Phần đầu của chương 2 đã nêu ra các yêu cầu thực hiện CBTT
của DNNN dựa vào Nghị định số 81/2015/NĐ-CP.
Trên cơ sở các lý thuyết có liên quan, đặc điểm của DNNN và các
nhân tố ảnh hưởng đến CBTT trong các nghiên cứu trước đã đề cập ở
chương 1, tác giả đã đưa ra mô hình nghiên cứu gồm có 8 nhân tố
với 9 biến độc lập bao gồm: quy mô DN, thời gian hoạt động, lĩnh
vực hoạt động, đòn bẩy tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán, chủ thể kiểm toán và loại DNNN (D1 và D2), cùng với 1 biến
phụ thuộc là mức độ CBTT. Đồng thời luận văn cũng xây dựng và
đưa ra các giả thuyết của nghiên cứu. Ngoài ra, chương 2 cũng đề
cập đến việc chọn mẫu, đo lường các biến độc lập, cách đo lường và
tính chỉ số CBTT cho DNNN. Kết thúc chương 2, tác giả đưa ra
phương pháp phân tích làm cơ sở cho chương 3.
Chương 3 sẽ đánh giá mức độ CBTT của DNNN và trình bày kết
quả kiểm định phân tích nhân tố nhằm xác định nhân tố nào ảnh
hưởng đến mức độ CBTT của DNNN ở Việt Nam.
26 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 507 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam - Đặng Thị Ly, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các DNNN trong nghiên cứu này là các DN
Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. Các công ty cổ phần có tỷ lệ
sở hữu Nhà nước không thuộc phạm vi của nghiên cứu này.
Ngoài ra, nghiên cứu được tiến hành chỉ trong năm 2016, do năm
2015 NĐ 81/2015 mới đi vào thực hiện nên việc CBTT ở giai
đoạn đầu quá ít.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu dựa trên nguồn dữ liệu thứ cấp là các báo cáo và các
bảng kế hoạch năm 2016 của 90 DNNN được công bố trên cổng
thông tin DN của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thông qua việc xây dựng
các chỉ mục CBTT từ các báo cáo và các bảng kế hoạch trên, tiến
hành tính chỉ số CBTT. Phương pháp phân tích hồi quy bội được sử
dụng để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các
DNNN tại Việt Nam.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 4
chương:
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về các nhân tố ảnh hưởng đến công
bố thông tin của doanh nghiệp
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Phân tích kết quả nghiên cứu
Chương 4: Hàm ý chính sách
4
Kết luận
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Các nghiên cứu trong nước
Vấn đề CBTT nói chung trong DN luôn nhận được sự quan tâm
từ nhiều đối tượng khác nhau. Vì thế không ít các nghiên cứu đã
được thực hiện. Các nghiên cứu này được thực hiện ở các DN trong
các ngành khác nhau. Tuy nhiên cách thức và phương pháp thực hiện
tương tự nhau từ khâu thu thập, xử lý số liệu đến phân tích kết quả.
Kết quả của các nghiên cứu cũng có sự tương đồng nhau về nhân tố
tác động đến CBTT. Cụ thể, trong nghiên cứu của Phạm Thị Thu
Đông về “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố
thông tin trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên
sở giao dịch chứng khoán Hà Nội”. Kết quả cho thấy các nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ CBTT gồm: khả năng sinh lời và tài sản cố định.
Còn trong nghiên cứu của Huỳnh Thị Vân “Nghiên cứu mức độ công
bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp ngành xây dựng yết giá tại
sở giao dịch chứng khoán Hà Nội”, chỉ có nhân tố quy mô DN có
ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Trong đề tài “Nghiên cứu các nhân tố
ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong báo cáo tài chính của
các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành vận tải niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam” của Phan Tôn Nữ Nguyên Hồng, kết quả
cho thấy các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT bao gồm: quy mô
DN, khả năng thanh toán, chủ thể kiểm toán. Một nghiên cứu khác
thực hiện trong ngành lương thực thực phẩm của Nguyễn Thị Thủy
Hưởng “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố
thông tin trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp chế biến
5
lương thực thực phẩm niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh”, kết quả cho thấy chỉ có nhân tố khả năng thanh
toán tác động đến mức độ CBTT của DN. Thực hiện trong phạm vi
rộng hơn, Nguyễn Thị Thu Hảo đã nghiên cứu “Các nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của các doanh
nghiệp niêm yết trên HOSE”. Kết quả phân tích cho thấy 3 nhân tố:
quy mô, loại hình sở hữu có yếu tố nước ngoài, và lợi nhuận có ảnh
hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện của các DN niêm yết trên
HOSE.
Các nghiên cứu nước ngoài
Trên thế giới cũng đã có nhiều nghiên cứu về CBTT được thực
hiện với các mục tiêu khác nhau nhưng đa số đều xoay quanh vấn đề
chất lượng thông tin công bố, sử dụng thông tin và các nhân tố ảnh
hưởng đến CBTT. Liên quan đến chất lượng và sử dụng thông tin
công bố thì có nghiên cứu của Byard về “Chất lượng công bố thông
tin doanh nghiệp và tính chất của môi trường thông tin trong phân
tích”. Bài báo xem xét các mối quan hệ giữa chất lượng thông tin mà
DN công bố và tính chính xác của thông tin từ các nhà phân tích để
hiểu rõ hơn cách mà các nhà phân tích sử dụng thông tin công bố
trong dự báo thu nhập. Kết quả cho thấy rằng chất lượng thông tin
công bố cao sẽ làm tăng độ chính xác của thông tin từ các nhà phân
tích. Ngoài ra, các nhà phân tích dựa nhiều vào dữ liệu tài chính
được công bố sẵn hơn là lấy thông tin từ việc trao đổi với quản lý để
đưa ra dự báo lợi nhuận hàng năm.
Các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT tự nguyện
thì có nghiên cứu của Ismail “Điều tra thực nghiệm về các yếu tố ảnh
6
hưởng đến công bố thông tin tài chính tự nguyện trên Internet tại các
nước thuộc Hội đồng hợp tác vùng vịnh (GCC)”. Kết quả cho thấy
việc CBTT tài chính của DN trên internet không chỉ phụ thuộc vào
đặc điểm mà còn phụ thuộc vào ảnh hưởng của sự tương tác giữa đặc
điểm của DN (quy mô, đòn bẩy và lợi nhuận), ngành công nghiệp và
quốc gia. Mở rộng đối tượng nghiên cứu sang các công ty đa quốc
gia ở Mỹ, Anh và châu Âu, Meek thực hiện đề tài “Các nhân tố ảnh
hưởng đến công bố thông tin tự nguyện trên báo cáo hàng năm của
các công ty đa quốc gia ở Mỹ, Anh và châu Âu”. Kết quả chung cho
thấy các công ty đa quốc gia ở châu Âu công bố nhiều thông tin tự
nguyện hơn các công ty đa quốc gia ở Mỹ và Anh. Việc CBTT tự
nguyện tùy vào loại thông tin. Các công ty đa quốc gia nằm ở vùng
châu Âu và Anh công bố nhiều thông tin tự nguyện phi tài chính hơn
ở Mỹ. Các nhóm ngành: dầu, hóa chất và khai thác mỏ công bố nhiều
thông tin hơn các ngành khác. Các công ty có quy mô càng lớn thì có
xu hướng công bố nhiều thông tin tài chính và phi tài chính hơn.
Ngoài ra, các công ty đa quốc gia nằm ở Anh sẽ cung cấp nhiều
thông tin tài chính hơn. Các công ty niêm yết quốc tế sẽ cung cấp
nhiều thông tin tài chính hơn là chỉ niêm yết trong nước. Chuyển đối
tượng nghiên cứu sang nước đang phát triển, Barako đã thực hiện
nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin tự nguyện
của các công ty ở Kenyan”. Kết quả cho thấy mức độ công bố tự
nguyện bị ảnh hưởng bởi: quản trị DN, cấu trúc quyền sở hữu và đặc
điểm của công ty. Ủy ban kiểm toán là yếu tố quan trọng tác động
đến mức độ CBTT tự nguyện, và tỷ lệ các thành viên không điều
hành trong hội đồng quản trị được coi là có tác động tương quan
7
nghịch đến mức độ CBTT tự nguyện. Nghiên cứu cũng cho thấy mức
độ sở hữu là các tổ chức và sở hữu nước ngoài có tác động tích cực
đáng kể đến việc CBTT tự nguyện. Các công ty lớn và các công ty
có đòn bẩy tài chính cao thì mức độ CBTT tự nguyện cao hơn.
CBTT trách nhiệm xã hội có liên quan đến yếu tố sở hữu của
Chính phủ thì có nghiên cứu của Mohd Ghazali về “Cơ cấu sở hữu
và công bố trách nhiệm xã hội của công ty: một số bằng chứng ở
Malaysia”. Kết quả cho thấy hai biến số: sở hữu của giám đốc điều
hành và sở hữu của chính phủ (là các cổ đông lớn), là những thuộc
tính kinh doanh chung của Malaysia, có ảnh hưởng đáng kể đến việc
CBTT trách nhiệm xã hội trong các báo cáo hàng năm. Những kết
quả này làm nổi bật rằng việc phân loại các quyền sở hữu khác nhau
rất quan trọng trong việc xác định tác động của cơ cấu quyền sở hữu
đối với CBTT trách nhiệm xã hội. Cũng liên quan đến sở hữu của
Chính phủ (Nhà nước) thì Eng đã thực hiện nghiên cứu “Quản trị
doanh nghiệp và mức độ công bố thông tin”. Trong đó tác giả có
xem xét đến yếu tố sở hữu Nhà nước (các công ty có sở hữu Nhà
nước từ 20% trở lên). Kết quả cho thấy rằng sở hữu quản lý thấp và
quyền sở hữu Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng mức
độ CBTT tự nguyện. Sự gia tăng các giám đốc bên ngoài làm giảm
việc CBTT tự nguyện. Các DN lớn CBTT càng nhiều, trong khi đó
những công ty có nợ thấp thì CBTT nhiều hơn.
Có khá nhiều nghiên cứu về CBTT trong nước cũng như trên thế
giới. Tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào đối tượng
là các DN thuộc các loại hình: công ty đa quốc gia, công ty cổ phần,
tập đoàn niêm yết trên thị trường chứng khoán. Cho đến nay có ít
8
nghiên cứu thực hiện trên đối tượng là DNNN (DN có 100% sở hữu
của Nhà nước). Tại Việt Nam, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào
đánh giá về mức độ CBTT của DNNN cũng như tìm hiểu các nhân tố
ảnh hưởng đến CBTT của DN này.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG BỐ
THÔNG TIN
1.1.1 Khái Niệm
CBTT là việc cung cấp các loại thông tin liên quan đến hoạt động
của DN cho các đối tượng bên trong và bên ngoài đơn vị thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng.
1.1.2 Phân Loại
a. Phân loại theo thời điểm công bố
- Công bố định kỳ
- Công bố bất thường
- Công bố theo yêu cầu
b. Phân loại theo tính chất bắt buộc hay tự nguyện
- Công bố bắt buộc
- Công bố tự nguyện
c. Phân loại theo tính chất của thông tin
- Thông tin tài chính
- Thông tin phi tài chính
1.1.3 Vai trò của công bố thông tin
9
Chất lượng CBTT của công ty trong báo cáo thường niên có ảnh
hưởng đáng kể đến phạm vi và chất lượng các quyết định của nhà
đầu tư. Ngoài ra, CBTT còn là một công cụ chiến lược, làm tăng khả
năng huy động vốn của công ty với chi phí thấp nhất có thể. Các
công ty cải thiện việc CBTT của họ thì kết quả sẽ làm tăng lợi nhuận
chứng khoán, quyền sở hữu của tổ chức và khả năng phân tích.
Healy đã đưa ra 3 hiệu quả kinh tế của CBTT, bao gồm: cải thiện
giá chứng khoán; Giảm chi phí vốn; Và gia tăng trung gian thông tin.
1.2 ĐO LƯỜNG CÔNG BỐ THÔNG TIN
1.2.1 Đo lường không trọng số
1.2.2 Đo lường có trọng số
1.3 CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG
TIN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1.3.1 Các lý thuyết liên quan đến công bố thông tin
a. Lý thuyết đại diện (Agency theory)
b. Lý thuyết tín hiệu (Signaling theory)
c. Lý thuyết chi phí chính trị (Political costs theory)
d. Lý thuyết chi phí sở hữu (Proprietary cost theory)
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin
a. Quy mô doanh nghiệp
b. Thời gian hoạt động
c. Lĩnh vực (ngành) hoạt động
d. Đòn bẩy tài chính
e. Khả năng sinh lời
f. Khả năng thanh toán
g. Chủ thể kiểm toán
10
h. Cấu trúc sở hữu
Sở hữu của nhà quản lý
Sở hữu của cổ đông có ảnh hưởng đáng kể
(Blockholder ownership)
Sở hữu của cổ đông nước ngoài
Sở hữu Nhà nước/Chính phủ
i. Tình trạng niêm yết
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận văn đã hệ thống hóa được các vấn đề cơ
bản chung về CBTT và các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT. Trong đó,
luận văn đã đưa ra khái niệm, các tiêu thức phân loại và vai trò của
CBTT. Đồng thời khái quát về hai phương pháp đo lường CBTT là
đo lường không trọng số và đo lường có trọng số.
Để làm cơ sở xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT
trong chương sau, chương 1 của luận văn cũng đã tóm tắt các lý
thuyết liên quan đến CBTT và đưa ra một số các nhân tố ảnh hưởng
cũng như kết quả của các nghiên cứu có liên quan trước đó. Ngoài ra,
tác giả cũng làm rõ thêm tác động của yếu tố sở hữu Nhà nước đến
CBTT để bước đầu có cái nhìn rõ hơn về CBTT của DNNN.
Tính đến thời hiện tại thì vẫn chưa có nghiên cứu nào về CBTT
của DNNN được thực hiện tại Việt Nam. Do đó lý thuyết được đưa
ra chủ yếu dựa trên lý thuyết về CBTT của các công ty niêm yết. Tuy
nhiên giữa hai đối tượng này vẫn sự liên hệ với nhau do trong các
công ty niêm yết vẫn có sở hữu Nhà nước chỉ khác nhau về mức độ
sở hữu. Ngoài ra, do quá trình cổ phần hóa nên một lượng lớn các
công ty niêm yết có “xuất thân” từ DNNN nên những đặc điểm cũng
11
như cách thức hoạt động, vận hành cũng có một số điểm giống với
DNNN. Riêng các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT đưa vào mô hình
của nghiên cứu này sẽ được xem xét kỹ trong chương 2.
CHƯƠNG 2
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.1 YÊU CẦU THỰC HIỆN CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
Theo điều 4 Nghị định số 81/2015/NĐ-CP về CBTT của DNNN
2.2 MÔ HÌNH VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu
Các giả thuyết của nghiên cứu được xây dựng như sau:
H1: Quy mô DNNN càng lớn thì mức độ CBTT càng nhiều.
Mức độ CBTT
Quy mô DN
Thời gian hoạt động
Khả năng thanh toán
Khả năng sinh lời
Đòn bẩy tài chính
Lĩnh vực hoạt động
Loại DNNN
Chủ thể kiểm toán
12
H2: Thời gian hoạt động càng lâu thì mức độ CBTT càng cao.
H3: Các DNNN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp
công bố nhiều thông tin hơn các DNNN hoạt động trong các lĩnh vực
khác.
H4: Khả năng thanh toán càng cao, DN CBTT càng nhiều.
H5: Khả năng sinh lời càng cao thì DN CBTT càng nhiều.
H6: Đòn bẩy tài chính càng cao thì DN CBTT càng nhiều.
H7: DNNN thuộc Bộ Ngành CBTT nhiều hơn so với DNNN địa
phương
H8: DNNN là Tập đoàn kinh tế CBTT nhiều hơn so với DNNN
địa phương
H9: Các DNNN được kiểm toán bởi Big4 CBTT nhiều hơn so với
các DNNN khác
2.3 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VỀ MỨC ĐỘ CÔNG BỐ
THÔNG TIN
2.3.1 Đo lường mức độ công bố thông tin của DNNN
Các mục thông tin được lựa chọn để đánh giá là các yêu cầu chi
tiết của 10 loại thông tin cần báo cáo trong Nghị định số
81/2015/NĐ-CP về CBTT đối với DNNN, theo đó có 108 chỉ mục
thông tin.
Việc đo lường mức độ CBTT của DNNN thực hiện theo 2 bước
sau:
Bước 1: Xây dựng các chỉ mục thông tin cần công bố.
Bước 2: Cho điểm các mục thông tin đã thiết lập và tính chỉ số
CBTT
13
2.3.2 Đo lường các biến độc lập
Việc đo lường các biến độc lập được thực hiện như sau:
Bảng 2.2: Bảng tóm tắt đo lường các biến độc lập
Tên biến Đo lường biến
Quy mô DN Logarit cơ số 10 của tổng tài sản
Thời gian hoạt động Số năm hoạt động tính từ năm thành lập
Lĩnh vực (ngành)
hoạt động
Biến giả (0: không thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp; 1: thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp)
Khả năng thanh toán Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn
Khả năng sinh lời Lợi nhuận sau thuế/Tổng vốn chủ sở hữu
Đòn bẩy tài chính Nợ phải trả/Tổng vốn chủ sở hữu
Loại DNNN
Biến giả: D1(1 - DNNN thuộc Bộ Ngành; 0
- DNNN không thuộc Bộ Ngành); D2 (1 -
DNNN là Tập đoàn kinh tế; 0 - DNNN
không phải là Tập đoàn kinh tế)
Chủ thể kiểm toán
Biến giả (1 - được kiểm toán bởi Big 4; 0 -
không được kiểm toán bởi Big4)
2.4 CHỌN MẪU NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN
TÍCH
2.4.1. Chọn mẫu nghiên cứu
Tổng thể nghiên cứu là 620 DNNN. Tiêu chí được đưa ra để chọn
mẫu nghiên cứu là DNNN phải có công bố BCTC năm 2016 đã được
kiểm toán. Theo đó có 90 DNNN thỏa điều kiện trên.
14
2.4.2. Phương pháp phân tích
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả, kết hợp với
phân tích so sánh để làm rõ thực trạng cũng như những đặc trưng về
CBTT của các DNNN ở Việt Nam. Ngoài ra, phương pháp phân tích
hồi quy cũng được sử dụng để xem xét sự ảnh hưởng của các nhân tố
đến mức độ CBTT.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Phần đầu của chương 2 đã nêu ra các yêu cầu thực hiện CBTT
của DNNN dựa vào Nghị định số 81/2015/NĐ-CP.
Trên cơ sở các lý thuyết có liên quan, đặc điểm của DNNN và các
nhân tố ảnh hưởng đến CBTT trong các nghiên cứu trước đã đề cập ở
chương 1, tác giả đã đưa ra mô hình nghiên cứu gồm có 8 nhân tố
với 9 biến độc lập bao gồm: quy mô DN, thời gian hoạt động, lĩnh
vực hoạt động, đòn bẩy tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán, chủ thể kiểm toán và loại DNNN (D1 và D2), cùng với 1 biến
phụ thuộc là mức độ CBTT. Đồng thời luận văn cũng xây dựng và
đưa ra các giả thuyết của nghiên cứu. Ngoài ra, chương 2 cũng đề
cập đến việc chọn mẫu, đo lường các biến độc lập, cách đo lường và
tính chỉ số CBTT cho DNNN. Kết thúc chương 2, tác giả đưa ra
phương pháp phân tích làm cơ sở cho chương 3.
Chương 3 sẽ đánh giá mức độ CBTT của DNNN và trình bày kết
quả kiểm định phân tích nhân tố nhằm xác định nhân tố nào ảnh
hưởng đến mức độ CBTT của DNNN ở Việt Nam.
15
CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 ĐÁNH GIÁ CHỈ SỐ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC
3.1.1 Thống kê mô tả chỉ số công bố thông tin
a. Chỉ số công bố thông tin chung
Kết quả thống kê cho thấy chỉ số CBTT trung bình của các
DNNN đạt 36,94% và còn một tỷ lệ lớn (63,06%) các thông tin chưa
được các DN này công bố. Trong đó, giá trị lớn nhất của chỉ số
CBTT là 80,72% và giá trị nhỏ nhất là 5%.
Trong 90 DNNN của mẫu nghiên cứu thì có 11 DN là Tập đoàn
kinh tế, 19 DN thuộc các Bộ Ngành và 60 DN là DNNN địa phương.
Đối với DNNN là Tập đoàn kinh tế thì mức độ CBTT trung bình ở
mức 43,56%. Mức độ CBTT của các DN thuộc Bộ Ngành xấp xỉ
mức độ công bố của các DNNN là Tập đoàn kinh tế với mức trung
bình là 43,73%.
Để xác định xem liệu có sự khác biệt về mức độ CBTT giữa các
nhóm đối tượng DNNN hay không, thì phân tích phương sai một yếu
tố One-Way Anova được sử dụng. Kết quả cho thấy rằng nếu độ tin
cậy của phép kiểm định là 95% thì có thể kết luận rằng không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ CBTT giữa các DNNN là
Tập đoàn kinh tế, DNNN thuộc Bộ Ngành và DNNN địa phương.
Còn nếu độ tin cậy của phép kiểm định là 90% thì mức độ CBTT của
DNNN thuộc Bộ Ngành cao hơn mức độ CBTT của DNNN địa
phương.
16
b. Chỉ số công bố thông tin của các nhóm thông tin riêng
Nhìn chung đa số các nhóm thông tin riêng được DN công bố ở
mức rất thấp. Cụ thể, nhóm thông tin về chiến lược phát triển của DN
có giá trị CBTT trung bình thấp nhất với mức độ là 7,56%, cao nhất
là thông tin BCTC với 79,88%, Thông tin về Báo cáo kết quả thực
hiện các nhiệm vụ công ích và trách nhiệm xã hội công bố ở mức
trung bình là 64,57%. Các nhóm thông tin còn lại đều dưới 50%.
3.1.2 Đánh giá mức độ công bố thông tin
Kết quả về chỉ số CBTT cho thấy rằng mức độ CBTT trung bình
của các DNNN là rất thấp, chỉ ở mức là 36,94%.
Trong 9 loại thông tin bắt buộc cần công bố theo định kỳ thì chỉ
có thông tin về BCTC 6 tháng và BCTC năm được công bố ở mức
tương đối (79,88%), 8 loại thông tin còn lại đều được công bố ở mức
rất thấp. Mặc dù giá trị CBTT trung bình của DNNN là Tập đoàn
kinh tế và DNNN thuộc Bộ Ngành có phần cao hơn so với DNNN
địa phương nhưng mức độ công bố của 3 đối tượng này đều thấp.
Việc CBTT của các DNNN còn rất sơ sài và mang tính đối phó,
chậm trễ so với thời gian quy định. Từ đó, có thể thấy rằng các
DNNN chưa quan tâm đến việc CBTT cũng như chưa chấp hành tốt
các quy định về CBTT đã được Chính phủ ban hành.
3.2 PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỨC
ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC
3.2.1 Phân tích thống kê mô tả các biến độc lập
3.2.2 Phân tích liên hệ giữa mức độ công bố thông tin với các
biến đặc trưng của doanh nghiệp
17
Kiểm định Independent Sample T-Test được sử dụng để kiểm tra
xem có sự khác khau về mức độ CBTT giữa các DNNN trong lĩnh
vực sản xuất công nghiệp và trong các lĩnh vực khác; giữa các
DNNN được kiểm toán bởi Big4 và DNNN khác.
Kết quả cho thấy với độ tin cậy 95% thì không có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê về mức độ CBTT của những DNNN trong ngành
sản xuất công nghiệp và trong các ngành khác; và giữa những
DNNN được kiểm toán bởi Big4 với DNNN khác.
3.2.3 Phân tích tương quan giữa các biến trong mô hình
Phân tích tương quan Pearson được thực hiện cho biến phụ thuộc
chỉ số CBTT và 9 biến độc lập: D1, D2, ngành, chủ thể kiểm toán,
quy mô DN, thời gian hoạt động, khả năng thanh toán, khả năng sinh
lời và đòn bẩy tài chính. Kết quả cho thấy sự tương quan giữa các
biến độc lập và biến phụ thuộc ở mức thấp. Trong đó biến D1, D2,
chủ thể kiểm toán, quy mô DN và khả năng sinh lời có liên hệ tương
quan thuận với biến chỉ số CBTT. Các biến ngành, thời gian hoạt
động, khả năng thanh toán và đòn bẩy tài chính có mối liên hệ tương
quan nghịch với chỉ số CBTT.
3.2.4 Kết quả hồi quy và kiểm định mô hình
Phân tích chọn lọc các biến độc lập trong mô hình sẽ được thực
hiện nhằm loại bỏ bớt các biến không có ảnh hưởng đến biến phụ
thuộc. Hồi quy theo phương pháp Enter được thực hiện với biến phụ
thuộc chỉ số CBTT và 9 biến độc lập: D1, D2, ngành, chủ thể kiểm
toán, quy mô DN, thời gian hoạt động, khả năng thanh toán, khả
năng sinh lời và đòn bẩy tài chính. Tiêu chí để giữ lại biến độc lập là
mức ý nghĩa của biến đó phải nhỏ hơn 0,1. Theo đó, các biến độc
18
lập: chủ thể kiểm toán, quy mô DN, thời gian hoạt động, khả năng
sinh lời, đòn bẩy tài chính không có ảnh hưởng đến mức độ CBTT.
Biến ngành và khả năng thanh toán có ảnh hưởng đến CBTT với
mức ý nghĩa 10%, còn hai biến D1 và D2 có ảnh hưởng ở mức ý
nghĩa 5%. Do đó, các biến: D1, D2, ngành và khả năng thanh toán
được chọn để tiến hành các bước phân tích tiếp theo nhằm tìm ra mô
hình tối ưu nhất.
Tiếp theo, phân tích hồi quy bằng phương pháp Backward được
thực hiện với các biến đã được chọn và tìm ra mô hình hồi quy tối ưu
với 3 biến: D1, D2, ngành. Các biến này đều ảnh hưởng đến mức độ
CBTT ở mức ý nghĩa 10%, trong đó biến D1 và D2 ảnh hưởng ở
mức ý nghĩa 5%.
Trong kết quả hồi quy mô hình tối ưu, mức ý nghĩa của kiểm định
F bằng 0,025 (nhỏ hơn 0,05) cho thấy mô hình có ý nghĩa về mặt
thống kê, biến chỉ số CBTT phụ thuộc vào các biến độc lập của mô
hình. Giá trị R2 = 10,3% đồng nghĩa với mô hình đã giải thích được
10,3% biến động của chỉ số CBTT là do ảnh hưởng của các biến độc
lập, còn 89,7% là do ảnh hưởng của các yếu tố khác ngoài mô hình.
Mô hình tối ưu không có các hiện tượng: đa cộng tuyến, tự tương
quan và phương sai sai số thay đổi.
3.2.5 Đánh giá và bàn luận kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Quy mô DN có quan hệ nghịch chiều với mức độ
CBTT nhưng không có ý nghĩa thống kê. Đối chiếu với giả thuyết
H1, chúng ta kết luận giả thuyết này không được ủng hộ. Nói cách
19
khác, việc CBTT ở các DNNN ở Việt Nam trong thời điểm nghiên
cứu không liên quan đến quy mô DN.
Thứ hai: kết quả cũng không ủng hộ giả thuyết DNNN có thời
gian hoạt động càng lâu thì mức độ CBTT càng nhiều. Điều này có
thể giải thích là do các DNNN có đặc thù về sở hữu cũng như các
vấn đề trong công tác quản trị và các quy định về CBTT đối với
DNNN còn khá mới mẻ nên chưa tạo ra được sự khác biệt có ý nghĩa
về mức độ CBTT giữa các công ty có thời gian hoạt động khác nhau.
Thứ ba: Các DNNN hoạt động trong ngành sản xuất công nghiệp
công bố ít thông tin hơn so với các ngành khác. Đối với DN hoạt
động trong ngành sản xuất công nghiệp thì đòi hỏi phải cần nhiều
vốn để đầu tư vào máy móc thiết bị, dây chuyền phục vụ cho sản
xuất, do đó CBTT là phương tiện tốt để các công ty niêm yết thu hút
vốn từ nhà đầu tư. Tuy nhiên trên phương diện là DN 100% vốn của
Nhà nước, thì việc thu hút vốn từ đầu tư bên ngoài không cần thiết
dẫn đến mức độ CBTT của DNNN trong lĩnh vực sản xuất thấp hơn.
Thứ tư: các nhân tố khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và đòn
bẩy tài chính đều không có ý nghĩa thống kê trong mô hình nghiên
cứu. Nói cách khác, giả thuyết H4, H5, H6 đều không được ủng hộ.
Ở phương diện quản trị công ty, đây là những tín hiệu không mấy lạc
quan vì tình hình tài chính của một DNNN tốt hay xấu hơn cũng
không có tác động đến việc CBTT. CBTT là cơ chế để giảm thiểu sự
bất cân xứng thông tin, nhưng ở các DNNN tại Việt Nam, đây không
phải là vấn đề được coi trọng.
Thứ năm: Kết quả nghiên cứu ủng hộ các giả thuyết H7 và H8.
Theo đó, các DNNN là Tập đoàn kinh tế và DNNN thuộc Bộ Ngành
20
CBTT nhiều hơn so với DNNN địa phương. Điều này có thể hiểu là
do các DNNN là Tập đoàn kinh tế và DNNN thuộc Bộ ngành thường
là các DN hoạt động trong các lĩnh vực đóng vai trò quan trọng và là
xương sống của nền kinh tế cũng như thiết yếu phục vụ cho đời sống
xã hội, nên đã áp lực về CBTT cho các DN này.
Thứ sáu: nhân tố chủ thể kiểm toán không có ý nghĩa thống kê
trong mô hình, nghĩa là giả thuyết H9 không được chấp nhận. Nói
cách khác, hoạt động kiểm toán đối với các DNNN là bắt buộc
nhưng tác động của nó đối với việc công bố thông tin không được
coi trọng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Nghiên cứu đã thực hiện xử lý các số liệu về chỉ số CBTT và tiến
hành các bước nghiên cứu định lượng khác. Kết quả cho thấy rằng
mức độ CBTT của các DNNN ở Việt Nam rất thấp, trung bình là
36,94%, chỉ mới cung bố được một phần ba lượng thông tin yêu cầu
theo quy định. Điều đó cũng chứng tỏ rằng các DNNN chưa quan
tâm đến việc CBTT của đơn vị mình, đặc biệt là các thông tin phi tài
chính.
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy các DNNN là Tâp đoàn kinh
tế và DNNN thuộc Bộ Ngành công bố nhiều thông tin hơn các
DNNN địa phương. Ngoài ra, các DNNN hoạt động trong ngành sản
xuất công nghiệp công bố ít thông tin hơn các DNNN khác. Các
nhân tố truyền thống như: quy mô DN, thời gian hoạt động, chủ thể
kiểm toán, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và đòn bẩy tài
chính lại không ảnh hưởng đến mức độ CBTT của DNNN.
21
CHƯƠNG 4
HÀM Ý CHÍNH SÁCH
4.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Việc tăng cường công khai hoá, minh bạch hoá sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như toàn xã hội
giám sát hoạt động của các DNNN, từ đó tạo sức ép để các DN này
hoạt động hiệu quả hơn. Ngoài ra, thiếu công khai thông tin có thể
dẫn đến những hành vi mờ ám, sai trái, từ đó làm thất thoát vốn của
Nhà nước và đem lại những tác động tiêu cực cho nền kinh tế.
Thúc đẩy các DNNN nghiêm túc tuân th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_cac_nhan_to_anh_huong_den_cong_bo_thong_tin.pdf