Lý thuyết thông tin hữu ích
Lý thuyết này hình thành trên cơ sở nghiên cứu của Staubus vào
năm 1960 (Staubus, 2013). Lý thuyết này nhấn mạnh nhiệm vụ cơ
bản của BCTC là cung cấp thông tin hữu ích và thích hợp cho các
đối tượng sử dụng trong việc ra quyết định kinh tế. Giả thuyết cho
việc chấp nhận cách tiếp cận ra quyết định trên cơ sở thông tin hữu
ích của kế toán là về mặt lý thuyết, các BCTC được lập để phục vụ
tốt hơn cho nhu cầu của người dùng. Lý thuyết thông tin hữu ích
cũng đề cập đến khái niệm cân bằng lợi ích – chi phí, là một khía
cạnh quan trọng cần quan tâm khi thiết lập các chuẩn mực.
1.2.2. Lý thuyết tín hiệu7
Lý thuyết tín hiệu được phát triển bởi Michael Spence năm
1973, trong bối cảnh của thị trường lao động. Ông phân tích bất đối
xứng thông tin thông qua phân tích sự lựa chọn bất lợi trên thị trường
lao động của các chủ DN, do người lao động có lợi thế thông tin hơn
về bản thân người lao động và năng suất lao động tiềm năng
26 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 437 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Nghiên cứu về công bố thông tin lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu trong Báo cáo tài chính của các công ty niêm yết ở Việt Nam - Lê Thùy Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổng quan nghiên cứu về công bố
thông tin lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Hàm ý chính sách và kết luận
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG
BỐ THÔNG TIN LỢI NHUẬN TRÊN MỖI CỐ PHIẾU
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ LỢI
NHUẬN TRÊN MỖI CỔ PHIẾU
1.1.1. Khái niệm về lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu
Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu là phần lợi nhuận mà công ty phân bổ
cho mỗi cổ phiếu phổ thông đang được lưu hành trên thị trường. Tại
Việt Nam, theo VAS 30 quy định EPS có hai loại gồm: EPS cơ bản
và EPS pha loãng.
4
1.1.2. Khái niệm về công bố thông tin
Theo sổ tay CBTT dành cho CTNY của Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội (2013), CBTT được hiểu là phương thức để thực hiện
quy trình minh bạch của DN nhằm bảo đảm các cổ đông và công
chúng có thể tiếp cận thông tin.
1.1.3. Vai trò của công bố thông tin
Việc CBTT đầy đủ và kịp thời sẽ làm gia tăng tính minh bạch và
ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của các nhà đầu tư, mức độ CBTT
càng tốt càng làm giảm tình trạng thông tin bất đối xứng giữa các
nhà đầu tư và công ty, làm tăng giá trị và thanh khoản của cổ phiếu
trên thị trường (Johansen và Plenborg, 2013). Ngược lại, việc CBTT
không tốt có thể làm gia tăng chi phí vốn, dẫn đến việc phân bổ các
nguồn vốn không hiệu quả (Albitar, 2015).
1.1.4. Phân loại công bố thông tin
Phân loại theo yêu cầu công bố thông tin
- Thông tin bắt buộc: Thông tin phải công bố bắt buộc là các
thông tin mà các văn bản pháp luật có liên quan quy định các CTNY
phải công bố theo quy định.
- Thông tin tự nguyện: là các thông tin mà các CTNY tự nguyện
công bố để nhà đầu tư hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động của công ty
mà các công ty này không bắt buộc phải công bố theo quy định.
- Thông tin tùy ý: CBTT tùy ý là một trường hợp đặc biệt của
CBTT bắt buộc. CBTT tùy ý phát sinh khi những thông tin bắt buộc
phải công bố theo quy định của pháp luật nhưng chưa được các văn
bản pháp luật quy định chi tiết về chừng mực của thông tin được
công bố nên DN có thể tùy ý điều chỉnh mức độ CBTT nhiều hay ít.
Phân loại thông tin theo tính chất định kỳ hoặc bất thường
5
- Thông tin định kỳ: Các thông tin công bố định kỳ thường là
được công bố trên BCTC năm và BCTC giữa niên độ.
- Thông tin bất thường: Bao gồm CBTT bất thường theo quy
định như tài khoản của công ty tại ngân hàng bị phong tỏa hoặc được
phép hoạt động trở lại bình thường sau khi bị phong tỏa và CBTT
khác phải công bố theo yêu cầu cầu của các SGDCK hay các co quan
quản lý.
Phân loại thông tin theo mức độ xử lý
- Thông tin ban đầu: Là những BCTC do DN công bố trên thị
trường.
- Thông tin đã được xử lý: Là những thông tin được thống kê lại
từ những thông tin ban đầu nhằm nhiều mục đích sử dụng khác nhau.
1.1.5. Quy định về công bố thông tin về lợi nhuận trên mỗi
cổ phiếu
Hiện nay, việc CBTT về EPS trên BCTC tuân thủ theo quy định
tại VAS 30 “Lãi trên cổ phiếu” và VAS 27 “Báo cáo tài chính giữa
niên độ” (Bộ Tài chính, 2005). Ngoài các chuẩn mực kế toán trên,
Chế độ kế toán cũng có yêu cầu về công bố EPS và hướng dẫn cách
tính EPS cơ bản cũng như EPS pha loãng (Bộ Tài chính, 2014). Các
CTNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam đều phải tuân thủ quy
định về CBTT theo Thông tư 155/2015/TT-BTC về hướng dẫn
CBTT trên thị trường chứng khoán (Bộ Tài chính, 2015).
1.1.6. Đo lƣờng mức độ công bố thông tin
Đo lường bằng thang đo không trọng số: Trên cơ sở hệ thống
các chỉ mục thông tin đã được xây dựng, từng mục thông tin tương
ứng trong BCTC được nghiên cứu sẽ được gán giá trị bằng một (1)
nếu thông tin đó được công bố, hoặc được gán giá trị bằng không (0)
nếu thông tin đó không công bố. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn có
6
thể quyết định không gán giá trị cho một mục tin được đánh giá nếu
chắc chắn rằng đối với BCTC được khảo sát đó thì mục tin này chắc
chắn là không liên quan (not applicable).
Đo lường bằng thang đo có trọng số: Khác với phương pháp đo
lường không trọng số, các mục tin trong phương pháp đo lường bằng
thang đo có trọng số được đánh giá có tính hữu ích khác nhau đối với
người sử dụng và do vậy được gán bởi các trọng số khác nhau khi
đánh giá mức độ CBTT. Chẳng hạn, nghiên cứu của (Urquiza và
cộng sự, 2009) việc xác định mức độ CBTT được đánh giá theo
nguyên tắc sau: mục tin công bố được gán giá trị bằng không (0) nếu
không được công bố, bằng 0,5 nếu công bố là định tính hoặc bằng
một (1) nếu công bố là định lượng. Tuy nhiên, phương pháp này bị
đánh giá là không chính xác vì việc đánh giá tầm quan trọng của
khoản mục phụ thuộc vào nhận xét chủ quan của người nghiên cứu.
1.2. CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG
TIN VỀ LỢI NHUẬN TRÊN MỖI CỔ PHIẾU
1.2.1. Lý thuyết thông tin hữu ích
Lý thuyết này hình thành trên cơ sở nghiên cứu của Staubus vào
năm 1960 (Staubus, 2013). Lý thuyết này nhấn mạnh nhiệm vụ cơ
bản của BCTC là cung cấp thông tin hữu ích và thích hợp cho các
đối tượng sử dụng trong việc ra quyết định kinh tế. Giả thuyết cho
việc chấp nhận cách tiếp cận ra quyết định trên cơ sở thông tin hữu
ích của kế toán là về mặt lý thuyết, các BCTC được lập để phục vụ
tốt hơn cho nhu cầu của người dùng. Lý thuyết thông tin hữu ích
cũng đề cập đến khái niệm cân bằng lợi ích – chi phí, là một khía
cạnh quan trọng cần quan tâm khi thiết lập các chuẩn mực.
1.2.2. Lý thuyết tín hiệu
7
Lý thuyết tín hiệu được phát triển bởi Michael Spence năm
1973, trong bối cảnh của thị trường lao động. Ông phân tích bất đối
xứng thông tin thông qua phân tích sự lựa chọn bất lợi trên thị trường
lao động của các chủ DN, do người lao động có lợi thế thông tin hơn
về bản thân người lao động và năng suất lao động tiềm năng (xem
Nguyễn Hữu Cường, 2017).
1.2.3. Lý thuyết đại diện
Lý thuyết đại diện được phát triển bởi Jensen và Meckling năm
1976 (Nguyễn Hữu Cường, 2017), lý thuyết này nghiên cứu mối
quan hệ giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền. Theo lý thuyết
này thì chi phí đại diện và bất đối xứng thông tin phát sinh do sự tách
rời giữa quyền sở hữu (nhà đầu tư) và quyền kiểm soát (nhà quản lý).
Chi phí đại diện phát sinh khi ban giám đốc thực hiện những hoạt
động nhằm mục đích mang lại lợi ích riêng cho họ thay vì những
hoạt động có lợi cho các cổ đông, thông qua việc điều chỉnh mức độ
CBTT dẫn đến các quyết định của nhà đầu tư có thể bị ảnh hưởng.
1.2.4. Lý thuyết kinh tế thông tin
Lý thuyết kinh tế thông tin đã được áp dụng từ những năm 1970
để đánh giá mức độ mà thị trường tài chính cũng như các tổ chức
khác xử lý và truyền đạt thông tin. Lý thuyết này được hình thành
trên cơ sở của các nghiên cứu về sự lựa chọn bất lợi trên thị trường
sản phẩm do bên bán có thông tin nhiều hơn người mua, nghiên cứu
về bất đối xứng thông tin thông qua phân tích sự lựa chọn bất lợi trên
thị trường lao động của các chủ DN (Spence, 2002). Nghiên cứu bất
đối xứng thông tin trên thị trường bảo hiểm, do người mua bảo hiểm
có lợi thế thông tin hơn về những rủi ro tiềm ẩn của chính họ so với
các DN bán bảo hiểm (xem Rothschild và Stiglitz, 1976).
1.2.5. Lý thuyết các bên liên quan
8
Lý thuyết các bên liên quan được hình thành trong nghiên cứu
của Freeman (1984), đây là lý thuyết về quản trị tổ chức và đạo đức
kinh doanh. Nó đề cập tới đạo đức và các giá trị trong quản trị tổ
chức. Trong lý thuyết này, khái niệm "các bên liên quan" là bất kỳ cá
nhân hay nhóm người bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi
những hành động của tổ chức. Lý thuyết các bên liên quan cho rằng,
ngoài các cổ đông còn có các đối tượng khác có liên quan đến quá
trình hoạt động DN bao gồm cơ quan chính phủ, các nhóm chính trị,
các hiệp hội thương mại, công đoàn, cộng đồng, các công ty liên
quan, khách hàng tiềm năng, và công chúng. Từ quan điểm đạo đức,
tổ chức có nghĩa vụ phải đối xử công bằng giữa các bên liên quan.
Trong trường hợp, các bên liên quan xung đột lợi ích, DN phải có
nghĩa vụ đạt được sự cân bằng tối ưu giữa chúng. Từ quan điểm quản
trị, vai trò quan trọng của quản lý là để đánh giá tầm quan trọng, của
việc đáp ứng nhu cầu các bên liên quan để đạt được mục tiêu chiến
lược của DN. Do kỳ vọng và mối quan hệ quyền lực của các bên liên
quan thì luôn thay đổi theo thời gian, nên tổ chức phải liên tục điều
chỉnh các chiến lược điều hành và CBTT để đáp ứng nhu cầu của các
bên liên quan. Lý thuyết này được sử dụng để nghiên cứu, đánh giá
nhóm nhân tố áp lực từ phía các bên liên quan ảnh hưởng tới CBTT
(Hoàng Thị Bích Ngọc, 2017).
1.3. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ
LỢI NHUẬN TRÊN MỖI CỔ PHIẾU
1.3.1. Các nghiên cứu về ảnh hƣởng của nhân tố mức độ trì
hoãn công bố báo cáo tài chính
9
1.3.2. Các nghiên cứu về ảnh hƣởng của nhân tố đòn bẩy tài
chính
1.3.3. Các nghiên cứu về ảnh hƣởng của nhân tố khả năng
sinh lời
1.3.4. Các nghiên cứu về ảnh hƣởng của khả năng thanh
toán nhanh của doanh nghiệp
1.3.5. Các nghiên cứu về ảnh hƣởng của chủ thể kiểm toán
1.3.6. Các nghiên cứu về ảnh hƣởng của nhân tố thời gian
niêm yết của doanh nghiệp
1.3.7. Các nghiên cứu về ảnh hƣởng của nhân tố quy mô
doanh nghiệp
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
CHƢƠNG 2
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.1. XÂY DỰNG CÁC GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
2.1.1. Giả thuyết về mức độ trì hoãn công bố BCTC
H1 - Không có mối liên hệ giữa mức độ trì hoãn công bố BCTC
và mức độ CBTT về EPS trên BCTC của các DN.
2.1.2. Giả thuyết về đòn bẩy tài chính
H2 - DN có đòn bẩy tài chính càng lớn thì mức độ CBTT về EPS
trên BCTC càng cao
2.1.3. Giả thuyết về khả năng sinh lời
H3 - DN có khả năng sinh lời càng cao thì mức độ CBTT về EPS
trên BCTC càng cao
2.1.4. Giả thuyết về khả năng thanh toán nhanh
H4 - DN có khả năng thanh toán nhanh càng cao thì có mức độ
CBTT về EPS trên BCTC càng cao.
10
2.1.5. Giả thuyết về chủ thể kiểm toán
H5 - DN có BCTC được kiểm toán (soát xét) bởi chủ thể kiểm
toán nằm trong nhóm Big 4 thì sẽ có mức độ CBTT về EPS cao hơn.
2.1.6. Giả thuyết về thời gian niêm yết
H6 - DN niêm yết có thời gian niêm yết càng dài thì mức độ
CBTT về EPS càng cao.
2.1.7. Giả thuyết về quy mô
H7 - Các DN có quy mô càng lớn thì mức độ CBTT về EPS trên
BCTC càng cao.
2.2. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết lập mô hình nghiên cứu
ADi = β0 + β1 THi + β2 DBTCi + β3 KNSLi + β4 TTi + β5 KTi + β6
NYi + β7 QMi + ε
Mô hình này dùng để kiểm chứng sự ảnh hưởng của các nhân tố
đối với mức độ CBTT về EPS và lần lượt được kiểm định đối với các
biến tương ứng với BCTC năm (mô hình 1a), BCTC bán niên (mô
hình 1b), và BCTC quý 2 (mô hình 1c) của các CTNY tại Việt Nam
năm 2016.
Trong đó:
ADi : Mức độ CBTT tổng hợp trên BCTC của CTNYi,
(ADi = MDi + DDi)
MDi : Mức độ CBTT bắt buộc trên BCTC của CTNYi
DDi : Mức độ CBTT tùy ý trên BCTC của CTNYi
THi : Mức độ trì hoãn công bố BCTC của CTNYi
DBTCi : Đòn bẩy tài chính của CTNYi
KNSLi : Khả năng sinh lời của CTNYi
(Mô hình 1)
11
TTi : Khả năng thanh toán nhanh của CTNYi
KTi : Chủ thể kiểm toán thực hiện kiểm toán (soát xét)
BCTC của CTNYi
NYi : Thời gian niêm yết của CTNYi
QMi : Quy mô của CTNYi
β0; β1; β2; β3; β4; β5; β6; β7: là các hệ số hồi quy; là sai số ngẫu
nhiên
Hiện tại ở Việt Nam không có quy định bắt buộc về việc soát xét
các BCTC quý, nên mô hình 1c sẽ không có biến KT.
2.2.2. Đo lƣờng biến phụ thuộc
Bước 1. Xây dựng hệ thống các chỉ mục để đánh giá mức độ
công bố thông tin bắt buộc
Hệ thống chỉ mục được sử dụng để đánh giá mức độ CBTT về
EPS trong BCTC của các CTNY ở Việt Nam được tác giả thiết lập
căn cứ vào những quy định bắt buộc về CBTT quy định tại Thông tư
200/2014/TT-BTC (Bộ Tài chính, 2014) và Thông tư số
155/2015/TT-BTC (Bộ Tài chính, 2015) gồm có 19 chỉ mục.
Bước 2: Tính chỉ số về mức độ tuân thủ CBTT bắt buộc (MD)
Điểm số biểu thị mức độ CBTT về EPS của một BCTC (MDi)
được tính bằng tổng điểm đánh giá được của tất cả các mục tin được
công bố chia cho điểm tối đa của tất cả các mục tin cần phải khai báo
sau khi loại trừ các mục tin không liên quan đến từng BCTC. Như
vậy, chỉ số về mức độ tuân thủ CBTT về EPS trên từng BCTC được
xác định theo công thức sau:
∑
Trong đó MDi là mức độ CBTT bắt buộc trên BCTC tương ứng
(BCTC năm, BCTC giữa niên độ, hay BCTC quý 2), n là tổng số
12
mục nghiên cứu (19 mục tin), mNA là tổng số mục không liên quan,
và mdj là điểm số tuân thủ của mục thông tin thứ j (được đánh giá
bằng hoặc là bằng “0”, hoặc bằng “1”).
Bước 3: Tính chỉ số công bố thông tin tùy ý (DD)
Việc đo lường mức độ CBTT tùy ý (DDi) cũng được thực hiện
tương tự như việc xác định mức độ CBTT bắt buộc về EPS nhưng
với các điểm số tương ứng với mức độ chi tiết của thông tin được
công bố. Chỉ số về mức độ CBTT tùy ý về EPS trên từng BCTC
được xác định theo công thức sau:
∑
Trong đó DDi là mức độ CBTT tùy ý trên BCTC tương ứng
(BCTC năm, BCTC giữa niên độ, hay BCTC quý 2), n là tổng số
mục nghiên cứu, mNA là tổng số mục không liên quan, và ddj là mức
độ CBTT tùy ý của mục thông tin thứ j (được đánh giá bằng một
trong các giá trị “0”, “1”, “2”, hoặc “3”).
Bước 4: Tính chỉ số về mức độ CBTT tổng hợp về EPS (AD)
Chỉ số CBTT tổng hợp về EPS của một BCTC (ADi) là chỉ số
tổng hợp (cộng đại số) của hai chỉ số CBTT bắt buộc về EPS (MDi)
và CBTT tùy ý về EPS (DDi)
∑
2.2.3. Đo lƣờng biến độc lập
Các biến độc lập được đo lường như sau:
Mức độ trì hoãn của BCTC (TH): Đo bằng tỷ lệ của độ trễ thực
tế/độ trễ quy định. Độ trễ thực tế là số ngày từ khi kiểm toán ký báo
13
cáo kiểm toán đến ngày mà các sở giao dịch chứng khoán nhận được
BCTC
Đòn bẩy tài chính (DBTC): Đo bằng tỷ lệ của tổng nợ trên tổng
tài sản
Khả năng sinh lời (KNSL): Đo bằng tỷ lệ của tổng lợi nhuận sau
thuế trên vốn chủ sở hữu
Khả năng thanh toán nhanh (TT): Đo bằng tài sản ngắn hạn/nợ
ngắn hạn
Loại chủ thể kiểm toán thực hiện soát xét BCTC (KT): Chủ thể
kiểm toán BCTC có phải là một trong bốn công ty kiểm toán thuộc
nhóm Big 4 hay không, nếu đúng thì KT = 1, ngược lại thì KT = 0.
Thời gian niêm yết (NY): Số năm tính từ thời điểm CTNY lần
đầu
Quy mô của DN (QM): Đo bằng Logarith của tổng tài sản, Việc
đo lường này kế thừa nghiên cứu trước như của Nguyễn Hữu Cường
và Lê Thị Bảo Ngọc (2018)
2.3. MẪU NGHIÊN CỨU
Trong số 718 các CTNY trên hai SGDCK Hà Nội và Thành Phố
Hồ Chí Minh (tính đến thời điểm ngày 31/12/2016), có 200 CTNY
được lựa chọn để đo lường mức độ CBTT về EPS và kiểm chứng
ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT này. Trong đó, 100
CTNY trên SGDCK Hà Nội và 100 CTNY trên SGDCK Thành Phố
Hồ Chí Minh được chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ
thống.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
14
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ LỢI
NHUẬN TRÊN MỖI CỔ PHIẾU
3.1.1. Mức độ công bố thông tin bắt buộc
a) Mức độ công bố thông tin bắt buộc theo từng chỉ tiêu
b) Mức độ công bố thông tin bắt buộc tổng hợp
Giá trị trung bình mức độ CBTT bắt buộc trên BCTC năm là
75,1%. Điều này có nghĩa là đa số các CTNY đã công bố các thông
tin bắt buộc về EPS trong BCTC năm.
Ở BCTC bán niên năm 2016, giá trị trung bình của mức độ
CBTT bắt buộc thấp hơn 2,1% BCTC năm 2016 với giá trị là 73%.
Tuy nhiên, kết quả kiểm định t-test cho thấy sự chênh lệch này là
không có ý nghĩa thống kê (t-value = 1,794; sig = 0,074).
Trong 3 loại BCTC thì BCTC quý 2 có giá trị trung bình của
mức độ CBTT bắt buộc thấp nhất, thấp hơn 39% so với BCTC năm,
thấp hơn 36,9% so với BCTC bán niên. Mức độ CBTT bắt buộc ở
quý 2 thấp hơn rất nhiều so với BCTC năm (t-value = 17,81; sig <
0,001) và BCTC bán niên (t-value = 16,811; sig < 0,001) và đều có ý
nghĩa thống kê.
3.1.2. Mức độ công bố thông tin tùy ý
a) Mức độ công bố thông tin tùy ý theo từng chỉ tiêu
b) Mức độ công bố thông tin tùy ý tổng hợp
Giá trị trung bình của mức độ CBTT tùy ý ở BCTC năm cao
hơn mức độ CBTT ở BCTC bán niên (35,92% so với 35,83%), tuy
nhiên kết quả kiểm định t- test lại cho thấy sự chênh lệch này không
có ý nghĩa thống kê (sig = 0,921).
15
Giá trị trung bình mức độ CBTT tùy ý trên BCTC quý 2 năm
2016 là 23,33%, BCTC quý 2 có mức độ CBTT thấp hơn rất nhiều
so với BCTC năm (t-value = 9,703; sig <0,01) và BCTC bán niên (t-
value = 9,792; sig <0,01). Trong khi đó giá trị trung bình của mức độ
CBTT tuỳ ý về EPS cơ bản trên BCTC quý 2 chỉ đạt 1,197 tương
ứng với mức độ CBTT từ thấp đến trung bình. Tương tự, chỉ tiêu
EPS pha loãng có mức độ CBTT tuỳ ý trung bình tại BCTC bán niên
và BCTC quý 2 lần lượt là 1,618 (mức thấp); 0,768 (mức rất thấp).
3.1.3. Mức độ công bố thông tin tổng hợp
Mức độ CBTT tổng hợp của BCTC năm có giá trị trung bình là
1,1102; trong đó mức độ CBTT bắt buộc là 75,1% và mức độ CBTT
tùy ý là 35,92%. Có thể thấy mức độ CBTT tùy ý về EPS trên BCTC
năm còn khá thấp.
Tương tự, trên BCTC bán niên, mức độ CBTT bắt buộc là 0,73
và mức độ CBTT tùy ý là 0,3583 đã làm cho mức độ CBTT tổng hợp
về EPS thấp hơn 0,0216 so với BCTC năm. Tuy nhiên kết quả kiểm
định t- test lại cho thấy sự chênh lệch này không có ý nghĩa thống kê
(sig = 0,235).
Trong ba loại BCTC thì BCTC quý 2 có mức độ CBTT tổng hợp
về EPS là thấp nhất, giá trị trung bình chỉ đạt 0,5942; thấp hơn rất
nhiều so với BCTC năm và đều có ý nghĩa thống kê (t-value =
16,595; sig < 0,001) và BCTC bán niên (t-value = 15,890; sig<
0,001).
3.2. PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN MỨC
ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ LỢI NHUẬN TRÊN MỖI CỔ
PHIẾU
3.2.1. Đối với báo cáo tài chính năm 2016
a) Thống kê mô tả các biến độc lập
16
Bảng 3.10. Thống kê mô tả các biến độc lập trên BCTC năm 2016
Min Max Mean
Std.
Deviation
TH 0,0000 16,6000 0,5343 2,3223
DBTC 0,0004 5,9503 0,4870 0,4657
KNSL -1,5454 3,1354 0,1129 0,3090
TT 0,0000 1.194,0000 8,9700 84,5910
KT 0,0000 1,0000 0,2300 0,4218
NY 1,0000 16,0000 6,5800 3,1660
QM 10,3100 15,0000 11,9016 0,7599
b) Kiểm định các khiếm khuyết của mô hình
c) Đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng đến mức độ CBTT về
EPS trên BCTC năm 2016
Thực hiện hồi quy mô hình 1a theo phương pháp bình phương
bé nhất, cho thấy giá trị sig của mô hình là 0,008 nhỏ hơn 0,05 (α)
nên mô hình tồn tại với độ tin cậy 95%. Hệ số xác định điều chỉnh
(Adjusted R2) bằng 0,06, như vậy mô hình chỉ giải thích được 6% sự
biến động của mức độ CBTT về EPS trên BCTC năm 2016, còn lại
94% biến động của mức độ CBTT được giải thích bởi các nhân tố
khác ngoài mô hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ duy nhất biến
quy mô (QM) ảnh hưởng đến mức độ CBTT về EPS trong BCTC
năm, các biến độc lập còn lại đều không có ảnh hưởng đến mức độ
CBTT về EPS trên BCTC năm 2016.
3.2.2. Đối với báo cáo tài chính bán niên năm 2016
a) Thống kê mô tả các biến độc lập
17
Bảng 3.14. Thống kê mô tả các biến độc lập trên báo cáo tài chính
bán niên năm 2016
Min Max Mean
Std.
Deviation
TH 0,0000 3,000 0,3774 0,6120
DBTC 0,0083 7,910 0,6215 0,9550
KNSL -0,8461 2,734 0,0684 0,2368
TT 0,1089 88,920 3,0621 6,9398
KT 0,0000 1,000 0,2300 0,4218
NY 1,0000 16,000 6,5800 3,1660
QM 10,3300 14,970 11,8848 0,7356
b) Kiểm định các khiếm khuyết của mô hình
c) Đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng đến mức độ CBTT về
EPS trên BCTC bán niên 2016
Thực hiện hồi quy mô hình 1b theo phương pháp bình phương
bé nhất, giá trị sig của mô hình bằng 0,006 nên mô hình có nghĩa
thống kê. Với hệ số xác định điều chỉnh (Adjusted R2) bằng 0,063;
như vậy mô hình chỉ giải thích được 6,3% sự biến động của mức độ
CBTT về EPS trên CBTC bán niên, còn lại 93,7% được giải thích
bởi các biến ngoài mô hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ duy
nhất biến chủ thể kiểm toán (KT) có ảnh hưởng đến mức độ CBTT
về EPS trong BCTC bán niên, các biến độc lập còn lại đều không có
ảnh hưởng đến mức độ CBTT về EPS trên BCTC bán niên năm
2016.
3.2.3. Đối với báo cáo tài chính quý 2 năm 2016
a) Thống kê mô tả các biến độc lập
18
Bảng 3.18. Thống kê mô tả các biến độc lập trên báo cáo tài chính
quý 2 năm 2016
Min Max Mean
Std.
Deviation
TH 0,0000 5,8500 1,0735 0,5154
DBTC 0,0007 7,0581 0,5075 0,5272
KNSL -0,3340 1,3241 0,0403 0,1059
TT 0,1089 70,7938 3,1485 6,1037
NY 1,0000 16,0000 6,5800 3,1660
QM 10,3300 14,9700 11,8957 0,7397
b) Kiểm định các khiếm khuyết của mô hình
c) Đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng đến mức độ CBTT về
EPS trên BCTC quý 2 năm 2016
Thực hiện hồi quy mô hình 1c theo phương pháp bình phương
bé nhất, sig của mô hình bằng 0,011, nên mô hình có nghĩa thống kê.
Với hệ số xác định điều chỉnh (Adjusted R2) bằng 0,053; mô hình
chỉ giải thích được 5,3% sự biến động của mức độ CBTT về EPS
trên CBTC quý 2, còn lại 94,7% được giải thích bởi các biến ngoài
mô hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy biến mức độ trì hoãn (TH) và
biến khả năng sinh lời (KNSL) có ảnh hưởng đến mức độ CBTT về
EPS trong BCTC quý 2, các biến độc lập còn lại đều không có ảnh
hưởng đến mức độ CBTT về EPS trên BCTC quý 2 năm 2016.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
19
CHƢƠNG 4
HÀM Ý CHÍNH SÁCH VÀ KẾT LUẬN
4.1. HÀM Ý CHÍNH SÁCH
4.1.1. Đối với đơn vị công bố thông tin
Kết quả thống kê mô tả cho thấy chỉ số CBTT tổng hợp về EPS
trên các loại BCTC (quý 2, bán niên, và năm) cũng như mức độ
CBTT bắt buộc và tùy ý đều có sự chênh lệch khá lớn; mức độ
CBTT về EPS cơ bản và EPS pha loãng cũng rất khác biệt.
Để cải thiện mức độ CBTT về EPS. Thứ nhất, các DN phải trình
bày rõ ràng việc lập BCTC được tuân thủ theo chuẩn mực kế toán
VAS 30, VAS 27 chứ không phải tuyên bố chung chung là tuân thủ
theo chế độ kế toán DN, các chuẩn mực kế toán Việt Nam và các văn
bản pháp lý có liên quan (Nguyễn Hữu Cường, 2015).
Thứ hai, khi trình bày số liệu về EPS cơ bản hay pha loãng trên
báo cáo KQHĐKD thì cũng phải trình bày rõ hơn ở phần thuyết
minh BCTC, hay khi giải trình chỉ tiêu EPS trong thuyết minh BCTC
thì cũng phải trình bày số liệu cụ thể của chỉ tiêu này trên báo cáo
KQHĐKD. Thông qua khảo sát 200 CTNY, nghiên cứu này ghi nhận
được còn khá nhiều công ty chỉ trình bày chỉ tiêu EPS trên báo cáo
KQHĐKD hoặc thuyết minh BCTC mà không đồng thời trình bày
trên cả hai.
Thứ ba, đối với việc CBTT về EPS pha loãng, như đã phân tích
ở trên, phần lớn các CTNY không CBTT về chỉ tiêu này. Cần lưu ý
rằng, VAS 30 (đoạn 65) quy định DN có thể trình bày chung một số
liệu trên báo cáo KQHĐKD nếu EPS cơ bản và EPS pha loãng bằng
nhau.
20
Thứ tư, trong BCTC bán niên và BCTC quý, DN cần chú trọng
đến việc trình bày chỉ tiêu EPS. Không phải chỉ CBTT về chỉ tiêu
này trên BCTC năm, mà cần phải trình bày trên cả 3 loại BCTC
(theo quy định tại đoạn 64 của VAS 30) để người sử dụng biết được
tình hình biến động EPS qua từng kỳ báo cáo trong năm.
Thứ năm, khi CBTT về EPS ngoài việc phải trình bày trên báo
cáo KQHĐKD, DN cần nêu rõ cách thức tính tử số và mẫu số của
EPS trong bản thuyết minh BCTC. Ngoài ra có thể cung cấp thêm
thông tin so sánh cho người sử dụng BCTC.
4.1.2. Đối với nhà nƣớc
Để góp phần nâng cao mức độ CBTT về EPS trên BCTC, Nhà
nước và cơ quan quản lý nên hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng
dẫn về CBTT về EPS trên thị trường chứng khoán ngày càng rõ ràng,
cụ thể và phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế, đặc biệt là quy
định về việc trình bày EPS trong BCTC quý.
Mức độ CBTT tuỳ ý về EPS còn rất thấp so với mức độ CBTT
bắt buộc về EPS. Điều này có thể do bản chất của việc CBTT tuỳ ý
là không có quy định chi tiết về việc công bố nên các CTNY có thể
còn e ngại do không hiểu rõ hoặc không muốn công bố. Từ thực tế
như vậy, các cơ quan quản lý nên thường xuyên tổ chức các buổi tập
huấn về chính sách mới, các quy định mới về CBTT về EPS, cũng
như những lợi ích từ việc CBTT đến các CTNY để họ hiểu được
những quyền lợi khi CBTT về EPS kịp thời và các bất lợi khi chỉ
công bố thông tin theo kiểu hình thức, mang tính đối phó.
Trong khi các quy định hiện hành yêu cầu các CTNY phải công
bố cả hai loại EPS cơ bản và EPS pha loãng trên BCTC năm và
BCTC bán niên, thì kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ CBTT bắt
buộc về EPS còn thấp, đặc biệt là về EPS pha loãng. Điều này có thể
21
là do các chế tài xử phạt vi phạm CBTT của các CTNY vẫn chưa
được thực hiện nghiêm túc và đủ tính răng đe. Chính vì vậy cần phải
nâng cao tính hiệu quả giám sát, xử lý các sai phạm liên quan đến
việc CBTT về EPS trên thị trường chứng khoán.
4.1.3. Hàm ý từ sự ảnh hƣởng của chủ thể kiểm toán
Tuy rằng, kết quả nghiên cứu cho thấy chủ thể kiểm toán chỉ ảnh
hưởng đến mức độ CBTT về EPS trên BCTC bán niên, nhưng cũng
thấy được rằng khi BCTC được kiểm toán bởi các đơn vị kiểm toán
là những công ty lớn thì khả năng ảnh hưởng đến mức độ CBTT về
EPS trên BCTC cao hơn so với các công ty được chủ thể kiểm toán
nhỏ kiểm toán BCTC. Từ đó thấy được chất lượng kiểm toán của các
công ty kiểm toán cần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_nghien_cuu_ve_cong_bo_thong_tin_loi_nhuan_t.pdf