Yếu tố điều kiện kinh tế Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc Vùng Kinh tế
Trọng điểm Bắc Bộ1 , phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc và Tuyên Quang, Phía
Tây giáp Phú Thọ, phía Đông và phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Vĩnh
Phúc có 9 đơn vị hành chính bao gồm: Thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Phúc Yên, các huyện Bình Xuyên, Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Tam
Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc. Tỉnh có diện tích tự nhiên 1.231,76 km2 , dân số
trung bình năm 2009 (theo tổng điều tra 01/4/2009) là 1.003,0 ngàn người,
năm 2010 là 1.010,4 nghìn người, mật độ dân số 820 người/km2 . Tỉnh lỵ của
Vĩnh Phúc là Thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50km và9
cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km.Vĩnh Phúc nằm trên Quốc lộ số 2 và
tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai, là cầu nối giữa vùng Trung du miền núi
phía Bắc với Thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua
đường quốc lộ số 5 thông với cảng Hải Phòng và trục đường 18 thông với
cảng nước sâu Cái Lân. Vĩnh Phúc có vị trí quan trọng đối vùng KTTĐ Bắc
Bộ, đặc biệt đối với Thủ đô Hà Nội: Kinh tế Vĩnh Phúc phát triển sẽ góp phần
cùng Thủ đô Hà Nội thúc đẩy tiến trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp,
giải quyết việc làm, giảm sức ép về đất đai, dân số, các nhu cầu về xã hội, du
lịch, dịch vụ của thủ đô Hà Nội. 1 Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc bao gồm
các tỉnh, Thành phố: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương,
Hải Phòng, Quảng Ninh
22 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/02/2022 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực tiễn tại tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổn định: Các nguyên nhân gây ra rủi ro
rất nhiều nên nhu cầu bảo hiểm xã hội của các thành viên trong xã hội cũng
rất đa dạng. - Cụ thể hóa “công bằng xã hội”: Đặc điểm “hưởng thụ theo đóng
góp” trong luật bảo hiểm xã hội chính là sự cụ thể hóa “công bằng xã hội”
bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống. “Hưởng thụ theo đóng góp” trong
bảo hiểm xã hội không hoàn toàn giống nhau như áp dụng “phân phối theo
lao động” trong luật lao động. 6
1.2. Pháp luật về bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội Pháp luật về BHXH là
hệ thống các quy tắc xử sự chứa đựng trong Hiến pháp, luật và các văn bản
dưới luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, quy định các chế
độ, chính sách BHXH, quyền và trách nhiệm của NLĐ, của cơ quan, tổ chức
7
và cá nhân tham gia BHXH, tổ chức BHXH, quỹ BHXH, thủ tục thực hiện
BHXH và quản lý nhà nước về BHXH.
1.2.2. Vai trò của pháp luật về bảo hiểm xã hội Thứ nhất, pháp luật
BHXH tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động BHXH. Thứ hai, pháp luật về
BHXH ra đời góp phần ổn định cuộc sống người lao động tham gia BHXH.
Thứ ba, pháp luật về BHXH tạo cơ hội để thực hiện trách nhiệm trợ giúp khó
khăn cho các thành viên trong xã hội. Thứ tư, pháp luật về BHXH tạo điều
kiện để người sử dụng lao động thể hiện trách nhiệm đối với người lao động.
Thứ năm, pháp luật về BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
1.2.3. Chủ thể pháp luật bảo hiểm xã hội
1.2.3.1. Người lao động, đại diện tập thể lao động và người sử dụng lao
động, đại diện người sử dụng lao động Trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, các
chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội là người lao động và người sử dụng lao
động. Trong đó, người lao động bao gồm công nhân trong các doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, cán bộ công chức, viên chức nhà nước thuộc
các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Trong các quan hệ pháp luật về
BHXH, đại diện tập thể lao động và đại diện người sử dụng lao động cũng có
thể tham gia khi cần thể hiện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao
động hay người sử dụng lao động. 7
1.2.3.2. Cơ quan bảo hiểm xã hội Ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam
được chính thức ra đời ngày 16/2/1995, đến nay đã gần 30 năm, vinh dự được
Đảng và Nhà nước giao trọng trách tổ chức thực hiện những chính sách trụ
cột chính của hệ thống an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội là một trong những
chính sách an sinh xã hội đặc biệt quan trọng. Chính sách BHXH là tiêu chí
của tiến bộ, bình đẳng và công bằng xã hội, là một trong những nhân tố cơ
bản thể hiện sự văn minh và phát triển của quốc gia.
1.2.4. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội
1.2.4.1. Các chế độ bảo hiểm xã hội Ở nước ta hiện nay, có hai loại
hình BHXH cơ bản: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện: BHXH bắt buộc là
8
loại hình BHXH mà NLĐ và người SDLĐ bắt buộc phải tham gia; BHXH tự
nguyện là loại hình BHXH mà NLĐ tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức
đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH.
1.2.4.2. Quỹ bảo hiểm xã hội Thu được coi là nguồn công tác trọng tâm để
hình thành quỹ BHXH, thực hiện tốt công tác thu sẽ đảm bào việc thực hiện
pháp luật BHXH được triệt để. Quỹ bảo hiểm xã hội hình thành và hoạt động
tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với
tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai
chiều không 23 gian và thời gian.
1.2.4.3. Thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật về bảo hiểm
xã hội Trong đời sống kinh tế - xã hội các quy định của pháp luật thường
được các chủ thể pháp luật nghiêm chỉnh thực hiện. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn có các chủ thể bất chấp các quy
định của pháp luật dẫn đến sự vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật là hành
vi của các cá nhân hoặc tổ chức cụ thể, được thể hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BHXH TẠI TỈNH
VĨNH PHÚC
2.1. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tại
tỉnh Vĩnh Phúc
2.1.1. Yếu tố điều kiện kinh tế Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc Vùng Kinh tế
Trọng điểm Bắc Bộ1 , phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc và Tuyên Quang, Phía
Tây giáp Phú Thọ, phía Đông và phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Vĩnh
Phúc có 9 đơn vị hành chính bao gồm: Thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Phúc Yên, các huyện Bình Xuyên, Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Tam
Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc. Tỉnh có diện tích tự nhiên 1.231,76 km2 , dân số
trung bình năm 2009 (theo tổng điều tra 01/4/2009) là 1.003,0 ngàn người,
năm 2010 là 1.010,4 nghìn người, mật độ dân số 820 người/km2 . Tỉnh lỵ của
Vĩnh Phúc là Thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50km và
9
cách sân bay quốc tế Nội Bài 25km.Vĩnh Phúc nằm trên Quốc lộ số 2 và
tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai, là cầu nối giữa vùng Trung du miền núi
phía Bắc với Thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua
đường quốc lộ số 5 thông với cảng Hải Phòng và trục đường 18 thông với
cảng nước sâu Cái Lân. Vĩnh Phúc có vị trí quan trọng đối vùng KTTĐ Bắc
Bộ, đặc biệt đối với Thủ đô Hà Nội: Kinh tế Vĩnh Phúc phát triển sẽ góp phần
cùng Thủ đô Hà Nội thúc đẩy tiến trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp,
giải quyết việc làm, giảm sức ép về đất đai, dân số, các nhu cầu về xã hội, du
lịch, dịch vụ của thủ đô Hà Nội. 1 Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc bao gồm
các tỉnh, Thành phố: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương,
Hải Phòng, Quảng Ninh 9
2.2. Các cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.1. Tổ chức các cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh Vĩnh Phúc Ngành Bảo
hiểm xã hội Việt Nam được chính thức ra đời ngày 16/2/1995, đến nay đã gần
30 năm, vinh dự được Đảng và Nhà nước giao trọng trách tổ chức thực hiện
những chính sách trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. Cơ quan BHXH
được tổ chức theo Nghị định số 94/2008/NĐCP của Chính phủ ngày
22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của BHXH Việt Nam; Quyết định số 4857/QĐ-BHXH ngày 21/10/2008
của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội địa phương. 2.2.2.
BHXH tỉnh Vĩnh Phúc BHXH tỉnh Vĩnh Phúc là cơ quan trực thuộc Bảo hiểm
xã hội Việt Nam, có chức năng giúp Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tổ
chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội
tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm y tế tự;
quản lý quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh theo quy định
của BHXH Việt Nam và quy định của pháp luật. BHXH tỉnh Vĩnh Phúc chịu
sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam và chịu
sự quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc. Bảo hiểm xã hội tỉnh có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ
10
sở riêng. 2.3. Thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tại tỉnh Vĩnh Phúc
2.3.1. Thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội
2.3.1.1. Công tác cấp sổ BHXH, thẻ BHYT trên địa bàn giai đoạn
2014-2018 Thực hiện cấp sổ BHXH: Sổ BHXH là cơ sở pháp lý để giải quyết
các chế độ BHXH, vì thế công tác cấp sổ BHXH luôn được cơ quan BHXH
tỉnh quan tâm thực hiện.
2.3.1.2. Thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc 10 a) Chế độ
ốm đau, thai sản b) Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp c) Hưu trí d) Tử tuất
2.3.2. Thực hiện các quy định về quỹ bảo hiểm xã hội Khi công tác quản lý
thu, quản lý chi được đảm bảo thực hiện tốt thì sẽ đảm bảo được sự cân đối
quỹ. Cho nên công tác quản lý thu, chi rất quan trọng và luôn được BHXH
tỉnh đặt lên hàng đầu. Trong những năm qua, quỹ BHXH của tỉnh Vĩnh Phúc,
luôn được quản lý chặt chẽ, công khai và minh bạch. Các chính sách, chế độ
được hạch toán và quyết toán đúng, đủ, kịp thời, không xảy ra sai sót, thất
thoát..
2.3.3. Thực hiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm
pháp luật về bảo hiểm xã hội Công tác kiểm tra, giám sát luôn được BHXH
tỉnh Vĩnh Phúc chú trọng trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật BHXH.
Mặc dù mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH đã được tăng
lên theo quy định tại Nghị định số 86/2010/NĐ-CP, song thực tế mức xử phạt
này vẫn còn quá thấp, không đủ sức răn đe đối với những doanh nghiệp vi
phạm. Các hành vi vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH đã được
quy định khá rõ và cụ thể trong Luật và các văn bản hướng dẫn. Điều này đã
giúp cho các bên tham gia BHXH tránh được những sai sót trong quá trình
thực hiện, đồng thời giúp cho quá trình kiểm tra, thanh tra được dễ dàng,
thuận tiện.
2.4. Đánh giá chung về pháp luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn tỉnh Vĩnh
Phúc
2.4.1. Những ưu điểm của pháp luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thực
hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc Qua 5 năm triển khai pháp luật BHXH trên
11
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, có thể khẳng định rằng pháp luật bảo hiểm xã hội có
vai trò 11 quan trọng đối với người lao động nói riêng và xã hội nói chung,
thể hiện những ưu điểm nhất định.
2.4.1.1. Pháp luật BHXH tích cực góp phần đảm bảo an sinh xã hội Đối
tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng, cùng với đó là số người
tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH ngày càng tăng trên cả 3 loại hình
BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHTN. Số thu quỹ BHXH, BHTN
năm sau cao hơn năm trước. Đối với BHTN, là chính sách mới áp dụng từ đầu
năm 2009, nhưng số người tham gia và thụ hưởng chính sách này tăng rất
nhanh.
2.4.1.2. Các thủ tục BHXH ngày càng hoàn thiện, thuận tiện, dễ áp
dụng Các quy định về giải quyết và chi trả các chế độ BHXH, BHTN cho
NLĐ được triển khai khá đầy đủ, kịp thời, chính xác đúng quy định của pháp
luật, ít xảy ra sai sót; việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết và chi trả các chế độ
BHXH, BHTN được BHXH tỉnh áp dụng theo mô hình một cửa, thường
xuyên rà soát giảm các thủ tục hành chính và ứng dụng tốt các trương trình
công nghệ thông tin, rút ngắn thời gian nên được NSDLĐ, NLĐ đồng tình
hưởng ứng. 2.4.1.3. Pháp luật BHXH quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan quản lý nhà nước trong BHXH, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản
lý Pháp luật BHXH đã quy định nhiệm, vụ quyền hạn của các cơ quan quản lý
nhà nước trong BHXH, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan thực hiện quản lý
nhà nước trong lĩnh vực này. Công tác quản lý nhà nước về pháp luật BHXH
trong tỉnh được tăng cường, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản quản lý,
chỉ đạo thực hiện chế độ, chính sách pháp luật BHXH; sự phối hợp giữa cơ
quan BHXH với Sở LĐ-TB&XH và các ngành, các cấp ngày càng chặt chẽ,
thường xuyên và đồng bộ hơn. 12
2.4.2. Những hạn chế của pháp luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn tỉnh
Vĩnh Phúc
2.4.2.1. Pháp luật về BHXH còn chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thực
tế Các văn bản pháp luật về BHXH còn chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thực
12
tế, chậm được triển khai hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý thu BHXH
trong giai đoạn hiện tại. Cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, hiện tại Luật
BHXH, BHYT và các văn bản hướng dẫn Luật BHXH, BHYT chưa quy định
cụ thể vấn đề quản lý nợ BHXH, BHYT là nguyên nhân quan trọng dẫn đến
tình trạng nợ.
2.4.2.2. Hạn chế trong các quy định về các chế độ bảo hiểm xã hội a)
Hạn chế trong các quy định về chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc Thứ nhất,
pháp luật BHXH chưa có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc đóng, nộp BHXH..
Thứ hai, các quy định về chế tài và thẩm quyền xử lý vi phạm về BHXH chưa
hoàn toàn hợp lý. b) Hạn chế trong các quy định về chế độ bảo hiểm xã hội tự
nguyện Theo Luật Bảo hiểm xã hội, từ ngày 1/1/2018, người tham gia bảo
hiểm xã hội (BHXH) tự nguyện được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng gồm: 30%
với người nghèo, dân tộc thiểu số; 25% với người cận nghèo và 10% với đối
tượng khác. Tuy nhiên, mức hỗ trợ này được cho là chưa đủ hấp dẫn, khuyến
khích người lao động tham gia. Khác với bảo hiểm thương mại và BHXH bắt
buộc, BHXH tự nguyện là một chính sách an sinh xã hội nhằm khuyến khích
sự tham gia và hưởng lợi của người lao động khu vực phi chính thức. Đây là
một chính sách ưu việt và nhân văn, nhưng đến nay số người tham gia vẫn
còn hạn chế. Tuy nhiên, có thể thấy, so với chế độ BHXH bắt buộc có tới 5
chế độ, người tham gia BHXH tự nguyện 2019 được hưởng ít quyền 13 lợi
hơn, bởi không có chế độ ốm đau, thai sản, bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao
động. Sự khác biệt này tạo ra chênh lệch trong việc đóng - hưởng và giảm
tính hấp dẫn của BHXH tự nguyện. Trong khi mức hỗ trợ của Nhà nước cũng
chưa thực sự cao để thu hút hơn nữa người lao động tham gia. 2.4.2.3. Hạn
chế trong các quy định về quỹ bảo hiểm xã hội - Pháp luật BHXH chưa có cơ
chế quản lý quỹ BHXH một cách chặt chẽ nên tạo ra các kẽ hở cho việc phát
sinh các vi phạm liên quan đến quỹ BHXH. - Pháp luật BHXH chưa quy định
hợp lý về địa điểm chi trả các chế độ BHXH. Hiện nay, các chế độ BHXH
hàng tháng được quy định chi trả tại nơi có hộ khẩu thường trú. Tuy nhiên,
nhiều người làm việc hoặc sinh sống xa nơi đăng ký hộ khẩu thường trú.
Những người này gặp khó khăn trong việc nhận trợ cấp đồng thời cơ quan
13
BHXH cũng khó khăn trong việc theo dõi, quản lý, chi BHXH cho các đối
tượng. 2.4.2.4. Hạn chế trong các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi
phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội - Pháp luật về BHXH quy định về thẩm
quyền xử phạt vi phạm chưa hợp lý như trên đã nêu, thêm vào đó cán bộ
ngành BHXH hạn chế về số lượng, do đó công tác thanh tra, kiểm tra về
BHXH gặp nhiều khó khăn. - Quy định cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý
nhà nước về BHXH, cơ quan BHXH và Công đoàn thiếu chặt chẽ khiến việc
xử lý các vi phạm chậm, thiếu tính răn đe, thiếu kiên quyết, dẫn đến tình trạng
vi phạm pháp luật BHXH trở nên phức tạp, dây dưa, kéo dài, tình trạng doanh
nghiệp trốn đóng, nợ đọng tiền BHXH kéo dài. Cơ quan BHXH đã nhiều lần
báo cáo nhưng chưa được UBND các cấp quan tâm chỉ đạo, xử lý cụ thể.
Nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật BHXH nhưng vẫn được xét khen
thưởng, tôn vinh. 14 2.4.2.5. Hạn chế trong quy định về tuyên truyền, phổ
biến, tập huấn pháp luật BHXH - Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật BHXH triển khai chưa thực sự chuyên sâu, hình thức, biện pháp
tuyên truyền chưa đa dạng và chưa được tổ chức thường xuyên, vì vậy, nhận
thức của các đối tượng tham gia pháp luật bảo hiểm xã hội về quyền lợi và
nghĩa vụ BHXH không đầy đủ. Ý thức tuân thủ pháp luật BHXH của cả NLĐ
và NSDLĐ chưa cao. - Công tác tập huấn pháp luật BHXH cho viên chức
BHXH chưa được chú trọng 2.4.2.6. Hạn chế trong quy định về phát triển đối
tượng tham gia BHXH Pháp luật BHXH chưa quy định trách nhiệm của cơ
quan quản lý nhà nước về BHXH có kế hoạch phát triển đối tượng tham gia
BHXH. Trong thực tiễn, sự lơ là thể hiện khá rõ. BHXH tỉnh chưa có kế
hoạch chi tiết trong việc phát triển đối tượng tham gia BHXH. Với công tác
tuyên truyền trên phương tiện thông tin, truyền thông của thị xã, các xã, thị
trấn, và phát tờ rơi khi đơn vị tới đăng ký mã số thuế và hàng tháng BHXH
tỉnh tiếp nhận danh sách các doanh nghiệp trên địa bàn từ Chi cục thuế và
phòng Kế hoạch-Tài chính, nhưng BHXH tỉnh chưa tổ chức điều tra số đơn
vị, số LĐ tham gia BHXH bắt buộc thuộc khu vực DNNQD trên địa bàn thị
xã. Mới chỉ dừng lại ở việc tách danh sách từng xã, thị trấn và gửi xuống
UBND xã, thị trấn đề nghị phối hợp tuyên truyền, đôn đốc.
14
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC
3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển bảo hiểm xã hội
Quốc hội khóa XIII thông qua Luật BHXH năm 2014, sau đó Nghị định số
115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc việc sửa đổi, bổ
sung các quy định pháp luật phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của thực tế sẽ
đảm bảo việc thực hiện pháp luật về BHXH. Luật BHXH đã đánh dấu một
bước tiến quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực
thi chế độ, chính sách BHXH, bổ sung các chính sách BHXH phù hợp với quá
trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo ASXH và hội nhập quốc tế. Tỷ lệ các doanh nghiệp đóng
BHXH như hiện nay là quá thấp và là một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến nguy cơ mất cân đối trong việc điều hành chi trả của quỹ bảo hiểm.
Xác định mức lương tối thiểu để làm căn cứ đóng BHXH Hay tại các khu
công nghiệp người lao động phản đối ý kiến của dự thảo luật đối với chế độ
thanh toán BHXH một lần khi họ đủ điều kiện về tuổi nghỉ hưu và chưa đủ 20
năm đóng BHXH, bởi NLĐ thường làm hợp đồng ngắn hạn, khi NLĐ nghỉ
việc và muốn thanh toán chế độ luôn thì không được mà họ phải chờ đợi thời
gian quá lâu. Người lao động còn gặp nhiều khó khăn, cản trở trong việc tiếp
cận các dịch vụ BHXH; tiếp cận, theo dõi các thông tin về BHXH liên quan
đến việc đóng - hưởng của người lao động, người sử dụng lao động và nhà
nước; việc cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý BHXH còn chậm; chưa hình thành 16 quản lý BHXH bằng thẻ
BHXH điện tử để mọi người lao động đều có thể truy cập tìm hiểu, kiểm tra
tất cả những thông tin liên quan tới tài khoản BHXH của mình, do vậy, nhiều
trường hợp người lao động bị doanh nghiệp không đóng hoặc nợ BHXH đã
rất lâu nhưng không biết.
15
3.2. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội 3.2.1. Hoàn thiện pháp
luật về các chế độ bảo hiểm xã hội 3.2.1.1. Hoàn thiện các quy định về chế độ
bảo hiểm xã hội bắt buộc a, Ốm đau Về mặt kết cấu, các quy định về chế độ
ốm đau trong Luật BHXH năm 2014 gồm 06 điều và đã bao quát các vấn đề
quan trọng về chế độ ốm đau của người tham gia BHXH. Theo đó, đối tượng
áp dụng được quy định cụ thể hơn theo hướng mở rộng diện thụ hưởng, rõ
ràng hơn, thuận lợi cho việc thực hiện và quản lý. Việc bổ sung đối tượng là
người lao động làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng
tham gia vào BHXH bắt buộc có ý nghĩa tích cực, nhưng trên thực tế triển
khai sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Nên chăng, chỉ để cho nhóm đối
tượng này tham gia vào hai loại chế độ là hưu trí và tử tuất thì sẽ hợp lý,
thuận lợi hơn trong việc thụ hưởng chế độ. Về điều kiện về thời gian được
hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe. Theo đó, “người lao động sau
thời gian hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại Điều 26 của Luật này mà
trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc sau thời gian nghỉ việc hưởng
chế độ ốm đau sức khỏe còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe
từ năm ngày đến mười ngày trong một năm”. Như đã nêu ở phần thực trạng,
việc bổ sung thêm điều kiện về thời gian này chỉ hạn chế phần nào tình trạng
trục lợi quỹ BHXH chứ không xóa bỏ được hoàn toàn. Luật BHXH năm 2014
cũng không nói rõ căn cứ để xác định tình trạng “sức khỏe yếu”. Trên thực tế,
cũng chưa có hướng dẫn để làm rõ khái niệm này. b, Thai sản 17 Luật BHXH
năm 2014 đã mở rộng điều kiện hưởng chế độ thai sản cho phù hợp hơn với
thực tế. Cụ thể: Luật đã bổ sung thêm đối tượng, “lao động nữ mang thai hộ”
và “người mẹ nhờ mang thai hộ” và “lao động nam đang đóng BHXH có vợ
sinh con” được hưởng chế độ thai sản; bổ sung thêm đối tượng lao động nữ đã
đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên và đã đóng BHXH từ đủ 03 tháng trở lên
trong thời gian 12 tháng trước khi sinh (khoản 3, Điều 31); Quy định cụ thể
hơn các đối tượng được hưởng chế độ thai sản khi chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng
làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi
dưới 06 tháng tuổi (khoản 4, Điều 31). Quy định linh hoạt hơn về điều kiện
hưởng chế độ thai sản. c, Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Phần sửa đổi
16
của Luật BHXH năm 2014 một số quy định về chế độ TNLĐ, BNN là hợp lý.
Điều kiện hưởng chế độ TNLĐ được quy định chi tiết và rõ ràng hơn so với
quy định cũ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện. Luật đã cụ thể hóa
quy định tại khoản 1 Điều 43 trường hợp bị tai nạn trong các trường hợp nêu
tại điểm a, b, c (khoản 1 Điều 43); bổ sung quy định các trường hợp cần loại
trừ (khoản 2 Điều 43); các quy định nêu trên được thể hiện rõ và thuận lợi cho
việc tổ chức thực hiện. Quy định về phương thức cấp phương tiện trợ giúp
sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình đã hợp lý hơn như nêu cụ thể phương thức cấp
các phương tiện này cho đối tượng thụ hưởng. Luật quy định cấp bằng tiền để
người bị TNLĐ, BNN trực tiếp mua, định mức số tiền được chi trả sẽ do Bộ
LĐ - TB & XH quy định. Đây là một trong những sửa đổi phù hợp với thực
tế, tạo chủ động cho NLĐ. d, Hưu trí Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV
vừa qua, Quốc hội đã chính thức thông qua Bộ luật Lao động(sửa đổi) với
90,06% số đại biểu tán thành. Theo đó: tuổi nghỉ hưu của người lao động
trong điều kiện bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 60
với 18 nữ vào năm 2035 và 62 với nam vào năm 2028. Từ ngày Luật BHXH
có hiệu lực thi hành cho đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2018, mức lương
hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của
Luật BHXH được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo
hiểm xã hội quy định tại Điều 62 của Luật BHXH tương ứng với 15 năm
đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam
và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%. Theo tinh thần của Luật BHXH ngày
20/11/2014 thì NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định tham gia BHXH trước ngày 01/07/2015 thì việc điều chỉnh
tiền lương đã đóng BHXH vẫn được điều chỉnh theo mức lương cơ sở tại thời
điểm hưởng chế độ hưu trí như quy định hiện hành. Đối với NLĐ bắt đầu
tham gia BHXH từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 trở đi thì tiền lương tháng đã
đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân được điều chỉnh trên cơ sở chỉ
số giá sinh hoạt của từng thời kỳ như đối với NLĐ đóng BHXH theo chế độ
tiền lương do NSDLĐ quyết định. e, Tử tuất Luật BHXH quy định về chế độ
tử tuất theo hướng cho phép thân nhân NLĐ được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất
17
hàng tháng hoặc trợ cấp tuất một lần, trừ trường hợp có thân nhân là con dưới
06 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà bị suy giảm khả năng lao động từ 81%
trở lên (khoản 3, Điều 70); tăng mức trợ cấp tuất một lần đối với người chết
khi chưa hưởng lương hưu lên 02 tháng cho mỗi năm đóng BHXH từ năm
2014 trở đi, tương đồng với mức BHXH 1 lần. Luật BHXH ngày 20/11/2014
cũng đã bổ sung đối tượng là NLĐ tham gia BHXH mà bị Tòa án tuyên bố là
đã chết. Với quy định cụ thể này, Luật BHXH năm 2014 đã giúp ngành
BHXH tháo gỡ một vướng mắc trong quá trình giải quyết chế độ cho NLĐ,
đảm bảo quyền được thụ hưởng BHXH trong những trường hợp đặc biệt. 19
Để chế độ tử tuất thực sự có ý nghĩa đối với NLĐ và thân nhân của họ, đồng
thời góp phần ổn định xã hội, trước hết phải xây dựng, hoạch định chính sách
một cách khoa học và khả thi, làm tiền đề cho khâu tổ chức thực hiện. 3.2.1.2.
Hoàn thiện quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện Trước hết, việc hoàn thiện
pháp luật BHXH tự nguyện phải tuân thủ quan điểm nhất quán của Đảng và
Nhà nước về chính sách BHXH nói chung và phải có sự tương thích, phù hợp
với các quy định của BHXH bắt buộc. Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày
22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 – 2020 tiếp tục khẳng định và đặt ra
mục tiêu “Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ BHXH, BHYT; tăng
nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện”;
Tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng và bảo đảm khả năng cân đối BHXH; hoàn
thiện các chế độ chính sách BHXH, bảo đảm sự bình đẳng trong tham gia và
thụ hưởng BHXH. Ngành bảo hiểm cần ban hành thông tư quy định về thực
hiện công nghệ thông tin, theo đó mỗi người lao động tham gia BHXH tự
nguyện đều được cấp một mã số riêng trong hệ thống thông tin quốc gia. Sử
dụng mẫu sổ BHXH tự nguyện thống nhất trên phạm vi toàn quốc, có thể xem
xét tới việc thực hiện áp dụng thẻ điện tử để có thể sử dụng linh hoạt, cơ động
trong quá trình di chuyển lao động, theo dõi tình trạng sổ BHXH tự nguyện.
Cần quy định các hình thức nộp phí linh hoạt như: nộp bằng tiền mặt, nộp tiền
qua bưu điện, thậm chí là nộp tiền trực tuyến qua chuyển khoản ngân hàng.
3.2.2. Hoàn thiện quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật
18
về bảo hiểm xã hội Theo các quy định hiện hành (Luật BHXH năm 2014,
Nghị định số 01/2016/NĐ-CP), tổ chức BHXH có quyền và trách nhiệm tổ
chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT. Tuy nhiên, BHXH lại 20
chỉ có chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHTN, BHYT, mà
không có chức năng thanh tra, xử lý vi phạm trong việc thực hiện chính sách
pháp luật về BHXH, BHYT đối với các tổ chức, cá nhân, đơn vị SDLĐ và các
cơ sở khám chữa bệnh (KCB) BHYT. Thẩm quyền của tổ chức BHXH về
một số hành vi sai phạm chưa được quy định rõ trong các văn bản QPPL nên
khó khăn trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_phap_luat_ve_bao_hiem_xa_hoi_tu_thuc_tien_t.pdf