Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì – thành phố Hà Nội

Trong quá trình thực hiện công tác đảm bảo TTATXH cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng nhằm phát huy vai trò trách nhiệm của từng bộ phận, từng lực lượng tham gia, khắc phục tình trạng chồng chéo, thiếu động bộ, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đảm bảo TTATXH trên địa bàn. Trong thời gian qua, công an huyện Thanh Trì đã tham mưu với cấp ủy, chính quyền xây dựng các chương trình phối hợp giữa Công an huyện với các ban, ngành, đoàn thể, các xã, thị trấn và cơ quan, doanh nghiệp trong đó phân công nhiệm vụ, xác định trách nhiệm cụ thể của từng đơn vị, từng bước đưa công tác phối hợp đi vào nền nếp, hiệu quả. Thời gian tới, tình hình TTATXH sẽ có nhiều tiềm ẩn phức tạp hơn, do đó công tác phối hợp trong đảm bảo TTATXH cần phải tốt hơn nữa và tập trung vào việc bổ sung, kiện toàn các chương trình phối hợp, nội dung và hình thức phối hợp đạt hiệu quả cao nhất

pdf26 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì – thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hòa bình, an ninh, an toàn để đất nước phát triển nhanh và bền vững... Nâng cao chất lượng công tác dự báo, phân tích tình hình; phát hiện từ sớm các mối đe dọa đến lợi ích, an ninh quốc gia, TTATXH để chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp về chủ trương, giải pháp bảo đảm ANTT; kiên quyết không để bị động, bất ngờ. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, triển khai các biện pháp bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, TTATXH, góp phần thực hiện hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng, Nhà nước. 1.2.1.4 Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lí vi phạm pháp luật Thanh tra, kiểm tra là một giai đoạn quan trọng trong chu trình nhà nước về TTATXH, là phương thức đảm bảo pháp chế XHCN, tăng cường kỷ luật và nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Thanh tra, kiểm tra TTATXH là một mắt xích, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình QLNN và TTATXH. Qua thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong giải quyết TTATXH sẽ nâng cao trách nhiệm quản lý của các cấp các ngành đồng thời nắm bắt được tình hình trật tự ATXH của từng địa phương và kết quả giải quyết ở cơ quan đơn vị đó. Qua đó, thấy được những bài học kinh nghiệm cũng như những vướng mắc thiếu sót trong việc thực hiện các chính sách pháp 9 luật để hướng dẫn chỉ đạo sâu sắc hơn, hoặc đề nghị xử lý những người thiếu trách nhiệm xử lý những người không thực hiện đúng quy định của pháp luật. Trong công tác thanh kiểm tra về TTATXH phải thực hiện tốt việc phối hợp giữa công an với các ban ngành đoàn thể trên các lĩnh vực QLNN về TTATXH. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp Ủy Đảng, chính quyền đoàn thể, tổ chức kinh tế xã hội và quan hệ giữa các tổ chức này với lực lượng công an trong việc thực hiện quan hệ đấu tranh, ngăn ngừa hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội. Đồng thời đề cao vị trí, vai trò giám sát của HĐND, mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp thông qua việc đóng góp ý kiến liên quan đến các hoạt động của quản lý TTATXH. Mặt khác, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về TTATXH thể hiện hoạt động điều hành khi giải quyết các vi phạm TTATXH của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã trực tiếp tác động lên các hành vi chủ thể vi phạm, làm thỏa mãn nhu cầu của chủ thể khi xử lý vi phạm TTATXH. Đồng thời công tác QLNN về TTATXH đảm bảo tồn tại và sự ổn định chấp hành, giải quyết TTATXH phải tuân thủ nghiêm minh quy định của văn bản pháp luật, xử lý theo pháp luật, công min và đảm bảo công bằng cho đối tượng vi phạm TTATXH đảm bảo được các quyền lợi của các chủ thể liên quan, nhất là vi phạm TTATXH. 1.2.2. Vai trò Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội Quản lý nhà nước về quốc phòng - an ninh phải nhằm bảo đảm cho đất nước hòa bình, ổn định trên mọi lĩnh vực, “không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, mọi cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực phản động đối với nước ta. Các thế lực thù địch hiện nay đang thực hiện nhiều âm mưu, nhiều thủ đoạn nhằm kìm hãm sự phát triển của đất nước, phá hoại sự ổn định về chính trị, kinh tế, văn hóa,... Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng mọi sơ hở của ta hòng làm suy yếu nội bộ để “tự diễn biến”, tạo nên các tình huống phức tạp, bất ngờ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” làm mất ổn định chính trị, gây bạo loạn lật đổ hoặc bất ngờ tiến hành chiến tranh xâm lược. Ngoài ra, còn có vai trò to lớn là điều chỉnh, điều khiển các hoạt động xã hội và hành vi của công dân theo trật tự nhất định của nền trật tự xã hội chủ nghĩa đó là một nền trật tự của một xã hội mà nơi đó con người sống có kỷ cương, nền nếp, lành mạnh, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội là một biện pháp công tác cơ bản của lực lượng công an nhân dân để phòng ngừa tội phạm, hoạt động quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội có tác dụng tước bỏ điều kiện xóa bỏ cơ số tội phạm và phần tử xấu lợi dụng để hoạt động phạm pháp. 1.3. Những yếu tố tác động đến QLNN về TTATXH. 1.3.1. Về chính trị Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch, phương án bảo đảm trật tự, an toàn xã hội Chiến lược, chính sách, kế hoạch, phương án bảo vệ trật tự, an toàn xã hội thể hiện sự nhất quán với chủ trương, đường lối, tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Nội dung xây dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch, phương án bảo vệ trật tự, an toàn xã hội bao gồm: - Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược đảm bảo trật tự, an toàn xã hội là những định hướng tổng thể về mục tiêu dài hạn, cơ bản của đất nước hoặc của địa phương, các Bộ, ngành (trong đó ngành Công an giữ vai trò nòng cốt), gắn với việc huy động các nguồn lực và giải pháp cơ bản theo lộ trình trong bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là cơ sở để hoạch định chính sách, kế hoạch 10 công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Các chiến lược này được điều chỉnh để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của tình hình an ninh trật tự thế giới, khu vực và trong nước. - Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách, các điều kiện cần thiết để đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược bảo vệ trật tự, an toàn xã hội cần xác định đối tượng thụ hưởng chính sách và đối tượng khuyến khích hoặc hạn chế; khi tổ chức thực hiện cần chú ý đến những yếu tố về thời điểm, lĩnh vực, khu vực, vùng, miền, địa phương và phải dự báo được những phản ứng của xã hội (nhất là những đối tượng thụ hưởng chính sách). - Xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án, chương trình quốc gia, phương án, kế hoạch, biện pháp nhằm cụ thể hóa và chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện các mục tiêu chiến lược đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. 1.3.2 Về pháp luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Đây là hình thức quan trọng nhất trong hoạt động của các chủ thể quản lý nhà nước về TTATXH. Các văn bản pháp luật quy định các nguyên tắc xử sự chung, nguyên tắc, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, công dân khi tham gia vào quan hệ QLNN về TTATXH, xác định rõ thẩm quyền và thủ tục tiến hành QLNN về an ninh trật tự, quyền hạn, nghĩa vụ của đối tượng quản lý khi tham gia vào quan hệ QLNN về TTATXH. Hiện nay, khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực TTATXH được Quốc hội, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ ban hành và hướng dẫn đầy đủ. Nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, cá nhân, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước phải thể chế hóa các Luật, Nghị định của Chính phủ để triển khai thực hiện trong ngành và lĩnh vực quản lý của mình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác QLNN về TTATXH cũng như đảm bảo quyển, lợi ích hợp pháp cho công dân; đồng thời thể hiện vai trò trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân người có thẩm quyền trong giải quyết các vấn đề TTATXH. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về hoạt động đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trên cơ sở Hiến pháp (2013) và các văn bản Luật phải phù hợp với thực tiễn công tác bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, tính đến những yếu tố ảnh hưởng từ tình hình thế giới và khu vực đến nền an ninh trật tự của Việt Nam và phải phù hợp với luật pháp quốc tế. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong đấu tranh bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bao gồm cả các cơ quan, tổ chức chuyên trách, bán chuyên trách và các lực lượng tham gia. - Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ trật tự, an toàn xã hội cho các đối tượng có liên quan; tổ chức thực hiện nghiêm minh pháp luật đối với mọi đối tượng, mọi địa bàn, lĩnh vực. 1.3.3. Về kinh tế Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và trình độ dân trí của quốc gia là những điều kiện về vật chất, tinh thần là những yếu tố cơ bản để đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện tốt các nội dung yêu cầu QLNN về TTATXH.Hay nói một cách khác đó là điều kiện cần và đủ để đảm bảo Luật TTATXH có khả năng đi vào cuộc sống ( có tính khả thi). Xuất phát từ điều kiện kinh tế, khả năng xây dựng, tổ chức các công trình, mạng lưới hệ thống cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng đến việc khai thác sử dụng các phương tiện mà Nhà nước quy định các nội dung yêu cầu quản lý và trách nhiệm công dân trong việc chấp hành quy định quản lý. 11 Cùng với các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia, việc xác định nội dung, yêu cầu QLNN về TTATXH còn phải căn cứ vào trình độ dân trí cũng như khả năng, điều kiện, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Do vậy, QLNN về TTATXH nhất thiết phải phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ dân trí của quốc gia, vừa là nguyên tắc cơ bản, vừa là điều kiện khách quan cần và đủ để đảm bảo TTATXH đạt kết quả tốt nhất. 1.3.4. Hội nhập quốc tế Hợp tác quốc tế về đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, công tác bảo vệ an ninh trật tự không chỉ diễn ra trong phạm vi quốc gia và cũng không phải chỉ là hoạt động độc lập của các cơ quan, cán bộ chuyên trách, với sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong nước. Công tác bảo vệ an ninh trật tự hiện nay đã vượt khỏi biên giới quốc gia, có sự hỗ trợ, phối hợp của các cơ quan, tổ chức quốc tế , các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong khuôn khổ luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam. Vì vậy trong QLNN về TTATXH cần tổ chức tốt các mối quan hệ hợp tác quốc tế đa phương và song phương với các nước, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ an ninh trật tự, cụ thể là: Ký kết, gia nhập và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực an ninh trật tự. Trao đổi thông tin, đào tạo cán bộ, trang bị phương tiện phục vụ đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự. Phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo quy định của luật pháp quốc tế và pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.4 Kinh nghiệm quản lý nhà nước về TTATXH 1.4.1 Xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức Do sự buông lỏng quản lý của chính quyền địa phương, tháng 3/2017, trên địa bàn xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức đã xảy ra tình trạng vi phạm trên đất Quốc phòng. Người dân trên địa bàn xã Đồng Tâm đã có đơn thư khiếu tố lên các cơ quan của huyện và TP. UBND TP Hà Nội đã giải quyết, xử lý cán bộ sai phạm. Ngày 30-3-2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an Thành phố Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về hành vi “gây rối trật tự công cộng” theo điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Công an Thành phố đã 3 lần triệu tập các công dân có liên quan lên làm việc nhưng số người này không chấp hành, tiếp tục có các hành vi chống đối. Ngày 15-4-2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố Hà Nội đã áp dụng biện pháp ngăn chặn, bắt giữ 4 công dân về hành vi gây rối trật tự công cộng để điều tra. Ngay sau khi Công an Thành phố triển khai bắt giữ các đối tượng trên, số công dân xã Đồng Tâm đã tập trung đông người bao vây, không cho xe ô tô của các lực lượng làm nhiệm vụ ra khỏi địa bàn ở xã Đồng Tâm; giữ, đập phá 5 xe ô tô của lực lượng chức năng (gồm 1 xe chở quân, 3 xe Innova, 1 xe cứu thương); giữ trái phép 38 cán bộ huyện Mỹ Đức và cán bộ, chiến sỹ Công an thành phố Hà Nội tại Nhà văn hóa thôn Hoành... Căng thẳng tại xã Đồng Tâm kéo dài từ ngày 15 đến 22/4 mới được tháo gỡ hoàn toàn sau cuộc đối thoại giữa Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung với người dân thôn Hoành. Việc một số công dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức lôi kéo, kích động người dân, có các hành vi vi phạm pháp luật với mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây rối an ninh TTATXH trên địa bàn. Đây là một hành động coi thường pháp luật Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh TTATXH trên địa bàn xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung. 1.4.2 Huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội Tại Kim Nỗ (Đông Anh – Hà Nội), trong ngày khởi công Dự án xây dựng sân gôn (năm 2004) đã có gần 400 nông dân bao vây tấn công lực lượng bảo vệ và quan khách với lý do Dự án khởi động kéo dài, gây thiệt hại nhiều cho người dân có đất bị giải phóng mặt bằng và doanh nghiệp đã không thực hiện lời hứa với người dân trước khi thu hồi đất. Họ chửi bới, ném gạch đá, chai xăng vào quan khách tham dự buổi lễ; xô xát trở lên căng thẳng, hơn 10 chiến sỹ công an bị thương. Những đối tượng quá khích còn đập nhát một chiếc xe máy của nhân 12 viên bảo vệ. Một số phương tiện, máy móc thi công bị hư hỏng; nhiều phương tiện hỗ trợ của lực lượng cảnh sát cũng bị mất mát và hư hỏng. Để tránh những thương vong đáng tiếc, lãnh đạo huyện Đông Anh đã phải ra lệnh ngừng buổi lễ thi công. 1.4.3 Bài học kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về TTATXH được rút ra Một là, tuyệt đối tin vào sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước; hoàn thiện chính sách, luật pháp, các văn bản về trật tự an toàn xã hội. Hai là, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa công an huyện và các ngành, các cấp trong quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Ba là, làm tốt công tác quản lý đất đai, đặc biệt quan tâm hồ sơ địa chính ở cấp xã, cấp huyện tạo cơ sở cho việc quản lý đất đai, không để diễn ra tình trạng lấn chiếm đất đai. Bốn là, giải quyết đơn thư, khiếu kiện của người dân phải được giải quyết dứt điểm từ cơ sở, nếu có khó khăn phải báo cáo xin ý kiến của cấp có thẩm quyền. Năm là, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền luật pháp và ý thức chấp hành của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí của nhân dân. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 An ninh quốc gia cùng với Trật tự an toàn xã hội tạo nên sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước, là hàng rào an toàn trước những nguy cơ tấn công từ mọi phía, bằng mọi thủ đoạn của các thế lực thù địch với Việt Nam, đồng thời góp phần củng cố vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Giữ cho xã hội được an toàn, có trật tự, kỷ cương cũng có nghĩa là tạo được môi trường sống yên ổn, góp phần đảm bảo cuộc sống vui vẻ, lành mạnh, hạnh phúc cho mọi người, vì vậy đây cũng là lĩnh vực được quần chúng quan tâm và sẵn sàng tham gia. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do đó, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cũng là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó lực lượng công an nhân dân có vai trò là nòng cốt, xung kích. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam rất quan tâm đến lĩnh vực này và đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản pháp luật làm cơ sở, hành lang pháp lý cho công tác quản lý về trật tự an toàn xã hội cả ở tầm vĩ mô, cả ở tầm cơ sở, trong đó có quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của công an phường. Bước vào thời kỳ mới, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội lại càng quan trọng. Tình hình chính trị, kinh tế trên thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; những khó khăn trong nước do tác động từ bên ngoài và cả những tồn tại từ những giai đoạn trước để lại đã bộc lộ và tác động tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Cộng vào đó, tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp, có mặt, những lĩnh vực đang có chiều hướng gia tăng, gây lo ngại, bức xúc xã hội... Tình hình trên đây đặt ra cho công an huyện, với tư cách là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt trận đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội giữ gìn an ninh trật tự tại cơ sở, đồng thời là chủ thể quan trọng, trực tiếp trong quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện nhiều vấn đề mới cần giải quyết. Trước hết, cần nhận thức sâu sắc hơn nữa rõ về vai trò, vị trí, nhiệm vụ của mình là góp phần đắc lực vào sự nghiệp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững an ninh, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với tội phạm, tệ nạn xã hội, giảm thiểu hành vi vi phạm pháp luật... Từ đó, công an huyện Thanh Trì cần phải được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, góp phần quan trọng vào việc tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. 13 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ, HÀ NỘI 2.1. Khái quát huyện Thanh Trì 2.1.1 Về lịch sử, vị trí địa lý và đặc điểm dân cư Trước kia vùng đất huyện Thanh Trì nằm trong bộ Giao Chỉ; sang đời Thục An Dương Vương, Thanh Trì thuộc bộ Long Biên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, Thanh trì đã có nhiều lần tách, nhập và thay đổi địa giới hành chính. Hiện nay, huyện Thanh Trì là một đơn vị hành chính thuộc thành phố Hà Nội, phía Bắc giáp với quận Hoàng Mai, phía Đông giáp với sông Hồng, phía Nam giáp với huyện Thường Tín, phía Tây giáp với quận Hà Đông, quận Thanh Xuân, huyện Thanh Oai; có 15 xã và một thị trấn (gồm các xã Tân Triều, Thanh Liệt, Hữu Hòa, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Vĩnh Quỳnh, Đại Áng, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, Liên Ninh, Đông Mỹ, Duyên Hà, Yên Mỹ, Vạn Phúc, Tứ Hiệp và thị trấn Văn Điển) với tổng diện tích đất tự nhiên là 63,927 km2. Trong những năm gần đây, huyện Thanh Trì đã và đang được đô thị hóa với tốc độ nhanh; nhiều khu, cụm công nghiệp và khu đô thị được xây dựng, do vậy số người tỉnh ngoài về huyện cư trú, tạm trú, lao động, học tập ngày càng đông. Dân cư trên địa bàn huyện hiện có 68.154 hộ, 231.834 khẩu (so với tháng 12/2003 tăng 25.398 hộ, 56.212 khẩu = 26,08%); hộ, nhân khẩu đăng ký tạm trú là 5.406 hộ, 24.240 khẩu; ngoài ra trên địa bàn huyện hiện có 3.379 nhân khẩu đăng ký lưu trú, 683 nhân khẩu tạm vắng và 34 nhân khẩu là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tạm trú trên địa bàn huyện. Mật độ dân cư toàn huyện là 3.626 người/km2 (so với tháng 12/2003 tăng 878 người/km2). Bình quân diện tích đất canh tác ở các xã sản xuất nông nghiệp là 183,3 m2/nhân khẩu. Đây là điều kiện thận lợi để huyện Thanh Trì phát triển mạnh về kinh tế nhưng cũng có những tác động không nhỏ đến công tác đảm bảo TTATXH 2.1.2. Về hệ thống chính trị và tình hình kinh tế - xã hội Đến nay Huyện ủy Thanh Trì có 53 tổ chức cơ sở Đảng (28 Đảng bộ và 25 Chi bộ trực thuộc Huyện ủy) với 8.493 đảng viên. Từ năm 2004 đến nay Huyện ủy đã ban hành 14 Chỉ thị, 12 Nghị quyết về công tác đảm bảo TTATXH. Huyện ủy phân công đồng chí Phó bí thư Thường trực trực tiếp sinh hoạt và lãnh đạo, chỉ đạo công tác của Đảng ủy Công an huyện Thanh Trì; đồng chí Bí thư Đảng ủy – Trưởng Công an huyện luôn được cơ cấu trong Ban Thường vụ Huyện ủy. Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân huyện, các xã, thị trấn, Ủy ban mặt trật tổ quốc và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực; đổi mới trong công tác quản lý điều hành, quan tâm giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh, lắng nghe ý kiến của nhân dân để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, củng cố và xây dựng chính quyền. Huyện Thanh Trì từ xa xưa đã lấy nông nghiệp làm chủ yếu, việc chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng được chú trọng. Một số làng nghề, món ăn đặc sản, cây trồng của Thanh Trì nổi tiếng khắp đất nước. Trong 5 năm trở lại đây, cán bộ và nhân dân huyện Thanh Trì đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn đưa kinh tế huyện tiếp tục tăng trưởng: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt từ 15,4 – 15,5%/năm, thu ngân 14 sách tăng nhanh, tỷ lệ tăng thu ngân sách hàng năm đạt 16%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm từ 5,28% (năm 2010) xuống dưới 1% (năm 2015). Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, đồng bộ, toàn diện và đạt kết quả tốt. Đến nay, 12/15 xã đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới (đạt 80%), vượt 02 xã so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thanh Trì lần thứ XXII nhiệm kỳ 2010 – 2015 đề ra. Công tác giáo dục đào tạo được quan tâm và đạt được nhiều kết quả tốt; chất lượng giáo dục trên địa bàn huyện tiếp tục được nâng lên. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trên địa bàn tiếp tục được chú trọng. Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được triển khai kịp thời, hiệu quả, không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn; không có dịch bệnh lớn xảy ra. 2.2 Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, Hà Nội. 2.2.1. Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội. 2.2.1.1 Xây dựng kế hoạch thực hiện quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội Công tác tham mưu cho Huyện ủy, UBND huyện về công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hội Để thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì, bên cạnh việc chủ động, trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lý nhà nước về an ninh trật tự, an toàn xã hội; lực lượng Công an huyện luôn chủ động triển khai thực hiện các biện pháp, công tác để nắm tình hình, từ đó tham mưu cho Huyện ủy, UBND huyện ban hành các văn bản chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, cấp ủy chính quyền các xã, thị trấn về công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội góp phần thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn. 2.2.1.2 Tổ chức chính trị - xã hội huyện Thanh Trì trong công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội Xác định Mặt trận Tổ quốc huyện và các tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức quần chúng trực tiếp gắn với hoạt động sống thường nhật của cộng đồng dân cư. Vì vậy nếu lực lượng công an là nòng cốt trong điều tra, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật thì các tổ chức chính trị - xã hội phải làm tốt công tác nắm tình hình, tuyên truyền giải thích và vận động nhân dân trong việc chấp hành pháp luật và thực hiện các nội dung xây dựng phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tính đến tháng 7/2017, toàn Công an huyện Thanh Trì có 364 cán bộ chiến sỹ (Ban chỉ huy Công an huyện có 07 đồng chí) được bố trí công tác tại 15 đội, đồn, Công an thị trấn, trong đó: - 11 đơn vị nghiệp vụ (73,3% tổng số đầu mối) gồm: đội Tham mưu, Chính trị - hậu cần, An ninh, Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH, Cảnh sát trật tự - phản ứng nhanh, Cảng sát giao thông, Điều tra tổng hợp, Cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH, Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế & chức vụ, Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp. - 04 đơn vị quản lý địa bàn (26,7% tổng số đầu mối) gồm: Đồn Công an cầu Bươu (phụ trách 05 xã: Tân Triều, Thanh Liệt, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Hữu Hòa); đồn Công an Đông Mỹ (phụ trách 05 xã: Đông Mỹ, Duyên Hà, Vạn Phúc, Yên Mỹ, Tứ Hiệp); đội xây dựng phong trào và phụ trách xã về ANTT (phụ trách 05 xã: Vĩnh Quỳnh, Đại Áng, Ngũ Hiệp, Ngọc Hồi, Liên Ninh); Công an thị trấn Văn Điển. 2.2.2.Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội. 15 Lực lượng Công an chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, đoàn thể tuyên truyền, giáo dục, tổ chức vận động nhân dân nâng cao ý thức, trách nhiệm và năng lực bảo vệ an ninh trật tự, tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Trong những năm qua, công an huyện Thanh Trì đã triển khai làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật với nhiều nội dung và hình thức phù hợp để nhân dân nắm vững pháp luật, chấp hành nghiêm pháp luật. 2.2.3 . Kết quả quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực. 2.2.3.1 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm Trong quản lý nhà nước về TTATXH tại cơ sở, công an huyện Thanh Trì đã chủ động bàn bạc, đề xuất những hình thức, biện pháp phối hợp với các ban ngành, đoàn thể và nhân dân tăng cường các hoạt động phòng ngừa xã hội, hạn chế môi trường, điều kiện dễ phát sinh tội phạm. Trong 5 năm qua, có hàng trăm kẻ phạm tội đã bị phát hiện, đưa ra truy tố, xét xử, chịu những hình phạt nghiêm khắc của pháp luật trên các lĩnh vực như: Về vi phạm hình sự, mua bán người, vi phạm ma túy, vi phạm về quản lý kinh tế, môi trường,. 2.2.3.2 Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội trên lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội. Công an huyện Thanh trì tham mưu cho UBND huyện có kế hoạch chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan, doanh nghiệp, các xã, thị trấn trên địa bàn huyện xây dựng, triển khai, tổ chức thực hiện các kế hoạch, chuyên đề và thực hiện công tác đảm bảo TTATXH một cách chủ động, hiệu quả. Phát hiện và giải quyết kịp thời mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện; thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh hoạt động của 200 cơ sở kinh doanh có điều kiện và dịch vụ nhạy cảm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_trat_tu_an_toan_xa_hoi.pdf
Tài liệu liên quan