Tóm tắt Luận văn Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh - Thực tiễn tại tỉnh Hà Tĩnh

MỞ ĐẦU. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài. 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài. 1

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài . 2

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. 3

5. Phương pháp nghiên cứu . 3

6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu . 3

7. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu. 4

8. Bố cục của Luận văn . 4

CHưƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH . 5

1.1. Khái quát về cạnh tranh không lành mạnh. 5

1.2. Lý luận về pháp luật điều chỉnh về cạnh tranh không lành mạnh. 7

1.2.1. Khái niệm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. 7

1.2.2. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh. 8

1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật cạnh tranh . 8

1.3. Nội dung pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh9

1.4.3.2. Các dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh . 9

1.4.3.3. Pháp luật về xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh . 9

KẾT LUẬN CHưƠNG 1. 10

CHưƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH

TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

TẠI TỈNH HÀ TĨNH. 11

2.1. Thực trạng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. 11

2.1.1. Quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. 11

2.1.1.1. Quy định về xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh . 11

2.1.1.2. Ép buộc trong kinh doanh . 11

2.1.1.3.Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác . 11

2.1.1.4. Nhóm hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

khác. 12

2.1.1.5. Nhóm hành vi lôi kéo khách hàng bất chính. 12

2.1.1.6. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. 12

2.1.1.7. Quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh. 12

2.1.2. Quy định của pháp luật về xử lý hành vi cạnh tranh không lành

mạnh. 13

2.1.2.1. Trách nhiệm hành chính . 13

2.1.2.2. Trách nhiệm hình sự. 13

pdf29 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 07/03/2022 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh - Thực tiễn tại tỉnh Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa.Cuộc chạy đua đó sẽ không có chỗ cho những doanh nghiệp chậm chân trong việc nhìn nhần và nắm bắt thị hiếu của khách hàng một cách chậm chạp. Cơ chế cạnh tranh buộc các doanh nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp yếu hơn phải đƣa ra sự lựa chọn rõ rệt về định hƣớng: hoặc đổi mới để tồn tại, tạo ra động lực cho sự phát triển của 7 các doanh nghiệp và cả nền kinh tế hoặc chấp nhận thụt lùi, chấp nhận vấn đề giải thể, phá sản chỉ là vấn đề thời gian. 1.2. Lý luận về pháp luật điều chỉnh về cạnh tranh không lành mạnh 1.2.1. Khái niệm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh Cạnh tranh chỉ có thể hình thành, tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trƣờng. Muốn phát huy đƣợc mặt tích cực và hạn chế đƣợc mặt tiêu cực của cạnh tranh cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Từ phƣơng thức tiếp cận nhƣ trên, có thể xem pháp luậtvề cạnh tranh không lành mạnh là hệ thống các quy phạm cũng nhƣ các công cụ pháp luật khác nhằm bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị trƣờng cũng nhƣ môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng và công bằng. Đối tƣợng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh là các chủ thể tiến hành các hoạt động kinh tế, theo đuổi mục đích lợi nhuận. Trên thực tế, đó chủ yếu là các doanh nghiệp. Ngoài ra, các nhóm doanh nghiệp liên kết với nhau dƣới hình thức hiệp hội doanh nghiệp, các nghiệp đoàn... cũng là đối tƣợng điều chỉnh của hệ thống pháp luật này. Rheo pháp luật cạnh tranh, không phải hành vi vi phạm nào cũng cần thiết phải bị xử lý bằng pháp luật mà chỉ khi nào nó đạt đến một „„ngƣỡng‟‟ nhất định thì mới bị xử lý. Đây chính là sự thể hiện nguyên tắc „„tính hợp lý‟‟ trong luật cạnh tranh. Ngƣỡng trong luật cạnh tranh thƣờng đƣợc xác định thông qua các tiêu chí kinh tế nhƣ doanh thu, thị phần, thị phần kết hợp...Khi không có quy phạm cụ thể về „„ngƣỡng‟‟ thì các chủ thể áp dụng luật cạnh tranh (cơ quan quản lý cạnh tranh, Toà án...) phải tự xác định ngƣỡng áp dụng. Pháp luật cạnh tranh mang những yếu tố đặc trƣng sau: Một là, tính mềm dẻo. Hai là, mang bản chất là luật hình thành nhiều từ án lệ. Ba là, tính nửa pháp lý, nửa kinh tế. Bốn là, tính xuyên suốt. Năm là, tính toàn cầu. * Vai trò của pháp luật cạnh tranh Cạnh tranh lành mạnh tạo ra những sự lựa chọn nhiều hơn cho khách hàng và doanh nghiệp, giúp phân bổ các nguồn lực hợp lý, đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, lao động và các nguồn vốn khác. Đối lập với cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh không lành mạnh, việc xác định là lành mạnh hay không lành mạnh đƣợc căn cứ trên cơ sở mục đích, tính chất và phƣơng pháp tiến hành cạnh tranh trên thị trƣờng. Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi đi ngƣợc lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm lợi ích kinh doanh của các nhà đầu tƣ khác, lợi ích của ngƣời tiêu dùng và lợi ích của xã hội. 8 Việc cạnh tranh sẽ làm một vài doanh nghiệp có bƣớc phát triển mới, bên cạnh có những doanh nghiệp sẽ phải dừng hoạt động. Đó là quy tắc của thị trƣờng, tuy nhiên không phải lúc nào cũng tuân thủ các nguyên tắc đó mà có nhiều biểu hiện tiêu cực nảysinh, những toan tính của các bên không phù hợp với đạo đức kinh doanh. Từ đó tạo ra sự hỗn loạn nhất định cho thị trƣơng. Việc lập lại trật tự đó cần có sự vào cuộc của Nhà nƣớc để điều chỉnh các hành vi đó, đƣa thị trƣờng về với những nguyên tắc vốn có của nó. Sự can thiệp của Nhà nƣớc bằng việc điều tiết cạnh tranh thông qua việc xây dựng pháp luật cạnh tranh. Cạnh tranh vốn là sự ganh đua của các bên nhằm lấy lòng khách hàng. Tuy các doanh nghiệp luôn đặt nhu cầu khách hàng là trên hết, nhƣng họ luôn có các thủ pháp trong kinh doanh nhằm thu hút tối đa khách hàng về phía mình. Các hành vi cạnh tranh đó là việc trƣng bày hàng hóa, quảng cáo sai sự thật, cho đến những lời hứa gian dối. Điềunày ảnh hƣởng trực tiếp tới ngƣời tiêu dùng cũng nhƣ các doanh nghiệp khác. 1.2.2. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là một dạng của hành vi vi phạm pháp luật và để ngăn chặn cũng nhƣ phòng chống hành vi này cần có cơ chế đặc thù. Vì vậy việc xác định hành vi nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh đặc biệt quan trọng về mặt chính sách nhằm hạn chế những ảnh hƣởng tới nền kinh tế. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các chủ thể tham gia trên thị trƣờng thuộc mọi thành phần kinh tế dù có phải là doanh nghiệp hay không. Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trái với chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh. Thứ ba,hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng. 1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật cạnh tranh Nhƣ trên đã đề cập, các nguyên tắc của luật cạnh tranh có cở sở bắt nguồn từ các nguyên tắc tự do khế ƣớc, tự do kinh doanh. Các nguyên tắc cơ bản của luật cạnh tranh bao gồm nguyên tắc tự do giá cả và tự do cạnh tranh. Nguyên tắc tự do giá cả Giá cả là linh hồn của cạnh tranh, vì biểu hiện tập trung nhất của cạnh tranh chính là thông qua giá cả. Trong một nền kinh tế thị trƣờng, về nguyên tắc, giá cả phải do thị trƣờng quyết định. Việc hình thành giá phải là sự phản ánh kết quả của quá trình cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trƣờng. Về nguyên tắc, nhà nƣớc không đƣợc can thiệp vào quá trình hình thành giá. Không thể nói đến cạnh tranh trong môi trƣờng mà giá cả hàng hoá, dịch vụ do nhà nƣớc ấn định. 9 Nguyên tắc tự do cạnh tranh Tự do cạnh tranh không đƣợc hiểu là đƣợc sử dụng mọi biện pháp hoặc thực hiện mọi hành vi để lôi kéo khách hàng. Tự do nào cũng có giới hạn và nhiệm vụ của luật cạnh tranh chính là xác định những giới hạn đó: doanh nghiệp đƣợc sử dụng tất cả các biện pháp mà luật cạnh tranh không cấm để thu hút khách hàng. Các giới hạn đó bao gồm: Thứ nhất, lĩnh vực thuộc độc quyền Nhà nƣớc. Thứ hai, lĩnh vực đƣợc Nhà nƣớc trợ cấp. 1.3. Nội dung pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh 1.4.3.2. Các dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm đƣợc quy định tại Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018, cụ thể: Nhóm hành vi thứ nhất: Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh, gồm các hình thức sau Nhóm hành vi thứ hai: Ép buộc trong kinh doanh, đó là: Nhóm hành vi thứ ba: Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác Nhóm hành vi thứ tƣ: Gây rối trật tự kinh doanh của doanh nghiệp khác. Nhóm hành vi thứ năm: Lôi kéo khách hàng bất chính. Nhóm hành vi thứ sáu: Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Các hành vi khác đƣợc quy định tại các luật khác. 1.4.3.3. Pháp luật về xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hình thức trách nhiệm pháp lý đƣợc Nhà nƣớc áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh, buộc các chủ thể đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác. Từ đó theo quy định của pháp luật hiện hành, xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh dựa vào các căn cứ pháp lý sau: Một là, phải có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hai là, phải có thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh. Ba là, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại. Bốn là, phải có lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh. 10 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Trong Chƣơng 1 của Luận văn đã phân tích, làm rõ nội hàm khái niệm cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh cũng nhƣ vai trò, tính ảnh hƣởng của cạnh tranh đối với sự phát trển của kinh tế xã hội.Qua quá trình nghiên cứu, có thể dễ dàng nhận thấy vai trò quan trọng của cơ chế cạnh tranh đối với các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Từ những ảnh hƣớng lớn đến sự phát triển chung của nền kinh tế đến những ảnh hƣởng tới ngƣời dân. Với những vai trò của cạnh tranh rõ ràng, cơ chế cạnh tranh sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp buộc phải luôn luôn vận động nếu không muốn bỏ lại đằng sau trong cuộc chiến giành thị trƣờng. Tuy vậy, cơ chế cạnh tranh không phải lúc nào cũng diễn ra một cách thuận lợi, nó có thể đƣợc thực hiện dƣới những hình thức tiêu cực, tác động đến môi trƣờng kinh doanh bình đẳng, công bằng giữa các chủ thể. Cạnh tranh không lành mạnh rõ ràng không thể tồn tại trong môi trƣờng cạnh tranh giữa các chủ thể. Pháp luật cạnh tranh ra đời với những điều chỉnh đến chế định này một lần nữa cho thấy tầm quan trọng trong việc tạo ra một môi trƣờng kinh doanh thuận lợi, hiệu quả cho các chủ thể kinh doanh.Việc làm rõ hơn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đƣa ra những thực tiễn trong vấn đề phát hiện và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động kinh doanh, tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng cho các doanh nghiệp cũng nhƣ cơ quan xử lý cạnh tranh giải quyết đƣợc các hành vi cạnh tranh xảy ra. Tuy nhiên, để bảo vệ đƣợc tối đa quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ cạnh tranh, bản thân sự điều chỉnh của pháp luật chƣa đủ đảm bảo, quá trình thực thi các quy định của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trên thực tế đƣợc làm rõ ở phần tiếp theo của Luận văn giúp nhìn nhận rõ hơn về vấn đề này. 11 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH HÀ TĨNH 2.1. Thực trạng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh 2.1.1. Quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh Luật Cạnh tranh 2018 đƣợc ban hành trên cơ sở kế thừa, tiếp nối và phát huy những giá trị tốt đẹp, những điều chỉnh tích cực của Luật Cạnh tranh năm 2004 mà quy định về những hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm là một ví dụ điển hình. Ngoài ra, văn bản Luật Cạnh tranh 2018 tiến hành sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm khắc phục những hạn chế của văn bản trƣớc đó 2.1.1.1. Quy định về xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh Bí mật kinh doanh theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 45 Luật cạnh tranh 2018 có những đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, thông tin đó không phải là hiểu biết thông thường,. Thứ hai, có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi đƣợc sử dụng sẽ tạo cho ngƣời nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với ngƣời không nắm giữ đƣợc hoặc không sử dụng thông tin đó. Thứ ba, đƣợc chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận đƣợc. Luật cạnh tranh quy định các dạng hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh bao gồm: Một là, hành vi tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của ngƣời sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó. Hai là,hành vi tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không đƣợc phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh. 2.1.1.2. Ép buộc trong kinh doanh Doanh nghiệp bị coi là có xử sự không lành mạnh khi họ dồn khách hàng vào tình thế bắt buộc phải mua hoặc không đƣợc phép mua hàng hoá mà không có cách lựa chọn nào khác. 2.1.1.3.Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác Quy định này từng tồn tại trong nội hàm điều chỉnh của Luật Cạnh tranh năm 2004 với vai trò thuật ngữ gièm pha doanh nghiệp kháctại Điều 43. Tuy nhiên, thuật ngữ này thực tế chƣa điều chỉnh hết các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp trên thị trƣờng,vìì vậy nên đƣợc chuyển sang thuật ngữ cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác, ghi nhận tại Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018 theo hƣớng điều chỉnh hiệu quả hơn. 12 2.1.1.4. Nhóm hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác Hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là một trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh do các doanh nghiệp thực hiện trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thƣờng về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc ngƣời tiêu dùng.Khoản 4 điều 45 Luật cạnh tranh 2018 quy định “Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó” 2.1.1.5. Nhóm hành vi lôi kéo khách hàng bất chính * Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn Luật cạnh tranh quy định cấm hành vi sử dụng chỉ dẫn thƣơng mại gây nhầm lẫn. Xuất phát từ bản chất của đối tƣợng này, chỉ dẫn thƣơng mại cần đƣợc định nghĩa là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm gắn liền với hàng hóa, dịch vụ hay hoạt động của doanh nghiệp nhất định, trải qua quá trình doanh nghiệp sử dụng, đầu tƣ, quảng bá lâu dài nên quan thuộc với khách hàng, trở thành những yếu tố chỉ dẫn để khách hàng nhận biết về một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định vay về nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó. *Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Tại Điểm b Khoản 5 Điều 45 Luật Cạnh tranh 2018 quy định về Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật cấm doanh nghiệp thực hiện hoạt động so sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác. Có thể hiểu một cách đơn giản quảng cáo so sánh là quảng cáo trong đó có nội dung so sánh hàng hóa, dịch vụ, khả năng kinh doanh của một doanh nghiệp (ngƣời quảng cáo) với đối tƣợng cùng loại của một hay một số doanh nghiệp cạnh tranh khác. 2.1.1.6. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh Khuyến mại là một trong những hoạt động thƣơng mại đƣợc nhiều doanh nghiệp áp dụng nhằm mục đích thu hút khách hàng sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình. Tuy nhiên, có nhiều doanh nghiệp cũng lợi dụng hình thức xúc tiến thƣơng mại này để nhằm cạnh tranh, loại bỏ bớt đối thủ cạnh tranh một cách không lành mạnh. 2.1.1.7. Quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác về hành vi cạnh tranh không lành mạnh Luật cạnh tranh 2018 quy định tƣơng đối chi tiết về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Bên cạnh đó các văn bản pháp luật khác nhƣ Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật dân sự, Luật thƣơng mại, Bộ luật hình sự và các nghị quyết của chính phủ cũng có quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên khi có tranh chấp xảy ra thì Luật cạnh tranh 2018 vẫn là văn bản pháp luật đƣợc ƣu tiên áp dụng. 13 Một là, hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ. Hai là, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực chứng khoán. Ba là, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử. 2.1.2. Quy định của pháp luật về xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh 2.1.2.1. Trách nhiệm hành chính Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, các hình thức chế tài xử lý vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu là các chế tài hành chính, đƣợc quy định trong các quy phạm pháp luật mang tính xử phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra (Điều 117). Các hình thức xử lý đó đã đƣợc tại Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết, bao gồm: + Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền đến 100 triệu đồng. + Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: Tịch thu tang vật, phƣơng tiện đƣợc sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu đƣợc từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài các hình thức xử phạt đó, đối tƣợng vi phạm còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc cải chính công khai. 2.1.2.2. Trách nhiệm hình sự Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đƣợc quy định tại Chƣơng XVIII "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" của Bộ luật Hình sự năm 2015. Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thƣờng là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trƣờng hợp bị áp dụng hình phạt rất nặng nhƣ tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. 2.1.2.3. Trách nhiệm dân sự Bồi thƣờng thiệt hại là một chế định quan trọng trong hệ thống chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chức năng chủ yếu của bồi thƣờng thiệt hại là khôi phục, đền bù, nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần mà bên mang quyền phải gánh chịu do hành vi vi phạm các quy tắc trong kinh doanh của bên kia gây ra. Vấn đề khởi kiện đòi bồi thƣờng thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh đƣợc áp dụng theo quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng, tại Chƣơng XX của Bộ luật Dân sự 2015 và pháp luật có liên quan. 2.1.3. Đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh về hành vi cạnh tranh không lành mạnh Luật cạnh tranh 2018 đã hoàn thiện quy định về kiểm soát hành vi cạnh 14 tranh không lành mạnh. Để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, luật không tiếp tục quy định một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã đƣợc quy định trong một số luật khác và khẳng định nguyên tắc các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã đƣợc quy định tại các luật khác đƣợc thực hiện theo pháp luật từng ngành đó. Bên cạnh những điểm tích cực đó thì Luật cạnh tranh 2018 vẫn còn chƣa cụ thể hóa hết các hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên thị trƣờng. Ngoài ra, việc xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bằng các chế tài khác nhau đã đƣợc nếu rõ ràng với từng hành vi cụ thể nhƣng tính răn đe là còn thấp. Về trách nhiệm dân sự,hành chính Pháp luật dân sự Việt Nam đã có nhiều biện pháp chế tài dân sự để có thể áp dụng trong trƣờng hợp có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các biện pháp chế tài dân sự bao gồm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng; xin lỗi, cải chính công khai; buộc chấm dứt hành vi vi phạm các chế tài khác. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Việt Nam chƣa có quy định về bồi thƣờng thiệt hại có tính chất phạt. Các quy định về các chế tài phi vật chất cũng chƣa đƣợc cụ thể hóa. Về trách nhiệm hình sự. Vấn đề hình sự hóa một số vi phạm quy định về cạnh tranh của BLHS mặc dù có những hợp lý nhất định nhƣng đã bộc lộ nhiều hạn chế chƣa phù hợp với Luật cạnh tranh 2018 và xu hƣớng chung về hình sự hóa vi phạm về cạnh tranh trên thế giới. Đặc biệt là sự chồng chéo trong các quy định của Bộ luật hình sự 2015 và Luật cạnh tranh 2018. Điều 112 Luật cạnh tranh 2018 quy định chính sách khoan hồng đối với doanh nghiệp tự nguyện khai báo giúp y ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện, điều tra và xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm quy định tại Điều 12. 2.2. Thực trạng thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại tỉnh Hà Tĩnh 2.2.1. Khái quát về thực trạng cạnh tranh không lành mạnh tại Hà Tĩnh * Về hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh Bí mật kinh doanh là một tài sản trí tuệ (tài sản vô hình), khác với các tài sản hữu hình khác, đƣợc xem nhƣ là một lợi thế đặc biệt của doanh nghiệp sở hữu nó và cũng thuộc đối tƣợng điều chỉnh của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Nghị định 99/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp quy định về các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức phạt, biện pháp khắc phục hậu quả; thủ tục nộp đơn yêu cầu xử lý vi phạm; thẩm quyền, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu xử lý vi phạm; thẩm quyền xử phạt và thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. * Về hành vi ép buộc trong kinhdoanh 15 Hành vi ép buộc trong kinh doanh trên thực tế không chỉ “gói gọn” trong phạm vi giữa các doanh nghiệp kinh doanh với nhau với biểu hiện phổ biến trên thị là các nhà sản xuất lớn, các công ty tiềm năng thƣờng có hành vi đe dọa cắt đứt quan hệ đại lý với các cửa hàng bán lẻ nếu cùng một thời điểm nhận làm đại lý bán các mặt hàng cạnh tranh cho các nhà sản xuất khác. Hành vi ép buộc trong kinh doanh trên thực tiễn Hà Tĩnh đƣợc thể hiện rõ nét thông qua hành vi ƣu ái, bắt buộc sử dụng sản phẩm bia Sài Gòn trên địa bàn của tỉnh. Các sở ban ngành yêu cầu cán bộ, công nhân viên chức của chính các sở ban ngành đó sử dụng bia Sài Gòn vào các buổi liên hoan, ăn uống hay tổ chức sự kiện của ban ngành. Ngoài ra trong việc sử dụng cá nhân cũng khuyến khích sử dụng bia Sài gòn. Tuy nhiên không chỉ dừng ở mức độ khuyến khích mà ở đây các ban ngành đã có những chỉ đạo rõ về vấn đề sử dụng bia Sài Gòn nhƣ ban hành các công văn về về yêu cầu cán bộ sử dụng bia hay những quy định về xử phạt đối với những cán bộ không sử dụng bia Sài Gòn trong các bữa tiệc. Vụ việc đẩy tới đỉnh điểm khi có 7 cán bộ thuộc Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Hà Tĩnh đã bị nhắc nhở và viết kiểm điểm vì đã không sử dụng bia Sài Gòn. Còn ở chính quyền cấp huyện, ngoài việc yêu cầu cán bộ sử dụng bia thì chính quyền yêu cầu các nhà hàng, khách sạn, quán karaoke đóng trên địa bàn tích cực chào mời và sử dụng bia Sài Gòn nhằm tăng doanh thu cho ngân sách tỉnh bằng những bản cam kết giữa nhà hàng với chính quyền địa phƣơng cùng với đó là công văn yêu cầu tích cực sử dụng bia Sài Gòn trên địa bàn huyện. Bên cạnh đó nhiều xã, phƣờng, thị trấn trong tỉnh còn tổ chức truyền loa phát thanh, xây dựng các chƣơng trình văn nghệ tuyên truyền việc ƣu tiên sử dụng bia Sài Gòn. Nhƣ tại văn bản số 199 của y ban nhân dân huyện Cẩm Xuyên gửi các nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn đẩy mạnh hơn nữa việc tiêu thụ sản phẩm bia Sài Gòn có nêu việc yêu cầu các y ban nhân dân xã, thị trân tăng cƣờng thời lƣợng phát thanh, tuyên truyền, chỉ đạo việc sử dụng bia Sài Gòn trên địa bàn huyện. Cùng với những chính sách ƣu đãi đối với bia Sài Gòn thì việc sau đó tỉnh tổ chức một lễ hội bia Sài Gòn với những hành động từ phía chính quyền nhằm tạo động lực thúc đẩy sử dụng bia sau lễ hội này. Ngoài ra trong các cuộc thi nhằm tuyên tuyên các chính sách của Đảng nhà nƣớc tới tầng lớp quần chúng nhân dân thì việc đƣa các bài thi về tuyên truyền quảng cáo bia gây nên những bức xúc nhất định trong quần chúng. Từ góc độ nào đây chúng ta có thể thấy việc yêu cầu sử dụng bia Sài Gòn sản xuất trên địa bàn không có gì phải bàn cãi nhiều. Tuy nhiên việc các cơ quan chức năng tỉnh Hà Tĩnh ký vào những văn bản có hiệu lực ban hành rộng rãi thì trên khía cạnh kinh tế lẫn pháp lý đều không phù hợp. Ngoài ra việc tổ chức lễ hội bia đối với sản phẩm bia Sài Gòn trên địa bàn là không 16 sai, tuy nhiên việc sử dụng các mệnh lệnh hành chính để yêu cầu các tổ chức, cá nhân tới tham dự lễ hội đã tác động đến sự cạnh tranh lành mạnh giữa các sản phẩm bia với nhau trên chính địa bàn Hà Tĩnh cho dù doanh nghiệp đó có đóng thuế nhiều hơn đi chăng nữa. Xét về pháp luật cạnh tranh, những hành vi mà chính quyền tỉnh Hà Tĩnh thực hiện là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Đó là các hành vi của cơ quan nhà nƣớc không đƣợc thực hiện để cản trở cạnh tranh trên thị trƣờng đó là:Buộc doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ với doanh nghiệp đƣợc cơ quan này chỉ định, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền quản lý của cơ quan nhà nƣớc hoặc trƣờng hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật. * Về hành vi cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác Trên thực tiễn, hành vi này thƣờng bắt gặp dƣới dạng hành vi gièm pha doanh nghiệp khác đƣợc biểu hiện dƣới nhiều hình thức khác nhau nhƣ: nói xấu, bôi nhọ, vu khống đối thủ cạnh tranh, cố ý tung tin đồn, tạo dƣ luận xã hội, gây ấn tƣợng không tốt về một loại sản phẩm hàng hóa đang có uy tín trên thị trƣờng, nhằm hạ uy tín sản phẩm của đối thủ cạnhtranh. * Về hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác Khác với hành vi ép buộc trong kinh doanh hoặc gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác không có quy định về hình thức của hành vi, mà chỉ căn cứ vào hậu quả đã xảy ra trên thực tế để nhận diện hành vi. Đó là tình hình kinh doanh của doanh nghiệp bị hại đã bị gián đoạn hoặc bị cản trở bởi hành vi gây rối nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp vi phạm. * Về hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn Các đối tƣợng chỉ dẫn mà doanh nghiệp sử dụng để gây nhầm lẫn là các đối tƣợng thuộc phạm trù "chỉ dẫn thƣơng mại" đƣợc quy định tại Nghị định số 54/2000/NĐ-CP và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Chỉ dẫn thƣơng mại (tên thƣơng mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tƣợng kinh doanh, kiểu dáng bao bì của hàng hóa, nhãn hàng hóa, chỉ dẫn địa lý) là đối tƣợng thƣờng đƣợc các đối thủ cạnh tranh quan tâm và cũng là đối tƣợng đƣợc bảo vệ bởi pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh xảy ra thực trạng các doanh nghiệp có hành vi vi phạm thƣơng hiệu trong kinh doanh xăng dầu. * Về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Cạnh tranh không lành mạnh cũng diễn ra phổ biến trong

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_van_phap_luat_ve_canh_tranh_khong_lanh_manh_thu.pdf