Đảm bảo chính sách tiền lương đối với công chức phải tương xứng với giá trị
sức lao động bỏ ra và phải bảo đảm được ba phương diện: duy trì cuộc sống của bản
thân, một phần tích lũy cho gia đình và một phần để đề phòng rủi ro có thể xảy ra
(ốm đau, về hưu ). Mặt khác, việc trả lương phải theo kết quả công việc chứ không
phải theo vị trí và chức danh của công việc nhằm bảo đảm công bằng, tạo động lực
phấn đấu và gây dựng lòng đam mê với công việc chuyên môn mà công chức đang
đảm nhiệm.
Có chính sách thu hút nhân tài, tập trung vào các đối tượng: sinh viên tốt
nghiệp loại giỏi, xuất sắc, thủ khoa các trường đại học; thí sinh đạt điểm cao nhất
trong các kỳ thi tuyển dụng; những người có tài năng đang làm việc ở các khu vực
khác như doanh nghiệp nhà nước, khu vực tư nhân. Việc sử dụng người có tài năng
phải hợp lý, tức là “tùy tài mà sử dụng”, sử dụng người có tài năng phải căn cứ vào
ưu thế về tố chất nhân cách và sở trường tài năng của đối tượng mà bố trí, bổ nhiệm
chức trách phù hợp. Xây dựng môi trường làm việc dân chủ, sáng tạo, thân thiện, có
sự tôn trọng, sự tin tưởng lẫn nhau, tạo điều kiện cho người tài thăng tiến nghề nghiệp
và cống hiến.
23 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/03/2022 | Lượt xem: 491 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Chất lượng công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã trên địa bàn thị xã Buôn hồ, tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sở được thực hiện đúng quy định của pháp luật, đúng
sự hướng dẫn và quản lý thống nhất của ngành Tư pháp.
1.4.2. Xuất phát từ yêu cầu cải cách hành chính nhà nước
Một trong 5 mục tiêu quan trọng của Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự
phát triển của đất nước”. Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức cũng
xác định mục tiêu: xây dựng một nền công vụ “chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng
động, minh bạch, hiệu quả”. Do đó, để thực hiện có hiệu quả mục tiêu trên nhằm đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay thì giải pháp trọng tâm chính
là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ “tâm”, đủ “tầm”, trong đó có công chức
Tư pháp – Hộ tịch.
1.4.3. Xuất phát từ đòi hỏi của Nhân dân về nâng cao chất lượng cung ứng
dịch vụ công
Hiện nay, xu thế dân chủ hóa, toàn cầu hóa và hội nhập đang đặt ra những yêu
cầu, đòi hỏi đối với Nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công ngày càng cao hơn.
Do đó, để thực hiện tốt điều này, đòi hỏi đội ngũ công chức, trong đó có đội ngũ
công chức Tư pháp – Hộ tịch là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cung ứng
dịch vụ công phải đảm bảo phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, năng lực công tác.
1.4.4. Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ
máy chính quyền cấp xã
UBND cấp xã là cơ quan hành chính thẩm quyền chung thực hiện nhiệm vụ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, để thực hiện những công việc
thuộc nội dung quản lý nhà nước của UBND cấp xã một cách thường xuyên, chuyên
nghiệp cần phải có đội ngũ công chức Tư pháp – Hộ tịch được đào tạo chuyên sâu,
chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.
1.4.5. Xuất phát từ thực trạng chất lượng công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp
xã hiện nay
Những năm qua, đội ngũ công chức làm công tác Tư pháp - Hộ tịch ở cấp xã
cơ bản đã phát huy tốt vai trò tham mưu giúp cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý tư pháp theo quy định pháp luật. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số công chức Tư pháp - Hộ tịch hạn
chế về chuyên môn nghiệp vụ, chưa đạt chuẩn về trình độ, hoạt động thiếu tính
chuyên nghiệp. Chính vì vậy yêu cầu phải nâng cao chất lượng công chức Tư pháp –
Hộ tịch cấp xã là rất cần thiết.
8
Chương 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC TƯ PHÁP – HỘ TỊCH
CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và những tác động của điều kiện tự
nhiên, tình hình kinh tế - xã hội thị xã Buôn Hồ tới chất lượng công chức Tư
pháp – Hộ tịch
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của thị xã Buôn Hồ
Thị xã Buôn Hồ cách trung tâm tỉnh lỵ Đắk Lắk 40 km về phía Đông Bắc, chạy
dọc theo Quốc lộ 14; nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đặc trưng cho vùng
Cao nguyên Nam Trung Bộ, mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Hiện
nay, thị xã Buôn Hồ có diện tích tự nhiên 28.205,89 ha, dân số 105.851 người, có 12
đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 07 phường (Đạt Hiếu, An Lạc, An Bình,
Thiện An, Đoàn Kết, Thống Nhất, Bình Tân) và 05 xã (Ea Siên, Ea Drông, Ea Blang,
Bình Thuận, Cư Bao). Trên địa bàn thị xã có 22 dân tộc anh em cùng sinh sống như Ê
Đê, M’Nông, GiaRai, Kinh, Tày, Nùng, chiếm 29,4% dân số; có 04 tôn giáo chính
là Công giáo, Phật giáo, Cao đài và Tin lành với 54.244 tín đồ, chiếm 51,2% dân số.
2.1.2. Những tác động của điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của
thị xã Buôn Hồ tới chất lượng công chức Tư pháp – Hộ tịch
2.1.2.1. Tác động tích cực
Thị xã Buôn Hồ với điều kiện tự nhiên thuận lợi, kinh tế - xã hội ngày càng
phát triển, an ninh quốc phòng được giữ vững đã giúp cho đội ngũ công chức Tư
pháp – Hộ tịch ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ
chuyên môn được giao.
2.1.2.2. Tác động tiêu cực
Hiện nay, trong bối cảnh đầu tư công bị thắt chặt nên các hoạt động đầu tư xây
dựng trên địa bàn thị xã Buôn Hồ gặp nhiều khó khăn; nhiều doanh nghiệp hoạt
động kém hiệu quả dẫn đến phá sản; tình hình thời tiết diễn biến không thuận lợi;
giá cả nguyên, nhiên vật liệu phục vụ đầu vào sản xuất tăng; an ninh, chính trị, trật
tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn phức tạpđã tác động, ảnh hưởng đến đời sống của
Nhân dân và kết quả thực hiện nhiệm vụ của thị xã.
2.2. Tình hình công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã trên địa bàn thị xã
Buôn Hồ
2.2.1. Về số lượng
Theo báo cáo của phòng Nội vụ tính đến tháng 10/2019, tổng số CBCC cấp xã
trên địa bàn thị xã Buôn Hồ là 498 người, trong đó cán bộ chuyên trách và công
chức cấp xã là 265 người. Cán bộ bán chuyên trách và nhân viên hợp đồng là 233.
Số lượng công chức cấp xã là 131 người, trong đó, công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp
xã và nhân viên hợp đồng thực hiện nhiệm vụ Tư pháp – Hộ tịch là 16 người, chiếm
12,2% tổng số công chức cấp xã trên địa bàn thị xã.
2.2.2. Về cơ cấu độ tuổi, giới tính, thành phần dân tộc
- Về cơ cấu giới tính: Năm 2015 - 2016 tỷ lệ công chức là nam giới 10 người,
nữ giới 06 người; từ năm 2017 đến nay, cơ cấu giới tính đã có sự cân bằng 50/50.
9
- Về cơ cấu độ tuổi: Từ năm 2015 đến nay tỷ lệ công chức độ tuổi dưới 30 giảm
dần qua các năm, độ tuổi từ 30-45 tuổi và trên 45 tuổi tăng lên, điều này tiềm ẩn
nguy cơ sự mất cân bằng, hay nói cách khác là “già hóa” đội ngũ công chức.
- Về thành phần dân tộc: công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã trên địa bàn thị xã
chủ yếu là dân tộc Kinh, dân tộc thiểu số rất ít, đến nay chỉ có 02 công chức là người
đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 12,5% so với tổng số công chức Tư pháp –
Hộ tịch cấp xã. Điều này cho thấy các cấp ủy Đảng, chính quyền trên địa bàn thị xã
trong những năm qua chưa quan tâm đến việc ưu tiên tuyển dụng đối với công chức
Tư pháp – Hộ tịch cấp xã là người đồng bào dân tộc thiểu số, trong khi đó đặc thù
thị xã Buôn Hồ là một trong những địa bàn của tỉnh Đắk Lắk có đông đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống.
2.3. Chất lượng công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã ở thị xã Buôn Hồ
trong giai đoạn hiện nay
2.3.1. Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
Công chức Tư pháp – Hộ tịch cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, có
tinh thần trách nhiệm trong công việc, giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý
thức tổ chức kỷ luật và chấp hành sự phân công của tổ chức, có lối sống lành mạnh,
giản dị, gắn bó với Nhân dân.
2.3.2. Về trình độ của công chức
- Trình độ học vấn: Công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã trên địa bàn thị xã
Buôn Hồ đều đạt chuẩn về trình độ theo Thông tư số 06/2012/TT-BNV, ngày
30/10/2012 của Bộ Nội vụ, 100% tốt nghiệp THPT.
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: 16/16 công chức có trình độ Trung cấp
Luật trở lên.
- Trình độ lý luận chính trị: Từ 2015 đến 2019 công chức Tư pháp – Hộ tịch
cấp xã có trình độ trung cấp lý luận chính trị có tăng nhưng rất nhỏ và không đáng kể
(từ 01 người năm 2015 đến 03 người năm 2019); tỷ lệ công chức có trình độ sơ cấp
không tăng qua các năm (từ năm 2015 đến năm 2019 là 02 người); tỷ lệ công chức
chưa qua đào tạo 11/16 người, chiếm tỷ lệ cao 68,75%.
- Trình độ quản lý nhà nước: Hiện nay số lượng công chức Tư pháp – Hộ tịch
cấp xã trên địa bàn thị xã chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao, đến năm 2019 vẫn
còn 10/16 công chức chưa qua đào tạo, chiếm tỷ lệ 62,5%; toàn thị xã có 16 công
chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã nhưng chỉ có 02 người trình độ chuyên viên, chiếm tỷ
lệ 6,25%; có 06 người trình độ cán sự, chiếm 37,5%.
- Trình độ tin học: Từ năm 2015 đến năm 2019, số công chức có chứng chỉ tin
học có tăng nhưng tăng ở mức chậm (6 người năm 2015 đến 09 người năm 2019).
- Trình độ ngoại ngữ: Từ năm 2015 đến năm 2019, trình độ ngoại ngữ của
công chức Tư pháp – Hộ tịch qua các năm có biến động nhưng không nhiều, năm
2015 số người có chứng chỉ là 25% thì đến năm 2019 số người có chứng chỉ là 50%
(tăng 25%). Số người chưa qua đào tạo còn 08 người, chiếm tỷ lệ 50%.
2.3.3. Về kỹ năng giải quyết công việc của công chức
10
Qua kết quả điều tra với 06 kỹ năng cơ bản (kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông
tin, kỹ năng tổ chức thực hiện công việc, kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng phối hợp trong công tác, kỹ năng xử lý tình huống); hầu hết công chức
Tư pháp – Hộ tịch đều tự đánh giá các kỹ năng ở mức tốt, khá; mức trung bình tập
trung chủ yếu vào kỹ năng giao tiếp và kỹ năng phối hợp trong công tác ở mức
18,75%; tuy nhiên vẫn có một đến hai trường hợp tự đánh giá có kỹ năng còn yếu đó
là kỹ năng soạn thảo văn bản 6,25% và kỹ năng xử lý tình huống 12,5%.
2.3.4. Kết quả thực thi công vụ
Đánh giá của cán bộ lãnh đạo, quản lý xã, phường về thái độ trong công việc
của công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã ở mức nhiệt tình 53,3%; khối lượng công
việc hoàn thành đúng định mức đạt 51,7%; hoàn thành công việc cơ bản đúng tiến độ,
chiếm 53,4%; chất lượng công việc hoàn thành chủ yếu là đạt yêu cầu 45% và hoàn
thành tốt công việc đạt 31,7%.
2.3.5. Sự tín nhiệm, hài lòng của người dân trong giải quyết công việc
- Về thái độ đón tiếp công dân được công dân đánh giá ở mức rất tốt chỉ chiếm
tỷ lệ 18,3% số phiếu được hỏi; có 51,7% được cho là có thái độ tiếp công dân tương
đối tốt; 18,3% mức bình thường. Tuy nhiên còn một bộ phận chiếm 11,7% bị đánh
giá mức kém: còn thiếu lịch sự, chưa nhiệt tình hướng dẫn, giải đáp cho Nhân dân.
- Về tác phong làm việc được công dân đánh giá khá cao. Tỷ lệ đánh giá mức
rất tốt và mức tương đối tốt lần lượt là 23,3% và 46,7%, mức bình thường và kém là
23,3% và 6,7%.
- Về cách giao tiếp, ứng xử đối với Nhân dân: được Nhân dân đánh giá ở mức
tương đối tốt và bình thường là chủ yếu: tỷ lệ 31,7% và 38,3%. Tuy nhiên, số câu trả
lời đánh giá ở mức kém còn cao 13,3%.
- Ý thức, tinh thần trách nhiệm trong công việc chỉ được nhân dân đánh giá ở
mức mức tương đối tốt là 35%, bình thường là 31,7%, tỷ lệ mức kém là 5%.
- Về mức độ dân hài lòng: Tỷ lệ người dân cảm thấy rất hài lòng và hài lòng về
kết quả phục vụ của công chức Tư pháp – Hộ tịch đối với Nhân dân chưa thật sự cao
mới chỉ chiếm tỷ lệ 60%; bên cạnh đó ở mức độ bình thường chiếm tỷ lệ 25%; chưa
hài lòng chiếm tỷ lệ 15%.
2.4. Đánh giá chung về thực trạng chất lượng công chức Tư pháp – Hộ
tịch cấp xã ở thị xã Buôn Hồ
2.4.1. Ưu điểm và nguyên nhân
2.4.1.1. Ưu điểm
Trong những năm qua nhìn chung chất lượng đội ngũ công chức Tư pháp – Hộ
tịch cấp xã trên địa bàn thị xã Buôn Hồ đã được nâng lên rõ rệt, góp phần quan trọng
trong việc tổ chức, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền, đảm bảo an
ninh, chính trị, quốc phòng tại địa phương.
Đa số công chức Tư pháp – Hộ tịch được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn
công tác, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
chấp hành nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước; phẩm chất đạo đức tốt, có ý
11
thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm với công việc. Kỹ năng xử lý công việc
của công chức Tư pháp – Hộ tịch không ngừng được trau dồi, hoàn thiện; công chức
có ý thức tự học tập, tự rèn luyện kỹ năng cho bản thân, giải quyết công việc ngày
càng chính xác, nhanh chóng và hiệu quả; đặc biệt, nhiều đồng chí đã xây dựng được
uy tín trong công tác, xây dựng được lòng tin của đồng nghiệp và người dân, được
Nhân dân ngày càng yêu mến và tín nhiệm. Qua đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ, hầu hết công chức Tư pháp – Hộ tịch đều hoàn thành công việc đúng tiến độ, đạt
yêu cầu đề ra.
2.4.1.2. Nguyên nhân ưu điểm
Những năm qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể từ thị
xã đến xã, phường đã thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao
chất lượng công chức trên địa bàn thị xã nói chung, công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp
xã nói riêng, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm công cuộc cải cách hành chính của thị xã.
Việc tuyển dụng, sử dụng, bố trí công chức Tư pháp – Hộ tịch trong những
năm qua cơ bản đã căn cứ vào nhu cầu thực tế công việc và tiêu chuẩn quy định; công
tác đào tạo, bồi dưỡng có nhiều thay đổi tích cực, các cấp ủy, chính quyền thường
xuyên tạo điều kiện cho công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhờ đó đa số công chức đã đáp ứng tốt yêu cầu
nhiệm vụ được giao.
Bản thân công chức Tư pháp – Hộ tịch có ý thức nỗ lực phấn đấu, học tập, rèn
luyện, tự vươn lên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
2.4.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.4.2.1. Tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của công chức Tư pháp –
Hộ tịch cấp xã hiện nay còn nhiều mặt hạn chế. Một số công chức có biểu hiện suy
thoái, thiếu gương mẫu về đạo đức và lối sống; thái độ làm việc hời hợt, thiếu nhiệt
tình; làm việc theo kiểu “mạnh ai nấy làm” dẫn đến hiệu quả công việc không cao.
Giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, có 02 công chức chỉ được đánh giá xếp loại ở
mức hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực, 01 công chức không hoàn
thành nhiệm vụ đã bị xử lý kỷ luật về mặt Đảng và chính quyền ở mức khiển trách
(hiện nay đã xin thôi việc).
Thứ hai, Mặt bằng tri thức của công chức còn thấp so với yêu cầu của công
việc, kiến thức lý thuyết, lý luận thiếu vững chắc, sự trải nghiệm thực tiễn, vốn sống
còn ít; năng lực thực thi công vụ chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Hiện nay,
thị xã Buôn Hồ có một thực trạng là ở các xã ở xa trung tâm có nhiều đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống, kinh tế khó khăn như Ea Drông, Ea Siên thì trình độ công chức
lại thấp trong khi đó khối lượng công việc tại các địa phương này lại hết sức nặng nề.
Thứ ba, Việc học tập lấy chứng chỉ để hợp lý hoá theo tiêu chuẩn chức danh đã
làm cho đội ngũ công chức Tư pháp – Hộ tịch học khá nhiều nhưng kỹ năng cần thiết
để thực thi công vụ còn hạn chế, chưa thành thạo, tính chuyên nghiệp chưa cao. Một
số công chức chưa có thói quen xây dựng kế hoạch làm việc, tổ chức thực hiện công
việc chưa khoa học, không đúng quy trình, quy định.Bên cạnh đó, vẫn còn không ít
12
công chức mới chỉ dừng lại ở trình độ “cầm tay chỉ việc”; chuyên môn nghiệp vụ
không đúng chuyên ngành nên chưa am hiểu nhiều về lĩnh vực chuyên môn, thiếu
năng động, chủ động giải quyết công việc.
Thứ tư, trình độ, năng lực của một số công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã vẫn
còn những tồn tại, hạn chế nhất định, một số một số công chức Tư pháp – Hộ tịch do
chuyển từ cơ chế cũ, được hình thành từ nhiều nguồn nên cơ cấu chưa đồng bộ, trình
độ, phẩm chất, năng lực chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; một số công chức Tư pháp –
Hộ tịch thiếu tích cực, thiếu chủ động và thiếu khả năng làm việc độc lập.
Thứ năm, kết quả thực thi công vụ chưa cao, nhiều công chức làm việc đạt kết
quả thấp. Một số công chức vẫn chưa thực sự nắm vững đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; còn bảo thủ trong cách nghĩ, cách làm,
thiếu sự năng động, sáng tạo và đổi mới; cách làm việc quan liêu, hành chính hoá,
không thạo việc, tác phong chậm chạp, sử dụng thời gian làm việc không hiệu quả...
dẫn đến sự trì trệ trong giải quyết công việc, làm giảm niềm tin của Nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, vào bộ máy quản lý của nhà nước.
2.4.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
* Nguyên nhân khách quan:
Một là, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi đội
ngũ công chức phải có sự thay đổi, nâng cao hơn về trình độ, kỹ năng để đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Nguyên nhân này làm cho khoảng cách giữa
yêu cầu công việc và năng lực hiện có của công chức ngày càng xa nhau, công chức
chưa kịp thời thay đổi để thích ứng dẫn đến hiệu quả công việc không cao.
Hai là, Mức lương hiện nay của công chức mặc dù đã được Nhà nước quan
tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống của cán bộ,
công chức; do đó, nhiều công chức phải tìm thêm thu nhập khác từ bên ngoài. Điều
này gây phân tán tinh thần, sức khỏe của công chức, công chức không thực sự tập
trung hết mình cho công việc chuyên môn của mình.
Ba là, môi trường làm việc thiếu dân chủ, văn minh; chưa có sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các công chức. Điều này dẫn tới việc công chức không phát huy được
tinh thần sáng tạo, ảnh hưởng tới tính tích cực, hăng say làm việc của công chức.
Bốn là, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho công chức Tư pháp – Hộ tích
cấp xã trên địa bàn thị xã Buôn Hồ chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu và
xuống cấp nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả thực thi công vụ của
công chức.
Năm là, nhiều công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã được tuyển dụng thông qua
các phong trào hoạt động của địa phương, do đó không được đào tạo cơ bản, đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của công chức; hiện nay mới chỉ
có 07/16 công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã trên địa bàn thị xã có trình độ đào tạo
chính quy, còn lại chủ yếu là hình thức đào tạo tại chức; đồng thời, mới chỉ có 01/16
công chức đã học lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên.
* Nguyên nhân chủ quan:
13
Một là, một số công chức Tư pháp – Hộ tịch còn ngại học tập, rèn luyện, giảm
sút ý chí phấn đấu vươn lên; nhiều công chức chỉ chú trọng tới lợi ích cá nhân, năng
lực hạn chế, không có tinh thần trách nhiệm trong công việc; không chịu nghiên cứu,
tích lũy kinh nghiệm mà hầu như dựa vào máy vi tính, sao chép văn bản khi được
giao nhiệm vụ. Nguyên nhân này dẫn tới hiệu quả giải quyết công việc thấp, văn bản
triển khai không phù hợp thực tiễn của địa phương, lĩnh vực.
Hai là, các cấp ủy đảng, chính quyền từ thị xã đến cơ sở chưa thật sự quan tâm
đến việc nâng cao chất lượng công chức Tư pháp – Hộ tịch; công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức; việc cử công chức đi học các lớp đào tạo
bồi dưỡng còn thiên về cảm tính, hầu như chỉ ưu tiên cho các đối tượng là cán bộ
lãnh đạo, quản lý hoặc chuyên viên, nhân viên cấp thị xã trước.
Ba là, công tác tuyển dụng công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã trên địa bàn
thị xã Buôn Hồ còn nhiều bất cập, chưa xem xét kỹ lưỡng vị trí đó có cần thiết hay
không và tiêu chuẩn ở vị trí đó đã phù hợp hay chưa; bên cạnh đó, việc xét duyệt hồ
sơ sơ tuyển công chức chưa thật sự kỹ càng, còn nặng về hình thức, chú trọng nhiều
về bằng cấp, chưa theo nguyên tắc “việc cần người”; quá trình tuyển dụng còn có thái
độ chủ quan, cảm tính hoặc bị áp lực bởi mối quan hệ riêng tư trong tuyển dụng.
Bốn là, công tác lựa chọn, bố trí, sử dụng công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã
có lúc chưa được quan tâm đúng mức, chưa xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của địa
phương nên vẫn còn tình trạng bố trí, sử dụng chưa đúng người, đúng việc, chưa phù
hợp với trình độ, năng lực của công chức dẫn đến chất lượng công chức và hiệu quả
công việc không cao. Năm 2015, 2016 có 02 công chức không đúng trình độ chuyên
môn nhưng vẫn bố trí thực hiện nhiệm vụ Tư pháp – Hộ tịch.
Năm là, nhận thức về vị trí, vai trò của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của các
cấp ủy đảng, chính quyền chưa cao; nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng còn
nặng về lý thuyết, nhẹ về kỹ năng. Bên cạnh đó, tại thị xã Buôn Hồ mặc dù hàng năm
được bố trí nguồn kinh phí nhất định dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuy
nhiên, kinh phí này hầu như chỉ được chi trả cho cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Sáu là, công tác thi đua khen thưởng vẫn còn tình trạng cào bằng, nể nang; có
lúc có nơi việc bình xét khen thưởng thiếu dân chủ, còn phụ thuộc vào ý chí của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, còn có hiện tượng xét từ trên xuống dưới tức là ưu
tiên xét cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trước sau đó mới tới nhân viên. Bên cạnh đó,
việc thực hiện kỷ luật công vụ trên địa bàn có lúc chưa được coi trọng, thực hiện còn
lỏng lẻo, thiếu công bằng, khách quan, còn có biểu hiện “nhẹ trên, nặng dưới”.
Bảy là, công tác đánh giá xếp loại công chức chưa thực sự căn cứ vào tiêu
chuẩn, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và hiệu quả công việc thực tế
của công chức để đánh giá công chức; việc đánh giá còn mang nặng tính hình thức,
bằng cấp, nể nang, “dĩ hòa, vi quý”, do đó không tạo được động lực để cán bộ, công
chức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Tám là, các cấp ủy đảng, chính quyền chưa chú trọng thực hiện các chính sách,
chế độ đãi ngộ để phát huy năng lực của công chức Tư pháp – Hộ tịch; nhiều địa
phương, đơn vị thực hiện chế độ đãi ngộ chưa xứng đáng với công trạng và sự đóng
14
góp của công chức; ít khuyến khích và chưa tạo được động lực tốt để công chức hăng
say, nhiệt tình cống hiến hết mình cho công việc.
Chín là, công tác kiểm tra, giám sát công chức Tư pháp – Hộ tịch trong thực
thi công vụ chưa thực sự được coi trọng; chưa thường xuyên kiểm tra, giám sát hoặc
có kiểm tra, giám sát nhưng chỉ mang tính chiếu lệ, hình thức, chưa quyết liệt nên
hiệu quả mang lại chưa cao.
15
Chương 3
QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC TƯ PHÁP – HỘ TỊCH CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm, phương hướng nâng cao chất lượng công chức Tư pháp –
Hộ tịch cấp xã trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
3.1.1. Quan điểm
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm
chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế –xã hội, bảo
đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của thời kỳ mới.
3.1.2. Phương hướng
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực quản lý, kỹ năng điều hành và thực thi
công vụ, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đổi mới cơ
chế, chính sách. Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách
nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về
công tác cán bộ.
Thực hiện tốt việc tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ và cải cách
hành chính; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ phải gắn liền với đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính trị từ thị xã đến cơ sở.
Đổi mới công tác tuyển dụng, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển và công tác đề bạt, bổ nhiệm theo phương châm công khai, dân chủ. Kiên
quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng tiêu cực, nhũng nhiễu trong công tác cán bộ.
Thực hiện nghiêm túc Quy định của Chính phủ về các vị trí công tác phải chuyển đổi
định kỳ. Thực hiện có hiệu quả Đề án tinh giản biên chế của Chính phủ giai đoạn
2016-2021.
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công chức Tư pháp – Hộ tịch
cấp xã trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức
trách nhiệm và đạo đức công vụ của công chức
Các cấp ủy đảng, chính quyền thường xuyên duy trì và làm tốt công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng đối với công chức Tư pháp – Hộ tịch; kịp thời phát hiện và xử
lý nghiêm minh những công chức suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống.
Tự thân mỗi công chức Tư pháp – Hộ tịch cần phải nêu cao ý thức trách nhiệm,
gương mẫu, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống trong mọi nơi, mọi lúc,
nhất là trước những cám dỗ vật chất phải tự đấu tranh với chính mình, thực hiện đạo
16
đức “cần, kiệm, liêm, chính”, không sa ngã, tích cực đấu tranh chống lại những biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần
Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị. Quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc các
quy định trong Luật cán bộ, công chức và văn hóa công vụ.
Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”; định kỳ lấy ý kiến nhận xét của Nhân dân về tư cách, đạo đức của công
chức Tư pháp – Hộ tịch.
3.2.2. Đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng công chức
Có thể khẳng định, công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng đúng công chức chính
là khâu đầu tiên có tính quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực của địa phương,
đơn vị; là điều kiện để công chức cống hiến, phát huy năng lực. Do đó, việc đổi mới
công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng công chức là một trong những giải pháp quan
trọng góp phần nâng cao
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_chat_luong_cong_chuc_tu_phap_ho_tich_cap_xa.pdf