Đối với Chính phủ. Việc bảo vệ Hiến pháp của Chính phủ có
thể xem xét ở 2 góc độ: tự thân Chính phủ bảo vệ Hiến pháp và
Chính phủ kiểm soát cơ quan khác trong việc bảo vệ Hiến pháp
(chẳng hạn Quốc hội, các cơ quan ở CQĐP).
iii) Đối với TAND, cần tăng thẩm quyền cho hệ thống tòa án,
nhất là trong các vụ án hành chính.
iv) Đối với HĐND và UBND, cần sửa đổi Luật CQĐP theo
hướng: quy định đầy đủ, rõ hơn trách nhiệm, mối quan hệ công tác
giữa HĐND cấp tỉnh với UBND cấp tỉnh
Thứ hai, thành lập cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp.
Một là, về vị trí, chức năng của Tòa án Hiến pháp. Cơ quan này
có vị trí độc lập với quyền hạn thực hiện bảo hiến tất cả các nhánh
quyền lực, bao gồm cả cơ quan lập pháp là Quốc hội. Người đứng
đầu Tòa án Hiến pháp sẽ do Quốc hội bầu trong số các Đại biểu
Quốc hội, thẩm phán của Tòa án Hiến pháp sẽ do Quốc hội phê
chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch nước.
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 01/03/2022 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của bộ máy nhà nước và bảo
vệ các quyền con người, quyền công dân.
1.1.2. Tầm quan trọng của Hiến pháp
1.1.2.1. Đối với các quốc gia
Trong xã hội hiện đại, Hiến pháp đều được coi là đạo luật gốc
của quốc gia, là nền tảng để xây dựng hệ thống pháp luật. Mọi đạo
luật thông thường đều nhằm để cụ thể hoá các chế định, quy phạm
của Hiến pháp, và vì vậy, không được trái với Hiến pháp. Bên cạnh
đó, Hiến pháp của quốc gia nào cũng đóng vai trò như là một đạo luật
gốc, cơ bản và khái quát nhất, về tổ chức quyền lực nhà nước.
1.1.2.2. Đối với người dân
Một bản Hiến pháp tốt rất quan trọng với mọi người dân, xét
trên nhiều phương diện. Trước hết, một bản Hiến pháp tốt giúp tạo
lập một nền dân chủ thực sự, trong đó mọi người dân có thể tự do bày
tỏ tư tưởng, ý kiến và quan điểm về các vấn đề của đất nước và bản
thân mình mà không sợ hãi bị đàn áp hay trừng phạt. Đây là tiền đề
6
để khai mở và phát huy trí tuệ, năng lực của mọi cá nhân trong xã
hội, cũng như để phòng, chống lạm quyền và tham nhũng. Bất cứ
Hiến pháp nào trên thế giới đều có thể được đặt dưới một câu hỏi:
Hiến pháp này được làm ra để thể hiện cái tinh thần gì vậy? Dân
chúng chỉ cần biết cái tinh thần ấy một cách tỏ tường và chân thật là
đã có thể phát biểu ngay đó là Hiến pháp của mình hay của ai.
1.1.3. Các dạng thức vi phạm Hiến pháp
Thứ nhất, hành vi hành động vi hiến (hay còn gọi là vi phạm chủ
động) là hành vi của chủ thể thực hiện hành động trái với các quy
định Hiến pháp, hoặc không phù hợp với Hiến pháp. Đó có thể là
hành vi của cơ quan ban hành văn bản pháp luật không phù hợp hoặc
trái với Hiến pháp; hành vi của một cơ quan, tổ chức, cá nhân vi
phạm thẩm quyền (lạm quyền) mà Hiến pháp trao cho; hoặc hành vi
của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào nhân danh nhà nước ngăn
cản hoặc hạn chế việc thực hiện quyền và tự do hợp pháp của cá nhân
người dân theo quy định của Hiến pháp.
Thứ hai, hành vi không hành động vi hiến (hay còn gọi là vi
phạm bị động) là hành vi không thực hiện thẩm quyền và nghĩa vụ đã
được Hiến pháp quy định. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Hiến pháp
giao thẩm quyền, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời
những thẩm quyền và nghĩa vụ đó thì sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp
không hành động (unconstitutional omission).
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của bảo vệ Hiến pháp
bằng pháp luật
1.2.1. Khái niệm bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
Có thể hiểu, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật là tổng hợp các
hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan, cá nhân mà Hiến pháp quy
định nhiệm vụ và quyền hạn nhằm bảo đảm sự tôn trọng và thi hành
Hiến pháp, ngăn ngừa và xử lý mọi hành vi vi phạm Hiến pháp.
1.2.2. Đặc điểm của bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
7
Một là, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật là một nguyên lý, sự
lựa chọn tối ưu trong nhà nước pháp quyền của xã hội hiện đại.
Hai là, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật bị chi phối bởi nhiều
yếu tố: chính trị, hình thức nhà nước, trình độ phát triển kinh tế, xã
hội và quốc tế.
Ba là, về bản chất, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật vừa là bảo
vệ tính tối thượng của Hiến pháp, vừa là bảo vệ chính bản thân hệ
thống pháp luật.
Bốn là, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật đòi hỏi pháp luật phải
hoàn thiện, đồng bộ, chủ thể áp dụng pháp luật phải có năng lực, đạo
đức công vụ (và cả đạo đức chính trị và trách nhiệm với nhân dân).
1.2.3. Nội dung cơ bản bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật là một nội dung phức tạp, có
thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau: từ chủ thể, nội dung, phương
thức, ngành luật, Mỗi cách tiếp cận sẽ có đặc điểm riêng, nội dung
khác nhau. Pháp luật là công cụ, nhưng pháp luật phải do các chủ thể sử
dụng để bảo đảm Hiến pháp được tôn trọng, tuân thủ với những phương
thức phù hợp với vị trí, chức năng, thẩm quyền của từng chủ thể.
Thứ nhất, pháp luật về những chủ thể có trách nhiệm bảo vệ
Hiến pháp.
Thứ hai, pháp luật quy định những nội dung cần bảo vệ Hiến
pháp, hay nói cách khác, bảo vệ Hiến pháp sẽ trả lời câu hỏi: bảo vệ
cái gì: i) Pháp luật phải bảo vệ sự tuân thủ nguyên tắc, quy phạm
được thể hiện trong Hiến pháp; ii) Pháp luật phải bảo vệ tinh thần của
Hiến pháp.
Thứ ba, pháp luật về những phương thức bảo vệ Hiến pháp.
1.3. Những tác động từ phƣơng diện chính trị, kinh tế, pháp
lý, xã hội đối với việc bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
1.3.1. Yếu tố chính trị
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, một trong những phương thức lãnh đạo quan
8
trọng là lãnh đạo việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng
thành pháp luật của Nhà nước. Quan điểm của Đảng được thể chế
hoá thành Hiến pháp, pháp luật, chuyển từ quan điểm chính trị của
Đảng thành pháp luật của Nhà nước và được tổ chức thực thi trên
thực tế.
Bên cạnh đó, yếu tố chính trị là còn là những giá trị về dân
chủ, văn hoá chính trị, nó có ảnh hưởng trực tiếp, lâu dài đến việc
bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật.
1.3.2. Yếu tố kinh tế
Hiến pháp, pháp luật là kiến trúc thượng tầng sẽ bị quyết định,
chi phối bởi trình độ phát triển kinh tế, nền sản xuất, tiềm lực kinh tế
của nhà nước và điều kiện sống của nhân dân. Một đất nước tiềm lực
kinh tế, dân giàu, doanh nghiệp phát triển sẽ tạo tiền đề để xây dựng,
hoàn thiện hệ thống thể chế, nâng cao nhận thức, văn hóa của nhân
dân, góp phần phòng, chống tham nhũng – những yếu tố quan trọng
góp phần giữ gìn, bảo vệ Hiến pháp. Ngược lại, một quốc gia, xã hội
sống trong nền kinh tế nghèo nàn, suy thoái, làm cho bộ máy có nguy
cơ tham nhũng, nhân dân cùng cực, đói khổ, hệ thống pháp luật và bộ
máy nhà nước yếu, thiếu và lạc hậu. Như vậy, yếu tố kinh tế tác động
trước hết vào nhận thức, trình độ, quan điểm của các lực lượng trong xã
hội đối với bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật. Tiếp đến, nó tác động đến
việc quy định, thực hiện quy định và là một trong những yếu tố bảo đảm
quan trọng để Hiến pháp được thực thi trong thực tiễn.
1.3.3. Yếu tố pháp lý
Yếu tố pháp lý tác động đến việc bảo vệ Hiến pháp bằng pháp
luật rất đa dạng, có thể khái quát thành các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, các nguyên tắc pháp lý cơ bản xác định vị trí, tính
chất, tầm quan trọng của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật.
Thứ hai, pháp luật về tổ chức bộ máy bảo vệ Hiến pháp.
Thứ ba, pháp luật về phương thức bảo vệ Hiến pháp bằng pháp
luật.
9
Thứ tư, pháp luật về kiểm soát việc vi phạm Hiến pháp. Đây là
các quy định về phòng ngừa, phát hiện và xử lý các tổ chức, cá nhân
vi phạm Hiến pháp.
1.3.4. Yếu tố xã hội
Hiến pháp nói riêng, pháp luật nói chung được sinh ra từ xã hội,
thực thi trong xã hội và chịu sự tác động của xã hội. Các yếu tố về xã
hội rất đa dạng, song có thể kể đến các yếu tố như: văn hoá, xã hội,
tư tưởng có thể ảnh hưởng đến bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
một cách trực tiếp, mạnh mẽ hoặc gián tiếp, lâu dài. Yếu tố văn hóa,
trong đó có văn hóa pháp lý trong một xã hội được giữ gìn, củng cố,
phát huy sẽ không chấp nhận những hành vi vi phạm Hiến pháp và
những hành vi đó sẽ bị trả giá và ngược lại.
1.4. Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật của một số quốc gia trên
thế giới và bài học kinh nghiệm có thể tham khảo ở Việt Nam
1.4.1. Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới
1.4.1.1. Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Hoa Kỳ
Pháp luật Hoa Kỳ xây dựng mô hình Toà án tối cao và Toà án
các cấp có chức năng bảo hiến (bảo vệ Hiến pháp) hay còn gọi là mô
hình phi tập trung. Mô hình bảo hiến của Hoa Kỳ có các đặc điểm cơ
bản sau đây: (i) Tất cả các Toà án đều có quyền xem xét tính hợp
hiến của các đạo luật; (ii) Quyền bảo hiến gắn với việc giải quyết một
vụ việc cụ thể (Concrete judicial review); (iii) Quyền bảo hiến chỉ
được xem xét khi có sự liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của
đương sự đề nghị xem xét tính hợp hiến của đạo luật đó; (iv) Toà án
chỉ tuyên bố một đạo luật là vi hiến khi sự bất hợp hiến của đạo luật
đó được chứng minh rõ ràng và không thể phủ nhận được; (v) Toà án
không xem xét vấn đề hợp hiến của một đạo luật khi đạo luật đó liên
quan đến một số vấn đề chính trị như tổ chức công quyền và vấn đề
ngoại giao; (vi) Khi một đạo luật bị tuyên bố là vi hiến thì đạo luật đó
không còn giá trị áp dụng.
10
1.4.1.2. Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Đức
Pháp luật quy định ở Đức, Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền như
sau: xem xét tính hợp hiến của các văn bản luật, các điều ước quốc tế
mà Tổng thống hoặc Chính phủ đã hoặc sẽ tham gia ký kết, các sắc
lệnh của Tổng thống, các nghị định của Chính phủ, có thể tuyên bố
một văn bản luật, văn bản dưới luật là vi hiến và làm vô hiệu hoá văn
bản đó; xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầu cử Tổng thống, bầu
cử nghị viện và trưng cầu ý dân; tư vấn về tổ chức bộ máy nhà nước,
về các vấn đề chính trị đối nội cũng như đối ngoại; giải quyết các
tranh chấp về thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành
pháp và tư pháp, giữa chính quyền trung ương và địa phương; giám
sát Hiến pháp về quyền con người và quyền công dân.
Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức đóng vai trò quan trọng trong
nhiệm vụ bảo vệ quyền cơ bản của công dân. Mọi người đều có
quyền khiếu nại tại Tòa án Hiến pháp Liên bang khi họ cho rằng
quyền cơ bản của họ hay các quyền tương tự quyền cơ bản bị vi
phạm bởi một văn bản hay quyết định của chính quyền nhà nước.
Tòa án sẽ phá án bảo vệ các quyền của người dân một cách cụ thể
chống lại sự vi hiến đồng thời từ đó giáo dục các chủ thể có thể vi
hiến không hành xử tương tự do tính cưỡng chế và uy tín của tòa án.
1.4.1.3. Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Pháp
Theo pháp luật, ở mô hình này, Hội đồng Hiến pháp vừa mang
tính chất chính trị vừa mang tính chất tư pháp vì ngoài 9 thành viên
có nhiệm kỳ 9 năm còn có các cựu Tổng thống là thành viên đương
nhiên vô thời hạn. Cứ 3 năm thì Hội đồng Hiến pháp lại bổ nhiệm
mới 1/3 thành viên. Ở Pháp theo Hiến pháp 1958, Hội đồng bảo hiến
được trao thẩm quyền xem xét các đạo luật trước khi công bố. Hội
đồng Hiến pháp của Pháp cũng có thẩm quyền xem xét tính hợp hiến
của các đạo luật đó có hiệu lực. Một số đạo luật được thông qua trước
Hiến pháp 1958 nhưng theo quy định của Hiến pháp 1958 thì những
quan hệ xã hội do các đạo luật đó điều chỉnh nay thuộc lĩnh vực điều
11
chỉnh của hành pháp. Bên cạnh đó, Hội đồng Hiến pháp còn có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp về bầu cử và trưng cầu dân ý; thẩm
quyền tư vấn; giám sát hiến pháp đối với việc phân định thẩm quyền
giữa Chính phủ và Nghị viện; kiểm tra tính hợp hiến của của các vấn
đề liên quan đến quyền con người.
1.4.1.4. Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Trung Quốc
Theo pháp luật Trung Quốc, Cu Ba và một số nước khác thì
trong cơ cầu tổ chức bộ máy không có cơ quan bảo hiến chuyên biệt.
Các nước này đều có quan điểm chung là Quốc hội (Nghị viện) là cơ
quan đại diện cao nhất của nhân dân, không những là cơ quan lập
hiến, lập pháp duy nhất mà còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất Quốc hội
phải tự quyết định tính hợp hiến của một đạo luật. Nếu Quốc hội trao
quyền này cho một cơ quan khác phán quyết thì Quốc hội không còn
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nữa.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm có thể tham khảo đối với Việt Nam
Việc lựa chọn xây dựng mô hình bảo hiến nói riêng, pháp luật về
bảo vệ Hiến pháp nói chung bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó có
lý thuyết chi phối tổ chức quyền lực nhà nước, hệ thống pháp luật;
chế độ chính trị, cấu trúc nhà nước
Thứ nhất, mỗi nước tùy thuộc vào thể chế chính trị, cách thức tổ
chức bộ máy nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước mà quy định
pháp luật về bảo vệ Hiến pháp khác nhau.
Thứ hai, việc thành lập cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp
là cần thiết, nhưng việc đảm bảo các điều kiện cho cơ quan này hoạt
động hoạt động có hiệu quả lại càng cần thiết và quan trọng hơn.
Thứ ba, qua khảo cứu khái quát pháp luật về bảo vệ Hiến pháp
của một số quốc gia trên thế giới cho thấy, phương thức bảo vệ Hiến
pháp khá đa dạng, nhưng phổ biến nhất là thông qua hoạt động giám
sát và phán quyết của tòa án.
12
Tiểu kết chƣơng 1
Về bản chất, bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật là tổng thể các
quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, quy định
những nội dung bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật; quy định những
chủ thể có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp cũng như phương thức bảo
vệ Hiến pháp và các vấn đề khác có liên quan nhằm bảo đảm Hiến
pháp được tôn trọng, giữ gìn và các hành vi vi phạm Hiến pháp phải
bị xử lý theo quy định của pháp luật. Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp
luật vừa là tất yếu, vừa mang tính khách quan.
Nội dung pháp luật bảo vệ Hiến pháp rất đa dạng, trong đó trước
hết phải trả lời được các câu hỏi: pháp luật về bảo vệ Hiến pháp là
bảo vệ cái gì? chủ thể nào có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp? phương
thức bảo vệ Hiến pháp như thế nào?... Bên cạnh đó, việc bảo vệ Hiến
pháp bằng pháp luật cần đặt trong tổng thể các điều kiện về chính trị,
kinh tế, pháp lý, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn và việc tham
khảo kinh nghiệm bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật một số quốc gia
trên thế giới để rút ra những giá trị có thể tham khảo ở Việt Nam là
việc làm cần thiết nhằm giữ gìn được sự tôn nghiêm, tối thượng của
Hiến pháp.
13
CHƢƠNG 2.
THỰC TRẠNG BẢO VỆ HIẾN PHÁP BẰNG PHÁP LUẬT
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN BẢO VỆ HIẾN PHÁP BẰNG
PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật trong lịch
sử và trong Hiến pháp 2013 hiện hành
2.1.1. Khái quát về bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt
Nam từ năm 1945 đến nay
2.1.1.1. Giai đoạn 1945 – 1959
2.1.1.2. Giai đoạn 1960 – 1979
2.1.1.3. Giai đoạn 1980 – 1991
2.1.1.4. Giai đoạn 1992 – 2012
2.1.1.5. Giai đoạn 2013 đến nay
2.1.2. Thực trạng bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật trong Hiến
pháp 2013 hiện hành
2.1.2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ Hiến pháp
Pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội
Điều 119 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Hiến pháp là luật cơ
bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp
lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý (Khoản 1).
So với các bản Hiến pháp trước, điểm mới trong Hiến pháp 2013
liên quan đến bảo vệ Hiến pháp là lần đầu tiên Việt Nam đưa thành
nguyên tắc hiến định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (Khoản
2, Điều 119). Thực tế là nghiên cứu cơ chế này còn “chưa đủ chín”
để có thể cho ra đời một mô hình bảo hiến cụ thể (mà việc quy định
thành lập cơ quan này trong Hiến pháp có giá trị pháp lý cao nhất).
Nhưng mặt khác, quy định này lại có giá trị như sự “cài đặt” trong
đạo luật cao nhất một nhu cầu/đòi hỏi và cơ sở pháp lý để có thể cho
14
ra đời một mô hình bảo vệ Hiến pháp trong tương lai gần, thông qua
một đạo luật riêng.
Với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, UBTVQH được
giao một số nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ Hiến
pháp. Cụ thể bao gồm: i) giải thích Hiến pháp; ii) giám sát việc thi
hành Hiến pháp.
Bên cạnh những quy định mới, tiến bộ như trên, pháp luật về
bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội còn nhiều
bất cập, trong đó phải kể đến Hiến pháp năm 2013, Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 quy định về giám sát của
Quốc hội, UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội
còn mang chung chung, chồng chéo, mâu thuẫn; thiếu quy trình, thủ
tục cụ thể để thực hiện quyền giám sát. Việc kiểm soát tính hợp hiến
của các luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành; tính hợp hiến, hợp
pháp của các pháp lệnh, nghị quyết do UBTVQH ban hành chưa
được cơ quan tư pháp kiểm soát, việc kiểm soát hiện nay chỉ mang
tính nội bộ hệ thống.
Pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Chính phủ
Theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, trong tổ chức thi hành
Hiến pháp, Chính phủ có thẩm quyền, trách nhiệm: i) ban hành kịp
thời và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành Hiến pháp của Quốc
hội; ii) quyết định các biện pháp để tổ chức thi hành Hiến pháp của
Quốc hội; iii) lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục Hiến pháp; bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực và các
nguồn lực khác để thi hành Hiến pháp; iv) tổng hợp đánh giá tình
hình thi hành Hiến pháp và báo cáo với Quốc hội, UBTVQH, Chủ
tịch nước theo quy định của pháp luật.
Mặc dù vậy, với một thiết chế có tầm quan trọng đặc biệt trong
thi hành, bảo vệ Hiến pháp như Chính phủ, pháp luật hiện nay vẫn
còn tồn tại, bộc lộ nhiều hạn chế, có thể kể đến như thẩm quyền,
trách nhiệm của Chính phủ trong quy trình lập pháp còn chưa rõ
15
ràng, nhất là trách nhiệm trong việc trình các dự án luật, pháp lệnh
chưa bảo đảm hoặc không trình dự án luật, pháp lệnh được Quốc hội,
UBTVQH
Pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Tòa án nhân dân
Cụ thể hóa và bảo đảm thi hành Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND
năm 2014 tiếp tục cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của TAND, trong
đó chú trọng tới nhiệm vụ giáo dục công dân trung thành với Tổ
quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của
cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi
phạm pháp luật khác trong khi thực hiện nhiệm vụ của Tòa án. Trong
quá trình xét xử vụ án.
Pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của chính quyền địa phương
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, HĐND
do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND giám sát việc tuân theo
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết
của HĐND.
Là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, UBND có thẩm quyền tổ chức việc thi hành Hiến pháp
và pháp luật ở địa phương. Để bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, UBND
(trừ UBND cấp xã) có nhiều phương diện hoạt động,
Về hạn chế, Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức CQĐP, các
VBQPPL chuyên ngành chưa bảo đảm phân cấp, phân quyền cho
HĐND và UBND các cấp hoặc có phân cấp, phân quyền nhưng cơ
chế để thực hiện không thuận lợi. Pháp luật về thanh tra, kiểm tra,
giám sát của trung ương với địa phương và nội bộ địa phương còn
chồng chéo, mâu thuẫn, chưa phát huy hiệu quả trong việc bảo đảm
thi hành, bảo vệ Hiến pháp ở địa phương.
2.1.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến pháp
Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội
16
Từ sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành đến nay,
các cơ quan hữu quan đã tiến hành rà soát toàn bộ hệ thống pháp luật,
lập danh mục đề xuất danh mục VBQPPL cần bãi bỏ, sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành mới để phù hợp với quy định của Hiến pháp.
Về công tác giám sát tối cao đối với các chủ thể trong việc thi
hành, bảo vệ Hiến pháp, trong thời gian qua, nhất là nhiệm kỳ khóa
XIV, Quốc hội luôn coi trọng đổi mới, nâng cao hiệu quả, đưa hoạt
động giám sát ngày càng đi vào thực chất, đóng góp tích cực đối với
hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước, góp phần đảm bảo ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh, đối ngoại của đất nước, được nhân dân, cử tri ghi
nhận.
Đối với UBTVQH, thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của
UBTVQH trong thời gian qua cũng đạt được nhiều kết quả đáng ghi
nhận. Hoạt động lập pháp tiếp tục được đổi mới, góp phần đẩy nhanh
tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước ta.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực hiện pháp luật về bảo vệ
Hiến pháp của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội còn tồn tại những
bất cập, hạn chế:
i) Công tác xây dựng, ban hành pháp luật của Quốc hội còn
chậm, chưa đảm bảo đúng kế hoạch.
ii) Công tác giám sát chưa phát huy hiệu quả nhu mong muốn,
còn mang tính hình thức, điển hình là giám sát các báo cáo và chất
vấn, dẫn đến việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân chậm trễ, thiếu trách
nhiệm trong thi hành và bảo vệ Hiến pháp.
iii) Đối với UBTVQH, việc chỉ đạo, đôn đốc thực hiện chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh có lúc chưa quyết liệt, dẫn đến không
hoàn thành chương trình đề ra.
Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Chính
phủ
17
Từ khi ban hành Hiến pháp 2013 đến nay, Chính phủ đã thể hiện
rõ, trách nhiệm, đạt nhiều kết quả trong việc thực hiện pháp luật về
bảo vệ Hiến pháp, công tác hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi
hành pháp luật theo tinh thần thượng tôn pháp luật là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Về hạn chế: tổ chức bộ máy hành chính nhà nước (nhất ở là địa
phương) thật sự tinh gọn, hiệu quả, chức năng, nhiệm vụ một số cơ
quan, đơn vị vẫn còn chồng chéo, chưa đủ cụ thể, chưa rõ thẩm quyền và
trách nhiệm cá nhân có trách nhiệm của Chính phủ; tổ chức và hoạt
động của chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo chậm đổi mới phù hợp
với đặc thù; một số VBQPPL của chính quyền địa phương (nhất là cấp
tỉnh) có biểu hiện vi hiến nhưng chậm được Chính phủ xử lý.
Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của TAND
Trong những năm qua, triển khai bảo vệ Hiến pháp, thực hiện có
hiệu quả chương trình cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị, ngành Tòa án đã triển khai thực hiện nhiều
giải pháp đột phá, thiết thực để nâng cao chất lượng công tác xét xử .
Toà án nhân dân tối cao cũng đưa ra bộ tiêu chí cụ thể để đánh giá
phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, theo đó: (1) Hội đồng xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; (2) tôn trọng quyền con người;
(3) thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng; (4) thực hiện hết thẩm quyền
của mình theo quy định của pháp luật.
Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của chính
quyền địa phương
Đối với HĐND.
Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trở thành một trong
những nội dung trọng tâm của các kỳ họp HĐND, nhất là kỳ họp
HĐND cấp tỉnh, được cử tri và nhân dân địa phương quan tâm. Số
lượng và chất lượng câu hỏi chất vấn tăng lên, đề cập đến nhiều vấn
đề bức xúc, có tính thời sự, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng của
cử. Công tác giám sát tập trung vào tình hình thực hiện các nhiệm vụ
18
được giao của các cơ quan, tổ chức; về thực hiện các chỉ tiêu kinh tế -
xã hội trên địa bàn, về các công trình, dự án trọng điểm ở địa
phương, trong đó tập trung các công trình, dự án chậm tiến độ, có
khó khăn, vướng mắc.
Bên cạnh những kết quả đạt, việc thực hiện pháp luật về bảo vệ
Hiến pháp của HĐND còn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục.
Đối với UBND.
Một là, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, UBND
các cấp đã có nhiều đổi mới về tổ chức, lề lối làm việc và phương
thức quản lý, điều hành; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được
nâng lên.
Hai là, UBND đã thể hiện được vai trò là cơ quan thực thi pháp
luật ở địa phương, đề xuất để HĐND cùng cấp quyết định các chủ
trương, chính sách phát triển địa phương; thực hiện chức năng quản
lý nhà nước và chỉ đạo, điều hành các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phòng, v.v ở địa phương.
Ba là, quy trình quản lý của UBND các cấp đã từng bước được cải
tiến, việc phối hợp giữa quản lý ngành với quản lý địa bàn lãnh thổ
thông qua việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, chấp hành đầy đủ
chế độ thông tin báo cáo được chú trọng; công tác chỉ đạo, hướng dẫn
gắn với việc kiểm tra cấp dưới được thực hiện thường xuyên.
Bốn là, mối quan hệ giữa UBND với HĐND có nhiều chuyển
biến tích cực.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thực
hiện pháp luật về thi hành và bảo vệ Hiến pháp của UBND các cấp
còn nhiều tồn tại, hạn chế.
Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém trong bảo vệ Hiến pháp
bằng pháp luật tại Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, hạn chế.
Thứ hai, tổ chức bộ máy chưa được hoàn thiện và năng lực cán bộ,
công chức chưa đồng đều, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ Hiến pháp.
19
Thứ ba, số lượng, chất lượng, hiệu quả tham gia của nhân dân,
của xã hội trong bảo vệ Hiến pháp còn thấp.
Thứ tư, nguồn lực phục vụ cho công tác bảo vệ Hiến pháp chưa
đảm bảo.
Thứ năm, công tác kiểm soát việc bảo vệ Hiến pháp chưa hiệu
quả, chưa đủ sức răn đe, đặc biệt là rất khó xử lý hành vi vi hiến ở
dạng “không hành động”.
2.2. Giải pháp hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
tại Việt Nam hiện nay
2.2.1. Quan điểm hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật
tại Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật phải thể
hiện được trách nhiệm của cả nhà nước và nhân dân, trước hết là các
cơ quan đứng đầu các nhánh quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ hai, hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật phải có
giải pháp toàn diện, đồng bộ, lâu dài.
Thứ ba, hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật thì một
trong những trọng tâm đó là hoàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_bao_ve_hien_phap_bang_phap_luat_tai_viet_na.pdf