Chương 2
KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
SINH THÁI – YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ KẾT HỢP ĐÓ
2.1. KẾT HỢP GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái
2.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là khái niệm được đề cập tới theo các khía cạnh khác
nhau. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm
năng qua thời gian của một nước, hay là mở rộng khả năng kinh tế để sản
xuất, di chuyển giới hạn khả năng sản xuất qua thời gian; tăng trưởng kinh tế
là khái niệm dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế
trong một thời kì nhất định
Theo tác giả luận án, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về số lượng và chất
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định dựa trên việc khai thác các
nguồn lực tự nhiên và xã hội.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế là: nguồn nhân lực chất
lượng cao, áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, điều
kiện môi trường sinh thái thuận lợi.
28 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 628 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môI trường sinh tháI ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp luật, chính sách kinh tế đồng bộ; cải cách,
hoàn thiện thể chế hành chính
1.2.2. Các nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi
trường sinh thái
Có các công trình tiêu biểu như: Từ cảnh báo của Ăngghen về thảm hoạ
thiên nhiên nghĩ về vai trò của nhà nước đối với bảo vệ môi trường sinh thái"
của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan, tạp chí Lý luận chính trị số 7 (2011); "Vai
trò của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ môi trường" của Lê Thị Thanh
Hà, tạp chí Triết học số 8 (2011), “Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và
môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn” của
Phạm Thị Ngọc Trầm (2006); “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi
trường” của Nguyễn Thị Thơm và An Như Hải (2011)
Các công trình khoa học trên cho thấy, chủ thể giữ vai trò quan trọng nhất
trong việc thúc đẩy quá trình bảo vệ môi trường sinh thái là nhà nước. Với tư
cách là người đại diện cho nhân dân sở hữu tài nguyên thiên nhiên, nhà nước
8
thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, kiểm tra, giám sát việc khai thác, sử
dụng tài nguyên thiên nhiên. Ở nước ta, nhà nước giữ vai trò quan trọng trong
việc đề ra chủ trương, chính sách, pháp luật và tổ chức, xây dựng đội ngũ cán
bộ chuyên trách làm công tác quản lý tài nguyên, môi trường. Để nâng cao vai
trò của nhà nước ta trong quản lý tài nguyên, môi trường cần: hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách bảo vệ môi trường; hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường ở các cấp; nâng cao ý thức
trách nhiệm bảo vệ môi trường cho nhân dân
Như vậy: Các công trình đã nghiên cứu đều có ý nghĩa nhất định về mặt lý
luận và thực tiễn. Những giá trị khoa học của các công trình đã tạo ra hướng
gợi mở quan trọng để luận án triển khai kết quả nghiên cứu theo hướng mới.
Chương 2
KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
SINH THÁI – YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ KẾT HỢP ĐÓ
2.1. KẾT HỢP GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái
2.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là khái niệm được đề cập tới theo các khía cạnh khác
nhau. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm
năng qua thời gian của một nước, hay là mở rộng khả năng kinh tế để sản
xuất, di chuyển giới hạn khả năng sản xuất qua thời gian; tăng trưởng kinh tế
là khái niệm dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế
trong một thời kì nhất định
Theo tác giả luận án, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về số lượng và chất
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định dựa trên việc khai thác các
nguồn lực tự nhiên và xã hội.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế là: nguồn nhân lực chất
lượng cao, áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại, điều
kiện môi trường sinh thái thuận lợi.
9
2.1.1.2. Khái niệm môi trường sinh thái và bảo vệ môi trường sinh thái
Có nhiều quan niệm khái niệm khác nhau về môi trường sinh thái: Môi
trường sinh thái là tất cả những điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu
cơ có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội;
Môi trường sinh thái là tổng hợp những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống của con người như không khí, nước, đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu và
các tạp chất độc hại;
Theo tác giả luận án môi trường sinh thái được hiểu là môi trường sinh
thái tự nhiên với tính cách là nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho sự tăng
trưởng của nền kinh tế, bao gồm các loại động, thực vật, các loại tài
nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng tới quá trình sản xuất.
Bảo vệ môi trường sinh thái là hoạt động của con người nhằm khai thác,
sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, đảm bảo cân bằng sinh thái
trên cơ sở giữ gìn sự trong sạch, tái tạo và cải thiện môi trường, ngăn chặn các
hậu quả xấu do tăng trưởng kinh tế gây ra cho môi trường sinh thái.
2.1.2. Quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái
2.1.2.1. Vai trò và tác động của tăng trưởng kinh tế đối với bảo vệ
môi trường sinh thái
Trong quá trình sản xuất vật chất, tăng trưởng kinh tế là cách thức chủ yếu,
là nhu cầu bắt buộc của mọi quốc gia nhằm phát triển kinh tế. Để thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng, các quốc gia đã tác động tới môi trường sinh thái.
Đối với mỗi quốc gia, nguồn tài nguyên thiên nhiên là điều kiện cơ bản để
phát triển. Trong nhiều thập kỷ qua, con người đã không ngừng đổi mới công
cụ lao động, ứng dụng công nghệ hiện đại để khai thác tài nguyên. Việc ứng
dụng công nghệ hiện đại vào khai thác tài nguyên thiên nhiên ít nhiều giúp cho
tài nguyên thiên nhiên được bảo tồn, tái tạo cảnh quan môi trường sinh thái.
Song, cũng có đem đến những bất lợi, gây nên những ảnh hưởng xấu cho môi
trường sinh thái.
Nếu kinh tế tăng trưởng tốt, con người sẽ có thêm những điều kiện vật để
bảo vệ môi trường sinh thái và ngược lại nếu kinh tế không tăng trưởng hoặc
con người tìm mọi cách khai thác triệt để tài nguyên thiên nhiên để tăng trưởng
kinh tế thì sẽ không có điều kiện để tái tạo và bảo vệ môi trường sinh thái.
10
2.1.2.2. Tác động của bảo vệ môi trường sinh thái lên tăng trưởng kinh tế
Môi trường sinh thái cung cấp những điều kiện vật chất tối thiểu để con
người sống và tiến hành sản xuất ra của cải vật chất. Sẽ không thể có tăng
trưởng kinh tế nếu thiếu các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất, chính môi
trường sinh thái đã thực hiện chức năng cung cấp đối tượng lao động để hoạt
động sản xuất diễn ra bình thường.
Do đó, bảo vệ môi trường sinh thái sẽ có tác động tích cực tới tăng trưởng
kinh tế. Môi trường sinh thái được bảo vệ, các nguồn tài nguyên thiên nhiên
không bị cạn kiệt và có điều kiện tái sinh, đầu vào cho tăng trưởng kinh tế, tất
yếu, sẽ được duy trì và ổn định. Nếu môi trường sinh thái không được bảo vệ,
tài nguyên thiên nhiên bị khai thác bừa bãi, sẽ ngày một cạn kiệt dần, không
có điều kiện tái sinh, lúc đó, đầu vào của nền kinh tế không ổn định, không
còn đủ đối tượng lao động để tiến hành sản xuất và nền kinh tế tất yếu không
thể tăng trưởng.
Để bảo vệ môi trường sinh thái, trong quá trình sản xuất, con người phải
tìm ra những phương thức phù hợp tác động tới môi trường sinh thái, đảm bảo
vừa tăng trưởng kinh tế, vừa bảo vệ môi trường sinh thái.
2.1.3. Sự cần thiết kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái đảm bảo phát triển bền vững
Một là, để phát triển kinh tế, các quốc gia ít nhiều đều phải dựa vào môi
trường sinh thái. Việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng phải hướng vào việc
khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tạo ra những tiền đề để vừa duy trì
sức tăng trưởng của nền kinh tế, vừa duy trì sự cân bằng hệ sinh thái tự nhiên.
Hai là, tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái là hai mục tiêu
được đặt ra để phát triển bền vững, song việc thực hiện hai mục tiêu này lại
thường nảy sinh những mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết. Để bảo đảm cho
các thế hệ kế tiếp có tiền đề để tăng trưởng, các thế hệ hiện tại cần phải khai
thác hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái. Điều này chỉ có
thể thực hiện dựa trên sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái.
Ba là, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái là
yếu tố cơ bản quyết định tới bền vững về xã hội. Tức là phải thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm
mục tiêu cao nhất của sự phát triển.
11
2.2. NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
2.2.1. Vai trò của nhà nước trong việc đề ra hệ thống chính sách, chiến
lược, pháp luật kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Về chính sách: Các chính sách cần có nhằm gắn tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái là: phát triển nguồn nhân lực, khoa học - công
nghệ, xây dựng cơ cấu kinh tế và phân bổ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các
chính sách này là cơ sở giúp cho nhà nước khai thác có hiệu quả các nguồn
lực từ tự nhiên cho tăng trưởng kinh tế đồng thời hướng tăng trưởng kinh tế
vào quá trình bảo vệ môi trường sinh thái
Về chiến lược: Các chiến lược là sự cụ thể hóa các chính sách gắn tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở một mức độ nhất định. Với tư
cách là cơ quan quyền lực cao nhất, nhà nước sẽ quyết định việc xây dựng các
chiến lược, huy động các nguồn lực tài chính, con người cũng như các nguồn
lực khác để thực hiện tốt các chiến lược đề ra.
Về pháp luật: Luật Quốc tế về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái là tổng thể các quy tắc, quy phạm quốc tế điều chỉnh mối
quan hệ giữa các quốc gia với nhau và giữa các quốc gia với các tổ chức quốc
tế trong việc tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh phải đảm bảo
nguyên tắc bảo vệ môi trường sinh thái trong và ngoài phạm vi quốc gia.
Luật Quốc gia về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh
thái là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lí của một quốc
gia điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quốc gia đối với
các hoạt động kinh tế có liên quan đến môi trường sinh thái nhằm kết hợp hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2.2. Vai trò của nhà nước trong tổ chức thực hiện việc kết hợp tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Vai trò của nhà nước trong tổ chức bộ máy thực hiện gắn tăng trưởng kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng tới sự tồn
vong của mỗi quốc gia. Do vậy, nó phải được coi là một lĩnh vực kinh tế - xã
hội quan trọng như các lĩnh vực khác, từ đó nhà nước xác định nhiệm vụ, ban
hành và thực thi các quyết định từ cấp trung ương đến địa phương nhằm tạo ra
12
mối liên kết theo chiều dọc từ trên xuống dưới để bảo vệ môi trường sinh thái
dưới tốc độ tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế.
Vai trò của nhà nước trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách
làm công tác gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái:
Nhà nước tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ thông qua thực hiện quy
hoạch gắn với đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ cao.
Làm tốt điều đó, sẽ có được lực lượng cán bộ có trình độ cao, đảm bảo tính kế
cận liên tục về con người, phù hợp với yêu cầu thực tiễn về gắn tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
Vai trò của Nhà nước trong việc huy động nguồn vốn; thực hiện triển khai,
nghiên cứu khoa học - công nghệ; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực gắn tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái:
Để thực hiện các nội dung bảo vệ trường sinh thái dưới tác động của tăng
trưởng kinh tế cần phải có nguồn vốn đủ lớn dùng cho các lĩnh vực: đầu tư
xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng vật chất, sản xuất sản phẩm không gây ô
nhiễm môi trường sinh thái, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện các dự án
bảo vệ môi trường
Việc ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất
làm cho hiệu quả sử dụng vốn, tài nguyên thiên nhiên tăng, nền kinh tế có sự
tăng trưởng và môi trường sinh thái được khai thác hợp lý hơn. Do đó, các
quốc gia phải nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên
tiến vào phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái
Việc mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường
cũng là một trong những động thái tích cực giúp nâng cao vai trò của nhà nước
đối với lĩnh vực gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2.3. Vai trò của nhà nước trong việc tổ chức thanh tra, kiểm tra,
giám sát thực hiện việc hiện kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái
Qua công tác này, nhà nước sẽ nắm được tình hình thực hiện việc gắn tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Từ đó, xây dựng các chính
sách, chiến lược phát triển phù hợp.
Các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát góp phần đảm bảo đưa chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào triển khai, thực hiện
13
có hiệu quả. Giúp phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2.4. Vai trò của nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận xã hội,
nâng cao trách nhiệm xã hội của cá nhân để thực hiện kết hợp tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái
Trong tăng trưởng kinh tế, chính lợi ích vật chất mà con người mong
muốn đạt được khi tiến hành khai thác tài nguyên thiên nhiên là nguyên nhân
tiềm ẩn nguy cơ mất gây an toàn cho môi trường sinh thái. Để điều hoà lợi ích
giữa các nhóm xã hội khác nhau, để mọi người đều phải thực hiện nghĩa vụ
bảo vệ môi trường sinh thái, nhà nước cần phải phát huy sự đồng thuận của
toàn xã hội, phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân vào bảo vệ môi trường
sinh thái.
Chương 3
VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. MÂU THUẪN GIỮA ĐÒI HỎI PHẢI CÓ TÍNH ĐỒNG BỘ VỀ CHÍNH
SÁCH, CHIẾN LƯỢC, PHÁP LUẬT TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI TÌNH TRẠNG
CÒN THIẾU ĐỒNG BỘ
3.1.1. Sự bất cập, thiếu đồng bộ giữa các chính sách, chiến lược trong
việc kết hợp giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh và bảo vệ môi
trường sinh thái
Thứ nhất: Sự bất cập, thiếu đồng bộ trong việc xây dựng và triển khai
các chính sách gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Các chính sách kinh tế: Nhà nước đưa ra những quy định cụ thể về các chế
độ ưu đãi về đất đai, thuế, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi
trường, các sản phẩm thân thiện môi trường cũng như các hoạt động kết hợp
hài hòa giữa bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các thành phần môi trường cho
phát triển. Tuy có những bước tiến trong ban hành và thực hiện chính sách
nhưng trong thực tế vẫn nảy sinh không ít khó khăn, phức tạp. Chẳng hạn, các
chính sách chưa tương xứng, chưa đáp ứng với những đòi hỏi của thực tế. Một
14
số chính sách còn nảy sinh những lỗ hổng pháp lý - là điều kiện cho các loại
tội phạm có cơ hội thực hiện những điều xấu, gây ảnh hưởng đến kinh tế và
hủy hoại môi trường sinh thái.
Các chính sách xã hội: bao gồm các chính sách về xóa đói giảm nghèo,
giải quyết việc làm, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ... Dù đạt
được những tiến bộ đáng kể nhưng vai trò của Nhà nước trong việc ban hành,
chỉ đạo thực hiện các chính sách này, song vẫn còn những hạn chế nhất định,
đòi hỏi Nhà nước phải tích cực, chủ động hơn nữa để đề ra các chính sách hợp
lý hơn, tạo điều kiện cần và đủ để tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
được gắn kết ngay trong từng bước phát triển của đất nước.
Thứ hai: Sự bất cập trong việc việc xây dựng và triển khai các chiến
lược nhằm thực hiện chính sách gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường sinh thái
Sự ra đời của các chiến lược tạo ra những điều kiện cần thiết, khuyến
khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư lao động, vốn, áp dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật vào khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Tuy nhiên, vẫn còn có một số hạn chế
nhất định trong công tác ban hành cũng như tổ chức thực hiện các chiến lược.
Chất lượng của các chiến lược mặc dù được nâng cao, song vẫn còn tồn tại
một số hạn chế, còn có sự chồng chéo lên nhau. Bên cạnh đó, việc tổ chức
thực hiện các chiến lược còn không được đồng đều giữa các địa phương đòi
hỏi Nhà nước phải nhìn nhận và có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với
yêu cầu thực tế đặt ra.
3.1.2. Sự bất cập và thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật trong việc
kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái
Trong xu thế toàn cầu, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia vào
các Hội nghị quốc tế, ký kết các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Có
thể khẳng định, việc ký kết các Công ước này đã thể hiện sự nhận thức đúng
đắn, đặc biệt là trong việc thực hiện gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái. Song, vẫn còn một số hạn chế như: việc ký kết các Công
ước còn chậm trễ, việc triển khai thực hiện còn muộn hơn nhiều so với các
quốc gia khác trên thế giới
Có thể nói, hệ thống các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đồng thời
cũng là những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa giữa tăng trưởng
15
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái đã đánh dấu những bước đi quan trọng
trong việc thực hiện lịch trình thế kỷ XXI của Việt Nam: Hệ thống tổ chức
chuyên môn về bảo vệ môi trường sinh thái trong tăng trưởng kinh tế từng
bước được thành lập; nền kinh tế có những bước đi khá bền vững; môi trường
sinh thái bước đầu được bảo vệ.
Song, thực tế còn tồn tại là mặc dù số lượng văn bản pháp luật bảo vệ môi
trường rất nhiều, nhưng lại vắng bóng hệ thống pháp luật chuyên ngành về kết
hợp giữa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái; vấn đề bảo
vệ môi trường, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên trong các hoạt động
kinh tế, sản xuất kinh doanh chưa phải là vấn đề cơ bản, trọng tâm trong hệ
thống pháp luật; một số văn bản pháp luật còn tồn tại những quy định bất cập,
không phù hợp với thực tế kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
sinh thái; các quy định pháp luật về môi trường đã có chưa phù hợp với hệ
thống pháp luật quốc tế về phát triển bền vững mà Việt Nam ký kết.
3.2. MÂU THUẪN GIỮA YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC
THỰC HIỆN, KIỂM TRA, GIÁM SÁT VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI HIỆU QUẢ THỰC TẾ CÒN
BẤT CẬP, NHIỀU HẠN CHẾ
3.2.1. Sự yếu kém trong gắn kết giữa các ngành, các cấp của hệ thống
tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong gắn tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ môi trường sinh thái
Một là: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường sinh thái
còn chồng chéo, hoạt động không hiệu quả
Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái ở trong nước diễn ra mọi nơi,
mang tính thường xuyên, liên tục, đặt ra yêu cầu cần phải có một bộ máy với
số lượng cán bộ làm công tác quản lý tài nguyên môi trường đủ lớn. Song, ở
nước ta, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường rất
ít, lại tập trung chủ yếu ở cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện, cấp đơn vị
hành chính xã, phường hầu như không nhiều. Sự gắn kết của Bộ Tài nguyên
và Môi trường với các bộ khác như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính,
Bộ Y tế trong công tác bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta còn có nhiều
hạn chế như: tình trạng chồng chéo về chức năng, thẩm quyền giữa các bộ;
việc giao nhiệm vụ về bảo vệ môi trường sinh thái, việc phân cấp quản lý
không rõ ràng tạo ra sự đùn đẩy, né tránh trách nhiệm hoặc đổ lỗi cho nhau
khi xảy ra các các sự cố về môi trường
16
Hai là: Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường còn thiếu về số
lượng, kém về chất lượng chuyên môn nghiệp vụ
Cho đến nay tổng số cán bộ làm công tác quản lý môi trường ở Việt Nam
khoảng 10.000 người, với tỷ lệ khoảng 13 người/1 triệu dân. Sự thiếu hụt lực
lượng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý nhà nước về môi
trường sinh thái. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tình trạng ô
nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, tội phạm về môi trường ngày một hoạt
động nhiều hơn, ảnh hưởng trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế và chất lượng
sống của con người. Chất lượng của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà
nước về gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta
hiện nay còn có nhiều hạn chế như: chuyên môn nghiệp vụ thấp; phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ còn yếu kém
3.2.2. Công tác đầu tư nguồn vốn, khoa học và công nghệ đảm bảo cho
gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái chưa đạt hiệu quả
Về công tác đầu tư nguồn vốn
Nhà nước xác định tài chính chi cho công tác bảo vệ môi trường sinh thái
là nguồn chi thường xuyên. Từ năm 2006 đến nay, ngân sách cho bảo vệ môi
trường đã được bố trí thành một nguồn riêng với qui mô không thấp hơn 1%
tổng chi ngân sách Nhà nước hàng năm. Tuy nhiên, mức đầu tư hiện nay được
các nhà quản lý đánh giá là quá thấp so với yêu cầu thực tế của nhiệm vụ bảo
vệ môi trường và còn mang tính dàn trải; tỷ lệ đầu tư trở lại cho bảo vệ môi
trường từ các nguồn thu liên quan đến môi trường còn thấp; việc bố trí các
nguồn vốn ODA, vốn tín dụng trong kế hoạch ngân sách hằng năm cho công
tác xã hội hóa về môi trường chưa rõ ràng; việc quản lý các nguồn vốn còn bị
buông lỏng, tạo cơ hội cho tình trạng tham nhũng, lãng phí nảy sinh.
Về khoa học và công nghệ
Nhà nước ta đã nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của khoa học và
công nghệ vào thực tiễn, nhờ đó có tác dụng tích cực trong nâng cao năng
suất, hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Việc chuyển giao, ứng
dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học đã góp phần đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, hình thành một số ngành kinh tế có trình độ
công nghệ cao thân thiện với môi trường; quá trình khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên ngày càng hiệu quả, tiết kiệm. Bên cạnh đó, việc triển
17
khai, ứng dụng khoa học, công nghệ vào thực tiễn tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường sinh thái ở nước ta có hạn chế, như: khoa học, công nghệ phát
triển chưa tương xứng với sự nghiệp phát triển bền vững; chưa tham gia toàn
diện vào việc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường
3.2.3. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái chưa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn
Nhìn chung, các công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát kết hợp tăng trưởng
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta từng bước được củng cố và
tăng cường, bước đầu đạt được hiệu quả tích cực, có sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các cơ quan quản lý nhà nước, giữa các bộ, ngành với nhau Tuy nhiên,
công tác này ở nước ta thời gian qua vẫn còn có nhiều hạn chế như: Các cấp
chính quyền còn buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong thanh tra, kiểm
tra, giám sát bảo vệ môi trường sinh thái; thanh tra của các bộ, ngành vẫn chưa
thi hành nghiêm túc theo luật định, nhiều nơi còn có hiện tượng đùn đẩy trách
nhiệm cho nhau
3.3. MÂU THUẪN CỦA VIỆC ĐÒI HỎI CẦN PHẢI CÓ SỰ PHỐI HỢP
CHẶT CHẼ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁC TỔ CHỨC, CÁC LỰC LƯỢNG XÃ
HỘI TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI TÌNH TRẠNG PHỐI HỢP CÒN LỎNG LẺO,
CHƯA CHẶT CHẼ
3.3.1. Những hạn chế trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm của các
doanh nghiệp về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
sinh thái
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đã có đóng góp rất
nhiều cho công tác bảo vệ môi trường sinh thái. Song, cạnh đó, cũng còn
nhiều doanh nghiệp chưa làm tốt trách nhiệm môi trường trong sản xuất kinh
doanh. Vì lợi ích mà các doanh nghiệp tìm mọi cách né tránh vấn đề môi
trường, không trung thực trong kê khai, bỏ qua các tiêu chí về môi trường, gây
ô nhiễm môi trường trầm trọng. Những bất cập về chính sách, pháp luật, sự
yếu kém về năng lực lãnh đạo, quản lý của các cơ quan nhà nước là những
nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng thờ ơ, thiếu trách nhiệm môi trường
của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ở nước ta hiện nay.
18
3.3.2. Những hạn chế trong việc nâng cao nhận thức về pháp luật,
chính sách của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân về kết hợp giữa
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Ở nước ta, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân đã có những
vai trò nhất định trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Mặc dù đã có nhiều
thành tựu, song, trên thực tế vai trò của các tổ chức đoàn thể tham gia bảo vệ
môi trường sinh thái ở nước ta còn chưa được rõ nét, chưa tạo ra được sự đồng
thuận giữa các quy định pháp luật, chính sách của nhà nước và các tổ chức
đoàn thể. Ở nhiều nơi, cộng đồng dân cư và các tổ chức chính trị - xã hội
không được tham gia vào đánh giá tác động môi trường trong các dự án được
triển khai tại địa phương.
Chương 4
MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. NHÓM GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH SÁCH, CHIẾN LƯỢC, PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT
HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
4.1.1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, chiến lược về gắn
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Về xây dựng và hoàn thiện chính sách về gắn tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái
Xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao - yêu cầu cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững: Hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển
nhân lực khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; ưu tiên nguồn nhân lực
cho các ngành công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ khai
thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên; rà soát đội ngũ lao động kỹ thuật trực
tiếp tiến hành khai th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_vai_tro_cua_nha_nuoc_trong_viec_ket_hop_giua_tang_truong_kinh_te_voi_bao_ve_moi_truong_sinh_thai.pdf