MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI VÔ Ý TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM6
1.1. Khái niệm, bản chất, điều kiện và các dạng lỗi vô ý 6
1.1.1. Khái niệm và bản chất của lỗi vô ý 6
1.1.2. Các điều kiện của lỗi vô ý 11
1.1.3. Các dạng của lỗi vô ý 13
1.2. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và sự kiện bất ngờ 20
1.2.1. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý 20
1.2.2. Phân biệt lỗi vô ý với sự kiện bất ngờ 21
1.3. Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm và hình phạt 23
1.3.1. Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm 23
1.3.2. Vai trò của lỗi vô ý với vấn đề hình phạt 26
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ LỖI VÔ Ý TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM30
2.1. Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam 30
2.1.1. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời
kỳ Nhà nước phong kiến (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945)30
2.1.2. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 198532
2.1.3. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam kể
từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 199935
2.2. Các quy định về lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự hiện hành 38
2.2.1. Trong Phần chung của Bộ luật hình sự hiện hành 39
2.2.2. Trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành 43
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong các quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý49
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý56
3.1. Khái quát chung về thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự hiện hành về lỗi vô ý từ năm 2005 đến 201056
3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về lỗi vô ý đối với các loại tội phạm cụ thể58
3.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người (Chương XII Bộ luật hình sự)58
3.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật
hình sự)64
3.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng (Chương XIX Bộ luật hình sự)66
3.2.4. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm trật tự quản lý hành chính
(Chương XX Bộ luật hình sự)75
3.2.5. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm về chức vụ được thực hiện do lỗi vô ý
(Chương XXI Bộ luật hình sự)76
3.2.6. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương
XXII Bộ luật hình sự)78
3.2.7. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội do lỗi vô ý xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân (Chương XXIII Bộ luật hình sự)80
3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng các quy định về tội vô ý theo Bộ luật hình sự hiện hành81
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
LỖI VÔ Ý VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG84
4.1. Các giải pháp hoàn thiện một số quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý84
4.1.1. Sự cần thiết và những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy
định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý84
4.1.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý89
4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý93
4.2.1. Tăng c-ờng công tác giải thích, h-ớng dẫn áp dụng pháp luật 93
4.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức
pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán
Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán Tòa án cấp huyện94
4.2.3. Tăng c-ờng sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lập pháp hình
sự với n-ớc ngoài98
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
PHỤ LỤC 109
12 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 640 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ,
toàn diện, có hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào
việc hoàn thiện pháp luật nói chung và vào công cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói riêng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học
luật hình sự, tội phạm học và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
cơ quan bảo vệ pháp luật,
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật
học, nghiên cứu hệ thống, toàn diện, đầy đủ về vấn đề về lỗi vô ý trong
luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là:
- Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật
hình sự Việt Nam;
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của
lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành;
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp
luật về lỗi vô ý; nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những
tồn tại trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như nguyên nhân của
những hạn chế, bất cập đó. Và trên cơ sở đó luận văn đề xuất các giải
pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu của áp dụng
pháp luật về lỗi vô ý.
7 8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt
Nam.
Chương 2: Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt
Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về lỗi vô ý.
Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý và nâng cao hiệu quả áp dụng.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI VÔ Ý
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, bản chất, điều kiện và các dạng lỗi vô ý
1.1.1. Khái niệm và bản chất của lỗi vô ý
Mặc dù còn tồn tại sự khác nhau nhất định về cách tiếp cận, tên gọi
của vấn đề, nhưng về cơ bản các các nhà khoa học đều thống nhất lỗi là
một yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, đó là sự kết hợp giữa yếu tố
lý trí và ý chí, trong đó, lý trí thể hiện khả năng nhận thức hoặc không
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, còn ý chí thể
hiện năng lực điều khiển hành vi hoặc kìm chế việc thực hiện hành vi đó
để thực hiện một xử sự khác không trái với lợi ích của xã hội.
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể (cá nhân) có năng lực trách nhiệm
hình sự, thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm và hậu quả do hành vi đó gây ra trong khi
họ có đủ điền kiện để lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội.
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý các yếu tố lý trí và ý chí của
con người, khoa học luật hình sự đã chia lỗi thành hai loại: lỗi cố ý và
lỗi vô ý.
Lỗi cố ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành
vi và khả năng gây ra hậu quả của hành vi, họ nhận thức rõ hành vi của
mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi
đó và mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Còn đối với lỗi vô ý để có thể đưa ra một nhận định, một cách hiểu
đúng về nó, cần phải làm rõ các yếu tố cấu thành nên lỗi vô ý:
- Yếu tố lý trí: là khi chủ thể không nhận thức được hoặc nhận thức
không đầy đủ đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi khi quyết định thực hiện hành vi, họ không thấy được khả năng xảy ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Yếu tố ý chí: chủ thể có điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi phù
hợp với quy định của pháp luật hình sự, nhưng chủ thể đã tự mình tước
bỏ điều kiện này và lựa chọn, thực hiện một hành vi khác – hành vi trái
pháp luật hình sự.
Từ những nhận định và phân tích trên đây, có thể đưa ra quan niệm
về lỗi vô ý như sau: Lỗi vô ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm
tội khi lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do không
nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong khi
có đủ điều kiện để nhận thức được.
1.1.2. Các điều kiện của lỗi vô ý
Các điều kiện để một người bị coi là có lỗi:
Thứ nhất, chủ thể phải có năng lực tự do – năng lực nhận thức được
đòi hỏi của xã hội và năng lực điều khiển được hành vi phù hợp với đòi
hỏi của xã hội. Đây chính là vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự. Chỉ
những chủ thể có năng lực tự do thì mới có thể có lỗi.
Thứ hai, chủ thể có năng lực tự do chỉ có thể có lỗi trong trường hợp
cụ thể khi có điều kiện phát huy năng lực đó – điều kiện cho phép chủ thể
trong trường hợp cụ thể biến năng lực tự do thành sự tự do thực sự.
9 10
Thứ ba, chủ thể không sử dụng năng lực tự do và điều kiện cho phép
trong trường hợp cụ thể để lựa chọn hành vi tự do mà đã lựa chọn hành
vi nguy hiểm cho xã hội – hành vi mất tự do.
Các điều kiện của lỗi vô ý:
Thứ nhất, chủ thể không nhận thức được đầy đủ các đặc điểm thể
hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Thứ hai, chủ thể phải có sự tin tưởng quá mức cần thiết hoặc sự cẩu
thả, thiếu thận trọng trong việc đánh giá hành vi.
1.1.3. Các dạng của lỗi vô ý
1.1.3.1. Lỗi vô ý vì quá tự tin
Lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho
rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
- Về lý trí: người phạm tội do vô ý vì quá tự tin trước khi lựa chọn,
thực hiện hành vi đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và nhận thức được khả năng có thể xảy ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội.
- Về ý chí: Người phạm tội do vô ý vì quá tự tin không mong muốn
hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là dấu hiệu
cơ bản để phân biệt giữa lỗi cố ý gián tiếp với lỗi vô ý vì quá tự tin.
1.1.3.2. Lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải
thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
- Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra.
- Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội có nghĩa vụ phải thấy trước và
có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Nhưng
người phạm tội đã không thấy vì cẩu thả, thiếu thận trọng trong khi lựa
chọn, thực hiện hành vi.
1.2. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và sự kiện bất ngờ
1.2.1. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý
Lỗi cố ý là hình thức lỗi, trong đó chủ thể lựa chọn và thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mặc dù đã ý thức (nhận thức) được các đặc
điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Ở lỗi vô ý,
người phạm tội không nhận thức được hoặc nhận thức không đầy đủ đặc
điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khi quyết định
thực hiện hành vi, không thấy được khả năng xảy ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa lỗi vô ý với lỗi cố ý, đối với
lỗi cố ý về mặt ý chí chủ thể nhận thức rõ được các đặc điểm thể hiện
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Về mặt lý trí của lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi cố ý gián tiếp nói riêng
và lỗi cố ý nói chung có sự giống nhau đó là đều thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Tuy nhiên, ở lỗi cỗ ý gián tiếp, khi lựa
chọn thực hiện hành vi phạm tội chủ thể thấy trước được hậu quả nguy
hiểm và đã chấp nhận khả năng hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra còn ở lỗi vô
ý vì quá tự tin, chủ thể cũng thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã
hội của hành vi nhưng đã loại trừ khả năng đó, cho rằng khả năng đó
không xảy ra hoặc sẽ ngăn ngừa được.
1.2.2. Phân biệt lỗi vô ý với sự kiện bất ngờ
Sự khác nhau trực diện cơ bản giữa lỗi vô ý và sự kiện bất ngờ đó là
sự khác nhau giữa việc gây hậu quả nguy hiểm trong trường hợp có lỗi
(lỗi vô ý) và gây hậu quả nguy hiểm trong trường hợp không có lỗi (sự
kiện bất ngờ).
Xét về bản chất của các hình thức lỗi vô ý trong đó có lỗi vô ý do
cẩu thả và sự kiện bất ngờ, bên cạnh những điểm giống nhau, giữa
chúng còn tồn tại những điểm khác nhau cơ bản. Lỗi vô ý do cẩu thả
giống với sự kiện bất ngờ ở chỗ: chủ thể thực hiện hành vi đều không
thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình
gây ra. Nhưng trong trường hợp vô ý do cẩu thả thì chủ thể không thấy
trước hậu quả nguy hiểm là do cẩu thả, còn trong sự kiện bất ngờ, chủ
11 12
thể không thấy trước hậu quả là do hoàn cảnh khách quan hoặc do khả
năng chủ quan.
1.3. Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm và hình phạt
1.3.1. Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm
1.3.1.1. Vai trò của lỗi vô ý trong việc xác định tội phạm
Vai trò của lỗi còn được nâng lên thành nguyên tắc luật định, đó
chính là nguyên tắc có lỗi. Có lỗi là cơ sở chủ quan để có thể buộc chủ
thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra. Nếu
không có lỗi thì chủ thể không phải chịu trách nhiệm hình sự, cho dù
hành vi đó đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong nhiều trường
hợp lỗi vô ý có vai trò trực tiếp xác định tội phạm, có nghĩa rằng lỗi vô ý
là một yếu tố không thể thiếu được trong cấu thành tội phạm đó, chỉ với
lỗi vô ý thì hành vi mới cấu thành tội phạm. Trong tổng số 272 cấu thành
tội phạm tại Bộ luật hình sự hiện hành, có 20 cấu thành tội phạm thể hiện
rõ dấu hiệu lỗi cố ý hay lỗi vô ý, trong đó có 8 cấu thành tội phạm được
mô tả là lỗi vô ý.
1.3.1.2. Vai trò định tội danh của lỗi vô ý
Quá trình định tội danh thường có ba giai đoạn, vai trò của lỗi vô ý
trong từng giai đoạn này là khác nhau:
- Đầu tiên, người tiến hành tố tụng phải làm sáng tỏ những dấu hiệu
đặc trưng nhất của hành vi. Khi đó, vấn đề tiên quyết cần phải trả lời đó
là: hành vi đang được xem xét có dấu hiệu tội phạm hay không? Vì vậy,
dấu hiệu lỗi trong giai đoạn này đóng một vai trò quan trọng, đối với
những hành vi thể hiện rõ ràng thái độ của người thực hiện là cố ý thì
chúng ta chuyển sang giai đoạn thứ hai. Còn lại, chúng ta phải xác định
rõ hành vi đó là cố ý hay vô ý, tránh nhầm lần giữa vô ý với không có lỗi,
giữa lỗi hình sự với lỗi hành chính, lỗi dân sự. Từ đó kết luận hành vi đó
có dấu hiệu của tội phạm hay chỉ là hành vi vi phạm pháp luật hành
chính, pháp luật dân sự.
- Nếu hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm thì trong giai đoạn thứ
hai, người tiến hành tố tụng phải xác định được hành vi thuộc loại tội nào
trong bộ luật hình sự. Xác định rõ tội phạm này là tội do lỗi cố ý hay vô ý.
- Trong giai đoạn thứ ba, người tiến hành tố tụng phải chỉ rõ cấu
thành tội phạm nào được áp dụng đối với hành vi đang xem xét: cấu
thành tội phạm cơ bản, tăng nặng hay đặc biệt tăng nặng của một điều
luật, xác định xem có hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra không? người
thực hiện hành vi cố ý hay vô ý gây ra hậu quả đó? Để từ đó xác định
đúng cấu thành tội phạm cần áp dụng.
1.3.2. Vai trò của lỗi vô ý với vấn đề hình phạt
1.3.2.1. Vai trò của lỗi vô ý trong việc quy định hình phạt
Vai trò của lỗi nói chung và của lỗi vô ý nói riêng đối với việc quy
định hình phạt thể hiện trước hết ở phương diện lỗi nói chung và lỗi vô ý
nói riêng, là cơ sở gián tiếp để quy định hình phạt trong luật hình sự, bởi
lẽ như đã trình bày ở phần 1.3.1.1 lỗi nói chung và lỗi vô ý nói riêng là
một yếu tố cấu thành tội phạm, tội phạm thì phải có lỗi, không có lỗi sẽ
không có tội phạm.
1.1.3.2. Vai trò của lỗi vô ý trong việc quyết định hình phạt
Nếu so sánh những hành vi phạm tội gây hậu quả giống nhau trong
điều kiện, hoàn cảnh như nhau thì hành vi được thực hiện do lỗi cố ý
thường được nhà làm luật quy định có tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội cao hơn hành vi do lỗi vô ý và hình phạt áp dụng đối với tội do lỗi
cố ý cũng nghiêm khắc hơn.
Các hình thức của lỗi vô ý cũng có vai trò trong việc quyết định hình
phạt công bằng, hợp lý và đúng pháp luật. Thực tiễn xét xử cho thấy,
trong các điều kiện giống nhau thì tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý vì
quá tự tin nguy hiểm hơn tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý do cẩu thả.
Và hình phạt áp dụng đối với tội do lỗi vô ý vì quá tự tin sẽ nặng hơn tội
do lỗi vô ý do cẩu thả.
13 14
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH VỀ LỖI VÔ Ý
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam
2.1.1. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam
thời kỳ Nhà nước phong kiến (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945)
Pháp luật hình sự thời kỳ này có đề cập đến hình thức lỗi vô ý nhưng
không nhắc đến khái niệm của nó và không quy định tội nào thực hiện
với lỗi vô ý mà chỉ quy định về sự phân hóa trách nhiệm hình sự và hình
phạt trong một số trường hợp phạm tội do lỗi vô ý, trong đó trách nhiệm
hình sự đối với tội do lỗi cố ý nặng hơn so với lỗi vô ý.
Tiếp đó là Bộ luật Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là Bộ luật Gia
Long. Giống như pháp luật hình sự nhà Lê, pháp luật hình sự nhà
Nguyễn cũng đề cập đến các loại tội với lỗi cố ý và vô ý, trách nhiệm
hình sự đối với các loại tội do lỗi cố ý được quy định nặng hơn đối với
các loại tội với lỗi vô ý.
2.1.2. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam
thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1985
Định nghĩa pháp lý về lỗi, lỗi vô ý chưa được chính thức ghi nhận
trong văn bản luật hình sự. Các quy định liên quan đến lỗi vô ý không
được tập hợp một cách thống nhất, chúng nằm rải rác ở các văn bản pháp
luật khác nhau, thậm chí cả ở văn bản pháp luật phi hình sự. Đáng chú ý
là trong báo cáo tổng kết có tính chất hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ
của ngành Tòa án đã có sự phân biệt vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả.
2.1.3. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam
kể từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1999
Định nghĩa pháp lý của các hình thức lỗi vô ý lần đầu tiên được
chính thức ghi nhận tại Điều 10 Bộ luật hình sự năm 1985. Và với hơn 20
điều luật về tội phạm do lỗi vô ý ở Phần các tội phạm, Bộ luật hình sự
năm 1985 đã phần nào thể hiện được một cách hệ thống các tội do lỗi vô
ý cần được điều chỉnh tại thời điểm lúc bấy giờ.
2.2. Các quy định về lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự hiện hành
2.2.1. Trong Phần chung của Bộ luật hình sự hiện hành
Trước tiên các hình thức lỗi vô ý được quy định tại Điều 10 Bộ luật
hình sự hiện hành. Theo đó, căn cứ vào yếu tố lý trí và ý chí, lỗi vô ý
được chia thành hai hình thức lỗi vô ý vì quá tự tin (Khoản 1 Điều 10) và
lỗi vô ý do cẩu thả (Khoản 2 Điều 10).
Ngoài ra, lỗi vô ý còn được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp ở các
điều luật khác tại Phần chung của Bộ luật hình sự như: khái niệm tội
phạm (Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự); tuổi chịu trách nhiệm hình sự
(Khoản 2 Điều 12); tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Khoản 1 Điều 49);
giai đoạn phạm tội (Điều 17); đồng phạm (Khoản 1 Điều 20); không tố
giác tội phạm (Khoản 1 Điều 22);
2.2.2. Trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành
Thứ nhất, trong tổng số 24 chương trong phần các tội phạm của Bộ
luật hình sự, chỉ có 7 chương quy định các tội phạm thực hiện bằng lỗi
vô ý. Trong tổng số 272 điều luật về tội phạm thì cũng chỉ có 51 điều luật
quy định tội phạm vô ý, chiếm tỷ lệ 18,8%.
Thứ hai, tỷ lệ số khung hình phạt của tội phạm được thực hiện do lỗi
vô ý trên tổng số khung hình phạt trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình
sự chiếm tỷ lệ thấp là 20,4%, cao nhất vẫn là chương XIX quy định các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (chiếm 55,6% của chương đó).
Thứ ba, nhìn chung Bộ luật hình sự hiện hành đã có những bước
phát triển đáng kể về mặt lập pháp so với Bộ luật hình sự năm 1985 khi
xây dựng các quy phạm có liên quan đến lỗi vô ý.
Thứ tư, đa số cấu thành tội phạm cơ bản của các tội do lỗi vô ý trong
Bộ luật hình sự hiện hành đều được xây dựng dưới dạng cấu thành tội
phạm vật chất.
Thứ năm, các tội do lỗi vô ý trong Phần các tội phạm của Bộ luật
hình sự quy định về dấu hiệu lỗi vô ý dưới nhiều cách thức khác nhau.
15 16
Thứ sáu, hậu quả nguy hiểm cho xã hội được nêu trong tội do lỗi cố
ý thường thấp hơn hậu quả được nêu trong tội do lỗi vô ý.
Thứ bảy, dấu hiệu lỗi vô ý không những được thể hiện ở cấu thành
tội phạm cơ bản mà nó còn được quy định trong các cấu thành tội phạm
tăng nặng hoặc đặc biệt tăng nặng trách nhiệm hình sự và khoa học luật
hình sự gọi là “hỗn hợp lỗi”.
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong các quy định của Bộ luật hình
sự hiện hành về lỗi vô ý
Thứ nhất, hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự là mới chỉ đề cập đến
khái niệm của các hình thức lỗi vô ý mà chưa quy định được khái niệm
chung về lỗi vô ý. Và quy định này cũng chỉ dừng lại ở việc mô tả các
cấu trúc tâm lý của những trường hợp có lỗi vô ý mà không nêu được bản
chất chung của chúng.
Thứ hai, Phần chung Bộ luật hình sự không có quy phạm nào khẳng
định rứt khoát về nguyên tắc phải có dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội
phạm được quy định trực tiếp trong Bộ luật hình sự thì hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện do lỗi vô ý tương ứng với các điều luật
đó mới bị coi là tội phạm.
Thứ ba, số lượng điều luật trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự
có quy định trực tiếp, rõ ràng dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm
là không nhiều.
Thứ tư, Bộ luật hình sự hiện hành đang tồn tại tình trạng quy định
ghép hai hình thức lỗi khác nhau vào trong một cấu thành tội phạm cơ
bản của cùng một điều luật, cùng một khung hình phạt.
Thứ năm, việc mô tả dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm của
Bộ luật hình sự còn chung chung, không rõ ràng, không thống nhất theo
một hình thức nhất định.
Thứ sáu, một số tội danh do lỗi vô ý trong Phần các tội phạm đang
có sự nhầm lẫn trong việc quy định dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Cụ thể, trong vài trường hợp, dấu hiệu hậu quả của tội do lỗi vô ý lại
được quy định với mức cao hơn dấu hiệu hậu quả của tội do lỗi cố ý.
Thứ bảy, Bộ luật hình sự chưa có khái niệm “hỗn hợp lỗi”.
Thứ tám, có những tội danh nhà làm luật chỉ quy định về hành vi
được thực hiện đối với lỗi cố ý mà không quy định về lỗi vô ý.
Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý
3.1. Khái quát chung về thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ
luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý từ năm 2005 đến 2010
Về tổng số vụ án do lỗi vô ý được xét xử: trong sáu năm trở lại đây
(2005 – 2010) tội phạm do lỗi vô ý được phát hiện và đưa ra xét xử
chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số vụ án được đưa ra xét xử (chỉ chiếm
khoảng 9,53%) và có xu hướng giảm dần nhưng không nhiều (năm 2005
có 5573 vụ, năm 2010 có 5513 vụ).
Về cấu trúc các loại tội phạm do vô ý bị đưa ra xét xử: chiếm đa số
trong tổng các vụ án về tội do lỗi vô ý được đưa ra xét xử trong sáu năm
vừa qua (2005 – 2010) là tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ (Điều 202) - chiếm 94,61%, tiếp đó là tội vô ý làm
chết người (Điều 98) - chiếm 1,43%, tội vi phạm quy định về điểu khiển
phương tiện giao thông đường thủy (Điều 212) - chiếm 1,32%, còn lại
các tội vô ý khác chỉ chiếm 2,64%.
Đối với việc chứng minh lỗi vô ý trong vụ án hình sự, trong thực
tiễn điều tra, truy tố, xét xử thường xảy ra nhầm lẫn giữa lỗi vô ý vì quá
tự tin với lỗi vô ý do cẩu thả dẫn đến việc không thấy được tính nguy
hiểm ở mức cao hơn do lỗi vô ý vì quá tự tin; nhầm lẫn giữa lỗi vô ý vì
quá tự tin với lỗi cố ý gián tiếp dẫn đến việc định tội danh sai giữa tội
do lỗi vô ý và tội do lỗi cố ý; hoặc nhầm lẫn giữa lỗi vô ý với trường
hợp không có lỗi dẫn đến việc định tội danh oan cho người thực hiện
hành vi.
17 18
3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về lỗi vô ý đối với các loại tội phạm cụ thể
3.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về các tội vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con người (Chương XII Bộ luật hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì tổng
số vụ án đưa ra xét xử về các tội vô ý trong Chương XII Bộ luật hình sự
là 632 vụ (chiếm tỷ lệ 0,17%) và tổng số bị cáo là 722 bị cáo (chiếm tỷ lệ
0,11%). Tỷ lệ này cao nhất vào năm 2010 với 0,21% số vụ án và 0,14% số
bị cáo. Trong đó, số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử về tội vô ý làm
chết người (Điều 98) là nhiều nhất, có 502 vụ và 584 bị cáo, đã xét xử 420
vụ và 481 bị cáo, trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát là 56 vụ và 72 bị cáo.
Việc định tội danh của loại tội này thường có một số sự nhầm lẫn:
Thứ nhất, nhầm lẫn giữa tội vô ý làm chết người với các tội gây hậu
quả chết người nhưng lại vi phạm các quy tắc an toàn trong một số lĩnh
vực cụ thể khác.
Thứ hai, nhầm lẫn giữa tội vô ý làm chết người với tội do lỗi cố ý có
cấu thành tội phạm tặng nặng với tình tiết “làm chết người”.
3.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về các tội phạm vô ý xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật
hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì tổng
số vụ án đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong Chương XIV Bộ luật hình
sự là 90 vụ (chiếm tỷ lệ 0,02%) và tổng số bị cáo là 177 bị cáo (chiếm tỷ
lệ 0,03%). Số lượng vụ án cao nhất là năm 2006 với 23 vụ và 45 bị cáo,
thấp nhất là năm 2007 với 9 vụ và 13 bị cáo. Trong đó, số vụ án và số bị
cáo được đưa ra xét xử về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm
trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144) là nhiều nhất, gồm 58 vụ,
chiếm 64,44%, đã xét xử 33 vụ và 62 bị cáo, trả lại hồ sơ cho Viện kiểm
sát là 18 vụ và 52 bị cáo.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước còn tồn tại, đó là: người thực
hiện hành vi đã làm hết trách nhiệm nhưng thiệt hại về tài sản vẫn xảy ra,
khi đó họ vẫn bị coi là phạm tội này.
3.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về các tội phạm vô ý xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng (Chương XIX Bộ luật hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử trong
giai đoạn năm 2005 - 2010, thì tổng số vụ án đưa ra xét xử về tội do lỗi
vô ý trong Chương XIX Bộ luật hình sự là 34326 vụ (chiếm tỷ lệ 9,31%)
và tổng số bị cáo là 35891 bị cáo (chiếm tỷ lệ 5,65%). Tỷ lệ này cao nhất
vào năm 2007 với 10,12% số vụ án và 6,23% số bị cáo. Trong đó số vụ
án và số bị cáo được đưa ra xét xử về tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202) là nhiều nhất, gồm 33245
vụ, chiếm 96,85%. Ngược lại, trong sáu năm qua, một số tội quy định tại
Điều 209, 216, 218, 226, 228, 237 không được áp dụng để xét xử một
hành vi khách quan nào. Hoặc có những điều luật có thực tiễn xét xử
nhưng nhất rất ít như: Điều 219 được áp dụng một lần vào năm 2006;
Điều 222, 234 được áp dụng một lần vào năm 2005, Điều 239 được áp
dụng hai lần vào năm 2008; Từ đó cho thấy thực tiễn áp dụng pháp
luật các tội do lỗi vô ý tại chương này không đều.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hay có sự nhầm lẫn giữa dấu hiệu
của cấu thành tội phạm cơ bản tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự của loại tội này, nhầm lẫn giữa vi phạm pháp luật hành chính với vi
phạm pháp luật hình sự, nhầm lẫn giữa lỗi hành chính với lỗi hình sự.
Ngoài ra, trong thực tiễn áp dụng còn tồn tại trường hợp “lỗi từ hai
phía”- là khi xuất hiện hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng, nhưng hậu quả này xảy ra có một phần lỗi của
người bị hại.
19 20
3.2.4. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về các tội phạm vô ý xâm phạm trật tự quản lý hành chính
(Chương XX Bộ luật hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử từ năm
2005 đến 2010 chỉ có 1 vụ án (chiếm tỷ lệ 0,0003%) và 1 bị cáo (chiếm
tỷ lệ 0,0002%) được đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong Chương XX
Bộ luật hình sự (rất ít so với các Chương khác). Đó là vụ án được đưa ra
xét xử với tội danh: vô ý làm lộ bí mật Nhà nước (Điều 264), chiếm tỷ lệ
0,0016% trên tổng số vụ án của năm 2007. Vụ án này đã được xét xử và
không bị trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát.
3.2.5. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về các tội phạm về chức vụ được thực hiện do lỗi vô ý (Chương
XXI Bộ luật hình sự)
Tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì có 124 vụ
án (chiếm tỷ lệ 0,034%) và 321 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,051%) được đưa ra
xét
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lhs_nguyen_thi_lan_anh_nhung_van_de_ly_luan_va_thuc_tien_ve_loi_vo_y_trong_luat_hinh_su_viet_nam_139.pdf