Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước

Bình Phước là nơi hội tụ 41 dân tộc anh em cùng sinh sống tạo nên một vùng đa sắc về văn hóa truyền thống. Bình Phước là vùng đất có nền văn hóa lâu đời, có nhiều di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ đã được phát hiện và nghiên cứu có niên đại cách đây hàng nghìn năm như: đàn đá, thành đất cổ, các công cụ bằng đá, gốm, v.v. thuộc nền văn minh thời kỳ tiền sử và rất nhiều các danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Con người nơi đây rất hiếu khách và nhân hậu. Tất cả những nét đó tạo nên một Bình Phước vừa thơ mộng, vừa đa dạng về bản sắc văn hóa. Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó và trên cơ sở lý luận được phân tích ở Chương 1, Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong những năm tới. Các giải pháp này bao gồm các giải pháp chung và các giải pháp cụ thể cho một số loại dịch vụ văn hóa cụ thể. Các giải pháp chung bao gồm: Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục để mọi người nhận thấy rõ những tác dụng tích cực và những tác hại không lành mạnh của các dịch vụ văn hóa; hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về dịch vụ văn hóa; phát triển nguồn nhân lực cho quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa thông qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và có chế độ đánh giá, khen thưởng, khuyến khích thỏa đáng; đổi mới cơ chế và phương thức quản lý nhà nước dịch vụ văn hóa; hoàn thiện các chính sách đối với dịch vụ văn hóa phù hợp với đặc thù hoạt động của từng loại dịch vụ văn hóa; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các dịch vụ văn hóa và quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa ở địa phương; đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ văn hóa, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho cá nhân, gia đình, các tổ chức tham gia cung ứng các dịch vụ văn hóa

pdf24 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 07/03/2022 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm) ở địa phương, các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm vụ quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh và theo quy định của pháp luật. Quyết định số 1239/QĐ-UBND cũng quy định cụ thể các nhiệm vụ của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đối với các hoạt động dịch vụ văn hóa như: nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, thư viện, quảng cáo, các vấn đề về quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật. 2.3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Sở Thông tin và Truyền thông Sở Thông tin và Truyền thông là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển phát; viễn thông và internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin, điện tử; phát thanh và truyền hình; cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông; quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm; các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Sở; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, uỷ quyền của UBND tỉnh và theo quy định của pháp luật. 2.3.2. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong thời gian qua a. Công tác lập quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành văn hóa nói chung và dịch vụ văn hóa nói riêng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được chính quyền tỉnh phê duyệt. Đây là cơ sở để lập quy hoạch ngành, sản phẩm du lịch chủ yếu của tỉnh đến năm 2020. b. Quản lý công tác cấp phép cho các dịch vụ văn hóa Từ năm 2010 đến nay, hàng năm Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiếp nhận và trả kết quả khoảng 900 hồ sơ xin cấp phép các loại trong các lĩnh vực dịch vụ văn hóa, trong đó có hơn 200 giấy phép 10 kinh doanh karaoke, 500 giấy phép quảng cáo các loại, còn lại là các giấy phép biểu diễn nghệ thuật, giấy phép trò chơi có thưởng. 2.4. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước 2.4.1. Những thuận lợi Thứ nhất, chủ trương, đường lối và chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa và các dịch vụ văn hóa. Điều này thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa 8 với quan điểm cốt lõi là phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự định hướng này là một nền tảng pháp lý quan trọng đối với công tác xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Phước nói riêng trong hoàn cảnh mới. Bên cạnh đó, các nghị quyết, chương trình hành động của Đảng và Nhà nước về văn hóa đã tạo nên một sự thống nhất về tư tưởng, hành động của các cấp quản lý nhà nước, từ Trung ương đến địa phương trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc. Điều này đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần mang lại những thành tích to lớn trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và vật chất của các tầng lớp nhân dân, tạo nên những “chất kháng thể” chống lại những mặt trái kinh tế thị trường và những sản phẩm văn hóa độc hại xuất hiện khi thực hiện chính sách mở cửa hội nhập. Thứ hai, sự nhận thức đúng đắn và triển khai tích cực chiến lược, kế hoạch phát triển văn hóa của các cấp chính quyền tỉnh Bình Phước. Đây là điều kiện có tính chất quyết định trực tiếp đối với những thành tựu trong lĩnh vực văn hóa của tỉnh. Chính nhờ sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời mà ngành văn hóa, thể thao và du lịch, tỉnh Bình Phước đã từng bước vượt qua những khó khăn của một tỉnh mới được tái lập, có địa bàn và thành phần dân cư phức tạp. 2.4.2. Những hạn chế Một là, hạn chế trong công tác lập quy hoạch và triển khai quy hoạch phát triển các dịch vụ văn hóa. Ví dụ, đối với quy hoạch hoạt động quảng cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh đến nay vẫn chưa có quy hoạch tổng thể, bao gồm cả quảng cáo tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Vì vậy, trong quá trình quản lý nhà nước về quảng cáo gặp những vướng mắc, bất cập như: chưa có sự thống nhất về quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo ngoài trời giữa các ngành: Văn hóa Thể thao và Du lịch, Xây dựng, Giao thông Vận tải, Quản lý đô thị. Việc này gây trở ngại cho các doanh nghiệp khi thực hiện quảng cáo thương mại ngoài trời, đồng thời gây khó khăn cho việc cấp phép cho hoạt động này. Quản lý nhà nước về dịch vụ quảng cáo cấp ở huyện và thị trấn còn bị buông lỏng; việc kiểm tra, xử lý sai phạm và cưỡng chế tháo dỡ gặp nhiều khó khăn do lực lượng thanh tra mỏng, kinh phí cho công tác này còn hạn chế, sự phối hợp giữa Thanh tra các ngành liên quan còn yếu, chưa thống nhất. 2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế Những hạn chế trong quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. 2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội ngày càng nhiều ở tất cả các lĩnh vực. Các dịch vụ văn hóa là một lĩnh vực các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân rất dễ tham gia đầu tư kinh doanh. Nhưng như đã nêu ở trên, kinh doanh dịch vụ văn hóa là một loại kinh doanh đặc thù, là loại kinh doanh cùng lúc có hai yếu tố: đối tượng đặc thù (văn hóa) và kinh tế thị trường. Vì thế, kinh doanh dịch vụ văn hóa thường đa dạng và diễn biến rất phức tạp. Các cơ quan nhà nước ở các cấp, ở một khía cạnh nào đó chưa thấy rõ đặc điểm này của dịch vụ văn hóa, không 11 theo kịp sự phát triển của chúng. Vì vậy, các quy định về kinh doanh dịch vụ văn hóa thường thiếu hoặc quy định không chặt chẽ, còn có những sơ hở để các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa đã lợi dụng để vi phạm. 2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan Một là, chính quyền các cấp trong tỉnh chậm xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa cho từng giai đoạn; chưa xây dựng được cơ chế, chính sách phát triển các dịch vụ văn hóa trong cơ chế thị trường và mở cửa hội nhập. Các thiết chế quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa còn thiếu, chất lượng thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Hai là, các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh dịch vụ văn hóa còn thiếu sự đồng bộ, một số quy định thiếu tính khả thi, gây lúng túng cho các cơ quan chức năng khi thực hiện nhiệm vụ. Chẳng hạn, Điều 14 của Thông tư 04/2009/TT-BVHTTDL ngày 16/12/2009 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết thi hành một số quy định tại quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ, quy định trò chơi điện tử, bao gồm cả trò chơi trực tuyến, không được hoạt động sau 10 giờ đêm đến 8 giờ sáng hôm sau. Trong khi đó, Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet giao trách nhiệm cho chính quyền địa phương quy định giờ mở cửa đại lý Internet và UBND tỉnh Bình Phước đã ban hành Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 16/4/2009 ban hành quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet địa bàn tỉnh, trong đó quy định các dịch vụ Internet công cộng trên địa bàn tỉnh được mở cửa từ 7 giờ đến 23 giờ. Mặt khác, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh chậm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách lớn, bị động trước những vấn đề mới xuất hiện và một số biến đổi phức tạp trên lĩnh vực dịch vụ văn hóa. Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển các dịch vụ văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường. Ba là, nguyên nhân xuất phát từ sự đối phó của các chủ cơ sở kinh doanh các dịch vụ văn hóa. Qua ý kiến khảo sát 95 cán bộ văn hóa, có 90 cán bộ văn hóa (chiếm 95%) cho rằng, khó khăn lớn nhất trong công tác thanh tra, kiểm tra các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh xuất phát từ lý do này. Một Trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin cho biết: “Địa phương cũng tổ chức đoàn liên ngành kiểm tra hoạt động của các điểm kinh doanh dịch vụ văn hóa, nhưng có một số cơ sở đối phó bằng cách khi có mặt đoàn kiểm tra thì nghiêm túc thực hiện, nhưng sau đó lại đâu vào đấy”. Đối với hoạt động kinh doanh băng đĩa, việc xử lý vi phạm không hề đơn giản bởi việc thẩm định nội dung vi phạm khó khăn và mất nhiều thời gian. Công tác thanh, kiểm tra không thực hiện được thường xuyên mà thường tổ chức theo các đợt thanh tra liên ngành, vì vậy khi có thông tin thanh, kiểm tra, các đại lý thường trá hình trưng bày băng đĩa có tem nhãn, cất giấu băng đĩa in sao lậu. Quá trình xử lý vi phạm không trực tiếp phạt được ngay tại thời điểm kiểm tra mà chỉ lập biên bản, thu giữ băng đĩa, sau quá trình thẩm định nội dung vi phạm mới tiến hành các biện pháp xử phạt cụ thể. Nhiều trường hợp chủ cửa hàng bỏ hàng hóa không đến cơ quan chức năng để giải quyết. Qua khảo sát học viên nhận thấy, tình trạng vi phạm trong kinh doanh băng đĩa hiện nay chủ yếu là vi phạm về bản quyền tác giả. Không chỉ với hoạt động kinh doanh băng đĩa mà các cơ sở kinh doanh dịch vụ khác như internet, karaoke, đều có hình thức đối phó tương tự như vậy. Bốn là, nguyên nhân xuất phát từ đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Trên địa bàn tỉnh Bình Phước, đội ngũ cán bộ quản lý dịch vụ văn hóa, nhất là ở các phường, xã vừa thiếu về 12 số lượng, vừa hạn chế về trình độ chuyên môn và phần lớn chưa được trang bị kiến thức quản lý một cách bài bản. Ở nhiều phường, xã, cán bộ chuyên trách về văn hóa phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác và nhiều khi phải điều chuyển qua công tác khác theo yêu cầu của chính quyền cơ sở. Một bộ phận cán bộ, công chức quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh chưa chú trọng rèn luyện bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, không kiên quyết bảo vệ các định hướng, chỉ đạo trong quản lý các dịch vụ văn hóa đã không chuyên tâm trong công việc, ủng hộ các thị hiếu sai lệch, thậm chí dung túng cho những hành vi vi phạm trong kinh doanh các dịch vụ văn hóa. Tiểu kết chương 2 Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 (năm 1986), Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế. Kéo theo đó là sự hình thành và phát triển các loại hình kinh doanh dịch vụ, trong đó có kinh doanh dịch vụ văn hóa. Cũng như tất cả các tỉnh, thành trong cả nước, kinh doanh dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước ngày càng phát triển, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của người dân và xã hội. 13 Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC 3.1. Quan điểm quản lý nhà nước về phát triển văn hóa và dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước 3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Thực hiện chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương (Khóa IX), Hội nghị Trung ương lần thứ mười năm 2004 đã tiến hành kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (Khóa VIII). Hội nghị Trung ương 10 (Khóa IX) đã chỉ rõ cần tiếp tục thực hiện đầy đủ 5 quan điểm chỉ đạo đã được Nghị quyết Trung ương năm (Khóa VIII) đề ra. Năm quan điểm đó là: Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta xác định chǎm lo vǎn hóa là chǎm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung. Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng bởi Việt Nam là quê hương của 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có nền văn hóa riêng của dân tộc mình với những bản sắc riêng. Bản sắc của 54 nền văn hóa ấy tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất bởi 54 dân tộc anh em dù có nguồn gốc khác nhau nhưng đều có ý chí thống nhất, đều coi là con em một nhà, từ cùng một bà mẹ sinh ra (dân tộc Kinh có truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân, các dân tộc Tây Nguyên có truyền thuyết “Quả bầu mẹ”, ). 54 nền văn hóa dân tộc cùng phát triển trong điều kiện tự nhiên và xã hội chung, nên có cùng những điểm chung thống nhất với nhau. Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo trong đó có đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân. Giai cấp công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời là lực lượng chủ lực, nồng cốt trong xây dựng và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ gắn bó với nhân dân lao động, được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn trọng, tạo điều kiện phát huy tài năng phục vụ nhân dân, cống hiến cho sự phát triển của nền văn hóa dân tộc. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của nước nhà do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của nền văn hóa Việt Nam. Năm là, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. 14 Xây dựng nền văn hóa là quá trình đấu tranh kiên trì, bền bỉ, lâu dài để giữ gìn và phát huy giá trị, bản sắc dân tộc, đấu tranh chống lại tàn dư của chế độ cũ và sự xâm nhập, phá hoại của các yếu tố tiêu cực, ngoại lai. Xây dựng nền văn hóa trong giai đoạn cách mạng hiện nay phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là “chính”, để chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Xây dựng các giá trị văn hóa mới, con người mới là quá trình lâu dài, gian khổ, đòi hỏi kiên trì, bền bỉ, sự dũng cảm, ý chí quyết tâm và tinh thần sáng tạo. Mới đây, Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đã khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” [19, tr 75]; “phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [19, tr 76]. 3.1.2. Quan điểm, mục tiêu của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bình Phước Kế hoạch số 84-KH-UBND ngày 03/4/2017 của UBND tỉnh Bình Phước đề ra các mục tiêu phát triển văn hóa và dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh bao gồm các nội dung chính sau: * Mục tiêu chung: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với kinh doanh dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước với các ngành chủ yếu bao gồm: quảng cáo, các trò chơi giải trí, xuất bản, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, du lịch văn hóa, ...v,v, nhằm hình thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng. Từ đó, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong tỉnh, khu vực, quốc gia và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh vùng đất và con người Bình Phước; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Bình Phước. * Các mục tiêu cụ thể: - Từ năm 2017 - 2020: Định hướng và từng bước phát triển các ngành như: biểu diễn nghệ thuật, điện ảnh, thiết kế mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Hỗ trợ đầu tư phát triển nguồn nhân lực; hình thành rõ nét nền công nghiệp văn hóa ở địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức trong nước và quốc tế, các cơ quan văn hóa, du lịch ở nước ngoài giới thiệu về hình ảnh đất nước, văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Bình Phước. - Đến năm 2030: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp và đồng bộ, khuyến khích quảng bá nền du lịch văn hóa của tỉnh trong và ngoài nước. Về du lịch văn hóa: Đưa Khu du lịch tâm linh núi Bà Rá, Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng Sóc Bom Bo, khu di tích quốc gia đặc biệt căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phòng miền Nam Việt Nam vào khai thác và trở thành điểm du lịch hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Hình thành tour, tuyến du lịch tìm hiểu đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc S’tiêng, Mơnông ở Bình Phước. 3.2. Cơ sở và nguyên tắc xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa 3.2.1. Cơ sở xây dựng các giải pháp 15 Một là, cơ sở lý luận: Đó chính là vai trò của văn hóa và dịch vụ văn hóa đối với đời sống xã hội trong giai đoạn hiện nay và quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về phát triển văn hóa mà chúng tôi đã trình bày ở Chương 1, ở đây chúng tôi không trở lại. Hai là, cơ sở pháp lý: Khi đưa ra các giải pháp, học viên căn cứ vào một số văn bản pháp lý sau đây: - Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10 năm 2009 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật di sản văn hóa số 32/2009/QH12 của Quốc hội năm 2009. - Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12 năm 2009 của Quốc hội. - Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13 của Quốc hội năm 2012. - Nghị quyết số 79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình, ca múa nhạc, sân khấu. - Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ ban hành quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng. - Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa. - Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo. - Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20/03/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo. - Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-CA-KHĐT ngày 14/7/2005 của Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Văn hóa – Thông tin, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư về quản lý đại lý Internet. - Quyết định số 2577/QĐ-UBND ngày 27/12/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước phê duyệt Quy hoạch karaoke, vũ trường trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2007 - 2010 và định hướng đến năm 2020. - Kế hoạch số 84-KH-UBND ngày 03/4/2017 của UBND tỉnh Bình Phước đề ra các mục tiêu phát triển văn hóa và dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Ba là, cơ sở thực tiễn: Đây chính là tình hình hoạt động của các dịch vụ văn hóa và quản lý hoạt động của các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời gian qua. 3.2.2. Nguyên tắc xây dựng các giải pháp Nguyên tắc thứ nhất: các giải pháp phải đi đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng, phù hợp với các văn bản pháp lý của Nhà nước. Nguyên tắc này được hiểu theo các nội dung sau: Một là, trong giai đoạn đất nước đang tiếp tục công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thời kỳ mở rộng giao lưu hội nhập với thế giới – văn hóa vừa là một thị trường, vừa là một chiến trường. Là một thị trường, sự phát triển của các dịch vụ văn hóa là một xu hướng tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Đi theo quy luật thị trường, tất nhiên trong hoạt động dịch vụ 16 văn hóa sẽ có sự cạnh tranh. Cạnh tranh lành mạnh hay không của các dịch vụ văn hóa do Nhà nước quản lý như thế nào. Là một chiến trường, một mặt trận không tiếng súng, nhưng ở lĩnh vực văn hóa nói chung, dịch vụ văn hóa nói riêng đã, đang và sẽ diễn ra một cuộc chiến không kém phần gay gắt, quyết liệt giữa hai xu hướng ngược chiều nhau: xu hướng lành mạnh, tích cực và xu hướng không lành mạnh, tiêu cực. Do đó, các giải pháp về quản lý các dịch vụ văn hóa phải thấy và làm rõ những khía cạnh này. Hai là, dịch vụ văn hóa rất đa dạng, phức tạp và mang tính đặc thù. Đa dạng, phức tạp bởi dịch vụ văn hóa có rất nhiều loại hình, mỗi loại hình có những đặc điểm riêng. Đặc thù không chỉ ở chỗ dịch vụ văn hóa khác với các loại hình dịch vụ khác mà còn ở ngay trong các loại hình dịch vụ văn hóa. Tất cả các loại hình dịch vụ văn hóa ngoài những điểm chung của một lĩnh vực đặc thù thì mỗi loại hình dịch vụ văn hóa có điểm riêng của nó. Chẳng hạn, dịch vụ karaoke chắc chắn khác với dịch vụ lễ hội, dịch vụ quảng cáo. Do đó khi xây dựng các giải pháp về quản lý dịch vụ văn hóa phải có những giải pháp chung cho mọi loại hình dịch vụ văn hóa và phải có những giải pháp riêng cho mỗi loại hình dịch vụ văn hóa. Nguyên tắc thứ hai: các giải pháp phải tạo thành một hệ thống, trong đó các giải pháp phải hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Mỗi giải pháp được đưa ra là một phần của một giải pháp tổng thể. Các giải pháp liên kết với nhau thành một hệ thống giải pháp, trong đó mỗi giải pháp giải quyết một nội dung của một giải pháp chung mang tính tổng thể; giải pháp trước làm cơ sở cho giải pháp sau, giải pháp sau cụ thể hóa giải pháp trước. Chẳng hạn, giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về dịch vụ văn hóa làm cơ sở để có các giải pháp về hoàn thiện các chính sách đối với hoạt động dịch vụ văn hóa và giải pháp đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ văn hóa. Ngược lại, các giải pháp về hoàn thiện các chính sách đối với dịch vụ văn hóa và đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ văn hóa nhằm cụ thể hóa hai trong nhiều nội dung của hệ thống văn bản pháp luật về dịch vụ văn hóa. Nguyên tắc thứ ba: Hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Hiệu quả quản lý nhà nước phản ánh kết quả thực hiện mục tiêu của quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Chúng ta có thể đo lường tiêu chí này bằng các chỉ số như: số lượng dịch vụ văn hóa có chất lượng được cung ứng cho xã hội; kết quả hoạt động của các đơn vị cung ứng dịch vụ văn hóa; sự hài lòng của người dân với các dịch vụ văn hóa; số các đơn vị cung ứng dịch vụ văn hóa vi phạm pháp luật; tỷ lệ các vi phạm pháp luật được giải quyết... Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa là nhằm nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ văn hóa, đáp ứng tốt các yêu cầu của người dân và xã hội. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa phải gắn xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đạm đà bản sắc văn hóa dân tộc với xây dựng nền văn hóa theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Bên cạnh đáp ứng yêu cầu số lượng, cung ứng dịch vụ văn hóa cần chú trọng đến chất lượng và hiệu quả. Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa không chỉ đánh giá kết quả về số lượng, chất lượng dịch vụ mà phải xem xét mức độ chi phí, đầu tư các nguồn lực để có được kết quả đó. Phải đánh giá cả hiệu quả về mặt kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội. 3.3. Các giải pháp chung và giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước 17 3.3.1. Các giải pháp chung 3.3.1.1. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục Tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho người dân và các đơn vị kinh doanh nhận thấy rõ những tác dụng tích cực và những tác hại không lành mạnh của các dịch vụ văn hóa. - Đối với người dân: thông qua công tác tuyên truyền làm cho mọi người dân nhận thấy những mặt tích cực, lành mạnh của các dịch vụ văn hóa đối với đời sống xã hội, đối với từng người để từ đó mỗi người có ý thức phát huy những yếu tố tích cực đó và chủ động tham gia, đóng góp cho hoạt động quản lý nhà nước đối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_dich_vu_van_hoa_tren_di.pdf