loài; thời kỳ thứ ba là thời kỳ tiến hóa của nhân loại.
3.1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần
Về mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, Tôn Trung Sơn thừa nhận
vật chất có trước, tinh thần có sau, không thể tách rời vật chất để xem xét
tinh thần, tinh thần có tác động trở lại đối với vật chất.
3.2. Nhận thức luận của Tôn Trung Sơn qua thuyết “Tri nan
hành dị”
3.2.1. “Hành tiên tri hậu” (Làm trước biết sau)
“Hành tiên tri hậu” là đặc điểm cơ bản trong nhận thức luận duy vật
của Tôn Trung Sơn, cũng là nền tảng cho học thuyết “tri nan hành dị” của
ông. Tôn Trung Sơn đã dẫn ra một loạt những sự kiện lịch sử, các hoạt động
thực tế của cuộc đấu tranh giai cấp và lịch sử tiến bộ văn minh của nhân loại
để luận chứng cho quá trình nhận thức của con người là “làm trước biết
sau”. Có thể nói, “làm trước biết sau” là nội dung cơ bản, hạt nhân hợp lý
của thuyết “tri nan hành dị”.
Áp dụng quan điểm này vào thực tiễn hoạt động cách mạng, Tôn
Trung Sơn đặc biệt nhấn mạnh, chỉ khi nào trực tiếp tham gia đấu tranh cách
mạng, thì khi đó mới có thể hiểu được quy luật và nguyên nhân dẫn đến
thành công hay thất bại của cách mạng. Điều này cho thấy, theo Tôn Trung
Sơn, nguyên tắc quan trọng nhất là xuất phát từ thực tiễn, là thái độ thực sự
cầu thị và tinh thần sáng tạo. Điều đáng chú ý, Tôn Trung Sơn hoàn toàn
không phải là người sùng bái học thuyết Mác, nhưng ông lại đồng tình với
“phương pháp khoa học” của Mác khi cho rằng phải xuất phát từ thực tiễn
xã hội để nghiên cứu các vấn đề của xã hội.
3.2.2. “Bất tri diệc năng hành” (Không biết vẫn có thể làm)
Tôn Trung Sơn nhiều lần nói rằng con người muốn nhận thức một
cách đúng đắn đối với thế giới khách quan thì tất yếu phải thông qua quan
sát và thí nghiệm khoa học; hơn nữa muốn có được tri thức trên phương
diện lịch sử xã hội thì tất yếu phải thông qua đấu tranh cách mạng và các
hoạt động chính trị xã hội khác. Quan sát và thí nghiệm khoa học, thực tiễn
cách mạng của giai cấp tư sản chính là nội dung quan trọng của “hành” mà
ông nói đến, và đây cũng là phương pháp để có được tri thức.
Tôn Trung Sơn còn cho rằng, bất kỳ nguyên lý hay lý luận nào cũng
đều cần phải thông qua “hành” mới có thể biết được nó là đúng hay sai.
Điều này chứng tỏ rằng, Tôn Trung Sơn đã bước đầu nhận thức được
“hành” là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý, “hành” là mục đích của nhận
thức. Quan điểm này của ông khá tương đồng với quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng khi xem thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý.
3.2.3. “Năng tri tất năng hành” (Có thể biết nhất định có thể làm)
Tôn Trung Sơn đã tiếp cận được phép biện chứng khi giải quyết vấn
đề mối quan hệ giữa “tri” và “hành, chỉ ra rằng nhận thức của nhân loại
không ngừng tiến về phía trước trong quá trình “lấy hành để cầu tri, vì tri mà
thực hiện hành”, “hành từ không có tri đến có tri”, “vì đã có tri nên càng cần
phải thực hiện hành”.
Tôn Trung Sơn ra sức nhấn mạnh tác dụng quan trọng của “tri”,
khẳng định rằng, nếu xa rời những tri thức khoa học thì văn minh nhân loại
sẽ không thể tiến bộ được, từ đó cho thấy ông đã khẳng định và đánh giá
cao tác dụng chỉ đạo của “tri” đối với “hành”.
Tôn Trung Sơn đề cao tác dụng chỉ đạo của lý luận cách mạng đối
với thực tiễn cách mạng. Ông cho rằng, “tri thức của cách mạng” là vũ khí
tư tưởng của cách mạng, “nền tảng của cách mạng nằm ở chỗ học vấn uyên
thâm”, muốn cho cách mạng của Trung Quốc giành được thắng lợi thì tất
yếu phải có sự chỉ đạo của lý luận cách mạng đúng đắn, đồng thời phải tiến
hành từng bước và có kế hoạch..
3.2.4. “Tri hành phân nhiệm” (sự phân công giữa biết và làm)
Tôn Trung Sơn đã tách biệt “tri” với “hành”, điều này mâu thuẫn với
quan điểm “lấy việc làm mà tìm biết, rồi do biết để tiến lên làm” do chính
ông đưa ra. Ông đã cường điệu thái quá vai trò của những cá nhân đặc biệt,
gọi họ là “nhà phát minh”, “tiên tri tiên giác”; đồng thời coi quần chúng
nhân dân là những “người thực hành”, “bất tri bất giác”, ông chưa nhận thức
được chính thực tiễn xã hội của quần chúng nhân dân mới là cái nguồn của
tri thức chân chính, lấy mãi không hết, dùng mãi không cạn. Do đó, ông cho
rằng, “tri” và “hành” phải có sự phân định rõ ràng – “người biết bất tất phải
tự làm, người làm bất phải tự biết” (người biết thì không cần phải tự làm,
người làm thì không cần phải tự biết).
3.3. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Tôn Trung Sơn
trong Chủ nghĩa Tam dân
3.3.1. Tư tưởng dân chủ
Tư tưởng dân chủ là một trong những tư tưởng quan trọng của Tôn
Trung Sơn, là kim chỉ nam cho cách mạng dân chủ ở Trung Quốc giai đoạn
cận đại, góp phần thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa Trung Quốc. Tư tưởng
này được hình thành trên cơ sở kế thừa, phát huy tư tưởng “dân là gốc” (dân
vi bản) của Nho giáo trong lịch sử văn hóa truyền thống Trung Quốc và các
mô hình dân chủ ở các nước Âu Mỹ, đồng thời kết hợp với tình hình cụ thể
của Trung Quốc. Tư tưởng này đã dần dần được bổ sung và hoàn thiện
trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Tôn Trung Sơn, do đó, nó hàm
chứa nhiều nội dung sâu sắc như: Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân,
lý luận về trình tự thực hiện cách mạng, hiến pháp ngũ quyền và quyền năng
phân trị.
3.3.2. Tư tưởng về tự do và bình đẳng
Tư tưởng về tự do và bình đẳng là bộ phận cấu thành chủ nghĩa dân
quyền của Tôn Trung Sơn. Về tư tưởng tự do, Tôn Trung Sơn đề cao tự do
của quốc gia hơn tự do của cá nhân, thậm chí tự do của cá nhân phải phục
vụ tự do của quốc gia. Về tư tưởng bình đẳng, ông không cho rằng con
người sinh ra đều bình đẳng như nhau, ngược lại, con người sinh ra đã có sự
bất bình đẳng. Để đạt được bình đẳng, theo ông, con người phải cố gắng, nỗ
lực để đạt được. Một trong những điểm sáng trong tư tưởng của Tôn Trung
Sơn về bình đẳng là đề cao bình đẳng nam nữ hay bình đẳng giới. Không
những thế, ông còn ra sức hành động để hiện thực hóa quyền bình đẳng giới
này.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 là chương trọng tâm của luận án, nội dung chương này đề
cập đến một số tư tưởng triết học cơ bản của Tôn Trung Sơn như tư tưởng
triết học tự nhiên, tư tưởng nhận thức luận, tư tưởng triết học chính trị.
Trong tư tưởng triết học tự nhiên, Tôn Trung Sơn đã đề cập đến các vấn đề
như nguồn gốc và sự tiến hóa của vũ trụ; mối quan hệ giữa vật chất và tinh
thần. Ông cho rằng, tiến hóa là quy luật phổ biến của vạn vật trong vũ trụ; sự
hình thành và phát triển của vũ trụ chính là quá trình tiến hóa của vật chất, là
quá trình lịch sử phát triển thế giới vật chất. Ông đã phân chia lịch sử phát
triển của tự nhiên và con người thành 3 giai đoạn hay 3 thời kỳ: Thời kỳ tiến
hóa của vật chất; thời kỳ tiến hóa của giống loài; thời kỳ tiến hóa của nhân
loại. Có thể nói, do chịu ảnh hưởng của học thuyết Đác Uyn, Tôn Trung
Sơn đã đưa ra cách lý giải lịch sử phát triển của nhân loại dựa trên các
nguyên lý của học thuyết tiến hóa. Cách lý giải này cho thấy tư tưởng của
Tôn Trung Sơn mang những đặc điểm của chủ nghĩa duy vật. Khi bàn về
mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, Tôn Trung Sơn cho rằng, vật chất có
trước, tinh thần có sau, vật chất quyết định tinh thần, nhưng ở chiều ngược
lại, tinh thần có sự tác động trở lại đối với vật chất. Khi liên hệ tư tưởng này
với thực tiễn cách mạng, Tôn Trung Sơn hết sức đề cao vai trò của ý chí,
của tinh thần.
Một trong những điểm đặc sắc trong tư tưởng triết học của Tôn
Trung Sơn chính là khi ông bàn đến thuyết “tri nan hành dị”. Đây được xem
là tư tưởng của ông về nhận thức. Nội dung đầu tiên trong thuyết “tri nan
hành dị” là “làm trước biết sau” (hành tiên tri hậu). Đây được xem là đặc
điểm cơ bản trong nhận thức luận duy vật của Tôn Trung Sơn, cũng là nền
tảng cho học thuyết “tri nan hành dị” của ông. Nội dung thứ hai là “Bất tri
diệc năng hành” (Không biết vẫn có thể làm); nội dung thứ ba là “Năng tri
tất năng hành” (Có thể biết nhất định có thể làm); nội dung cuối cùng là “Tri
hành phân nhiệm” (sự phân công giữa biết và làm).
Trong triết học chính trị của Tôn Trung Sơn, ông đã đề cập đến
những tư tưởng về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, về quyền năng
phân trị, về hiến pháp ngũ quyền Trong nội dung này, ông cũng trình bày
những tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái. Có thể thấy, tư tưởng triết học
của Tôn Trung Sơn không chỉ chịu sự ảnh hưởng từ các hệ tư trưởng truyền
thống Trung Quốc, mà còn chịu ảnh hưởng khá rõ nét từ các trường phái,
trào lưu tư tưởng, triết học phương Tây.
Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn đã có những yếu tố tích cực,
nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định do điều kiện lịch sử quy định.
Nhưng, như chúng ta đã thấy, tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn có ảnh
hưởng to lớn đến việc hình thành lý luận cách mạng, con đường cách mạng,
chiến lược cách mạng của ông.
CHƯƠNG 4: GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA TÔN TRUNG SƠN
4.1. Giá trị, ý nghĩa trên phương diện thế giới quan và nhận thức
luận
4.1.1. Thế giới quan duy vật
Nhìn một cách tổng thể, thế giới quan của Tôn Trung Sơn chủ yếu là
chủ nghĩa duy vật, thể hiện qua một số điểm sau đây:
Thứ nhất, với Tôn Trung Sơn, những thành tựu của khoa học tự
nhiên được xem là những yếu tố cơ bản góp phần hình thành nên quan niệm
duy vật chủ nghĩa về thế giới tự nhiên của ông. Những luận giải mang
khuynh hướng chủ nghĩa duy vật của Tôn Trung Sơn về thế giới tự nhiên,
như bản nguyên của vũ trụ, về sự ra đời, phát triển của thế giới sự vật khách
quan cũng như tính chất của nó, không phải là sự suy đoán mang tính trực
quan và ngây thơ, mà đó là sự giải thích dựa trên những tri thức tiên tiến của
khoa học tự nhiên. Nhờ đó, ông đã đưa ra nhiều luận giải hết sức cơ bản và
đúng đắn về các vấn đề cơ bản của triết học, đó là: Bàn về phạm trù “vật
chất” và “tinh thần”, mối quan hệ qua lại giữa “vật chất” và “tinh thần”.
Thứ hai, Tôn Trung Sơn cho rằng, bản thân sự chuyển động của vật
chất chính là nguyên nhân gốc rễ dẫn tới sự phát triển và tiến hóa liên tục
của vạn vật trong vũ trụ. Điều này khác với quan điểm của Niutơn và một số
người khác khi cho rằng nguồn gốc của sự chuyển động vật chất xuất phát
từ những thứ tồn tại bên ngoài sự vật hay còn gọi là ngoại lực. Không những
thế, dựa trên nền tảng của khoa học tự nhiên thời kỳ Cận đại, đặc biệt là “3
phát kiến vĩ đại” (Học thuyết tế bào, Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng, Thuyết tiến hóa), Tôn Trung Sơn đã vận dụng những thành quả mới
nhất của khoa học tự nhiên để luận chứng về những vấn đề hết sức cơ bản
của thế giới tự nhiên, như sự xuất hiện của hệ mặt trời, sự hình thành giống
loài và con người.
4.1.2. Tư tưởng biện chứng
Thứ nhất, tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn chứa đựng nhiều yếu
tố biện chứng. Ông không chỉ thừa nhận mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ
đều trải qua quá trình tiến hóa liên tục từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, mà còn thừa nhận các hình thái vật chất trong quá trình vận động cũng
chuyển hóa lẫn nhau, tương tác với nhau, đồng thời ông cũng thừa nhận tính
vô hạn của vật chất. Với Tôn Trung Sơn, thế giới vật chất tồn tại khách quan
và không ngừng tiến hóa, liên tục phát triển; không có cái gì nhất thành bất
biến, tiến hóa và phát triển là nguyên tắc cơ bản của vũ trụ.
Thứ hai, tư tưởng biện chứng của Tôn Trung Sơn còn được thể hiện
khi ông bàn về mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần. Tôn Trung Sơn đã có
tư tưởng đúng đắn khi khẳng định rằng mặc dù vật chất quyết định tinh thần,
nhưng tinh thần cũng có vai trò tác động trở lại đối với vật chất. Ông thừa
nhận, bản nguyên của vũ trụ chính là vật chất, tinh thần chỉ là sản vật của
một giai đoạn nhất định trong quá trình tiến hóa vật chất. Quá trình tiến hóa
và phát triển của vũ trụ là quá trình tiến hóa và phát triển của chính bản thân
vật chất, mà không phải là cái gì khác tồn tại bên ngoài vật chất. Thế giới vật
chất khách quan mà chúng ta đang sống ở đó là do quá trình tiến hóa vật
chất mà xuất phát điểm là “thái cực” mang lại. Sau khi Trái đất được hình
thành, dạng vật chất sống (vật chất hữu cơ) mới xuất hiện. Sau đó, dạng vật
chất này cũng không ngừng tiến hóa và phát triển.
4.1.3. Kế thừa và phát triển học thuyết nhận thức duy vật trong
triết học Trung Quốc
Tôn Trung Sơn kế thừa nhiều tư tưởng biện chứng của các nhà triết
học Trung Quốc cổ đại, như tư tưởng “hành trước tri sau” của Vương Phu
Chi, đồng thời vận dụng các tri thức khoa học tự nhiên, làm phong phú nội
dung nhận thức luận về vấn đề “tri hành”, khắc phục cách lý giải hạn hẹp
của triết học cổ đại Trung Quốc đối với vấn đề “tri” và “hành”, khắc phục
cách nhìn thiên lệch trong quan niệm truyền thống: “Tri trước hành sau”,
“tri dễ hành khó”, “tri hành hợp nhất”.
Tôn Trung Sơn đã bước đầu nhận thức được vấn đề thực tiễn là tiêu
chuẩn kiểm nghiệm chân lý, “hành” là mục đích của nhận thức. Có thể nói,
thuyết “tri nan hành dị” của Tôn Trung Sơn về cơ bản chứa đựng khuynh
hướng chủ nghĩa duy vật. Nó có ảnh hưởng tích cực và có cống hiến nhất
định đối với lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc.
4.2. Giá trị và ý nghĩa của tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn đối
với thực tiễn cách mạng Trung Quốc thời kỳ Cận đại
4.2.1. Giá trị và ý nghĩa của tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn đối
với thực tiễn cuộc cách mạng dân chủ kiểu cũ ở Trung Quốc
Những tư tưởng chính trị - xã hội của Tôn Trung Sơn có giá trị rất
lớn trong việc chỉ đạo thành công thực tiễn cách mạng. Trong đó, chủ nghĩa
tam dân cũ và chủ nghĩa tam dân mới là tư tưởng cốt lõi. Chủ nghĩa tam dân
cũ đã chỉ đạo thành công cuộc cách mạng Tân Hợi việc xóa bỏ vương triều
nhà Thanh và đế chế phong kiến. Chủ nghĩa tam dân mới chỉ đạo cuộc
chiến tranh Bắc phạt và cách mạng Dân quốc đánh lại các thế lực phản động,
thúc đẩy tiến trình cách mạng và làm thức tỉnh nhân dân Trung Quốc.
4.2.2. Giá trị và ý nghĩa của tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn đối
với thực tiễn cuộc cách mạng dân chủ kiểu mới ở Trung Quốc
Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn không chỉ có ý nghĩa đối với
sự nghiệp cách mạng Trung Quốc giai đoạn cận đại, mà còn có ý nghĩa đối
với công cuộc kiến thiết xã hội của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
Độc lập dân tộc và bình đẳng cũng có ảnh hưởng tích cực đối với quá trình
xây dựng xã hội hài hòa. Vì sự nghiệp thực hiện độc lập dân tộc, bình đẳng
dân tộc và giải phóng dân tộc, Tôn Trung Sơn đã không ngừng phát động
các phong trào đấu tranh cách mạng chống lại chủ nghĩa đế quốc và chế độ
phong kiến. Sau này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kế thừa tư tưởng của
Tôn Trung Sơn, kiên trì đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc và chế độ
phong kiến, cuối cùng đã giúp cho dân tộc Trung Hoa được giải phóng. Có
thể nói, Tôn Trung Sơn đã phấn đấu cả cuộc đời mình vì sự nghiệp chống
lại chế độ chuyên chế và kỳ vọng biến Trung Quốc trở thành một nước dân
chủ cộng hòa giai cấp tư sản “dân hữu, dân trị, dân hưởng”, thực hành dân
quyền bình đẳng phổ biến.
4.3. Một số hạn chế của tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn
4.3.1. Hạn chế về mặt nhận thức luận
Thứ nhất, thuyết “tri nan hành dị” của Tôn Trung Sơn thể hiện một
đặc điểm tương đối rõ nét đó là quá coi trọng “tri”. Tuy ông thừa nhận
“hành” là thứ không thể thiếu đối vớ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_tu_tuong_triet_hoc_cua_ton_trung_son_va_y_ng.pdf