Tóm tắt Luận văn Quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện thể chế, các luật tạo hành lang pháp lý trong lĩnh vực y tế, trong

đó tập trung dự án Luật gồm Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Bảo hiểm y tế,

Luật Dân số, Luật phòng bệnh, Luật Chuyển đổi giới tính, Luật Lấy ghép hiến

mô, bộ phận cơ thể người. Các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý về y tế

tích cực phối hợp chặt chẽ trong việc rà soát, sửa đổi bổ sung Luật BHYT đề nghị

được đưa một số nội dung liên quan đến khám, chữa bệnh cho người có thẻ

BHYT trong Luật khám bệnh, chữa bệnh sửa đổi theo một số nguyên tắc đã được

quy định tại Nghị quyết số 20/NQ-TW 2013 .

pdf26 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 07/03/2022 | Lượt xem: 456 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư sau: Pháp luật về quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe là tổng thể những nguyên tắc, quy phạm do Nhà nước Việt Nam ban hành hoặc thừa nhận để quy định về các quyền lợi của mọi người dân trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc sức khỏe, và hệ thống các biện pháp pháp tổ chức của Nhà nước, của xã hội để bảo vệ, bảo đảm quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe được thực thi trên thực tế. 1.2.2. Vị trí, vai trò của quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe Sau khi nghiên cứu các quy định của pháp luật về sức khỏe có thể nhận thấy vai trò của quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe như sau: Thứ nhất, bảo vệ chăm sóc sức khỏe là một quyền con người cơ bản, không thể thiếu để thực hiện các quyền khác. Mọi người có quyền được hưởng tiêu chuẩn chăm súc sức khỏe cao nhất có thể đạt được để sống một cuộc sống có nhân phẩm. Hiện thực hóa quyền được chăm súc sức khỏe có thể được thực hiện thông qua nhiều cách tiếp cận bổ trợ nhau, chẳng hạn như xây dựng chính sách y tế, hoặc thực hiện các chương trình y tế do Nhà nước triển khai, hoặc ban hành 8 những văn bản pháp luật cụ thể để điều chỉnh. Thứ hai, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe liên quan mật thiết với và phụ thuộc vào việc hiện thực hoá các quyền con người khác, bao gồm các quyền sống, quyền về lương thực, nhà ở, việc làm, giáo dục, nhân phẩm, bình đẳng, không phân biệt đối xử, cấm tra tấn, bảo vệ đời tư, tiếp cận thông tin, và các quyền tự do lập hội, hội họp, đi lại. Những quyền và tự do này là những yếu tố hợp thành của quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe. Thứ ba, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe không chỉ được hiểu như là một quyền được khỏe mạnh mà bao gồm các tự do và quyền khác, ví dụ như tự do trong việc làm chủ về sức khỏe và thân thể, kể cả về tình dục và sinh sản, tự do không bị can thiệp, chẳng hạn không bị tra tấn, điều trị và thí nghiệm y tế mà không được sự đồng ý, quyền bình đẳng về cơ hội trong việc chăm sóc sức khỏe... Thứ tư, thuật ngữ “tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất có thể đạt được” đề cập đến những tiền đề sinh học và kinh tế-xã hội của từng cá nhân và nguồn lực sẵn có của Nhà nước. Có rất nhiều khía cạnh không thể được giải quyết chỉ trong phạm vi mối quan hệ giữa Nhà nước với cá nhân. Đó là những yếu tố như gien di truyền, tính nhạy cảm của cá nhân với tình hình sức khỏe của bản thân, lối sống và điều kiện sống đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của mỗi cá nhân. Vì vậy, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe được hiểu là quyền được thụ hưởng những cơ sở vật chất, hàng hóa, dịch vụ và điều kiện cần thiết để đạt được tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất có thể. Thứ năm, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe phụ thuộc vào những yếu tố cơ bản là: Khả năng sẵn có về cơ sở chăm sóc sức khỏe và y tế công, các loại hàng hoá và dịch vụ, cũng như các chương trình chăm sóc sức khỏe của Nhà nước. Khả năng có thể tiếp cận của mọi người với các cơ sở chăm sóc sức khỏe, hàng hoá và dịch vụ y tế . Thứ sáu, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe, giống như tất cả các quyền con người khác, đặt ra ba cấp độ nghĩa vụ đối với Nhà nước đó là: nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện. 1.3. Bảo đảm quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe 1.3.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe Bình đẳng và không phân biệt đối xử Nguyên tắc không phân biệt đối xử bảo đảm rằng quyền con người được thực thi mà không phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào dựa trên chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị hoặc ý kiến khác, nguồn gốc xuất 9 thân hoặc địa vị xã hội, tài sản, hoặc tình trạng khác chẳng hạn như khuyết tật, tuổi tác, hôn nhân và gia đình, khuynh hướng tình dục và tình trạng sức khỏe, nơi cư trú, tình hình kinh tế và xã hội. Khả năng sẵn có Liên quan tới nhu cầu cấp thiết phải có đủ số lượng cho hoạt động của các cơ sở y tế công cộng và chăm sóc sức khỏe, hàng hóa và dịch vụ, cũng như các chương trình y tế cho tất cả mọi người. Tính sẵn có có thể được đo lường thông qua phân tích dữ liệu phân tách thành các phân tầng khác nhau và đa dạng bao gồm căn cứ theo độ tuổi, giới tính, nơi cư trú và tình trạng về kinh tế, xã hội thông qua khảo sát định tính để nắm được mức độ bao phủ về bảo hiểm và lực lượng nguồn nhân lực trong ngành y tế. Phổ quát, không thể chia cắt và phụ thuộc, quan hệ lẫn nhau Đặc tính cơ bản và quan trọng của quyền con người là mang giá trị phổ quát và không thể tước đoạt. Các quyền được áp dụng bình đẳng như nhau và cho tất cả mọi người, ở mọi nơi, không phân biệt. Các tiêu chuẩn quyền con người đối với thực phẩm, sức khỏe, giáo dục, không bị tra tấn, đối xử vô nhân đạo hay hạ thấp con người đều có liên quan đến nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó sự cải thiện, nâng cao hưởng thụ một quyền nào đó sẽ tạo điều kiện cho sự tiến bộ, hưởng thụ các quyền khác của con người. Tương tự như vậy, việc tước đi một quyền cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến những quyền khác. Khả năng tiếp cận Yêu cầu các cơ sở y tế, hàng hóa và dịch vụ công phải bảo đảm rằng người dân có thể dễ dàng tiếp cập được. Khả năng tiếp cập có bốn khía cạnh liên quan như sau: Không phân biệt đối xử, Khả năng tiếp cận thể chất, Khả năng tiếp cận kinh tế (khả năng chi trả), Khả năng tiếp cận thông tin. Sự tham gia Việc tham gia đòi hỏi phải đảm bảo rằng Nhà nước, tổ chức và công dân có quyền sở hữu và kiểm soát các quá trình xây dựng chương trình, chính sách phát triển y tế, sức khỏe trong tất cả các giai đoạn từ lập chương trình, kế hoạch, phân tích, thực hiện, giám sát và đánh giá chính sách về sức khỏe cộng đồng. Khả năng chấp nhận được Liên quan đến vấn đề tôn trọng đạo đức ngành y, phù hợp với yếu tố văn hóa. Khả năng chấp nhận được đòi hỏi các cơ sở y tế, hàng hóa, dịch vụ và chương trình bảo vệ, chăm sóc sức khỏe phải lấy con người làm trung tâm và phục vụ 10 cho nhu cầu cụ thể của các nhóm dân cư khác nhau và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về y đức để vì niềm tin và sự hài lòng của người bệnh. Khi Nhà nước xây dựng, thực hiện chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe phải luôn tính đến khả năng chi trả chi phí các dịch vụ này. Phải chắc chắn rằng toàn bộ người dân đều có khả năng chi trả cho việc bảo vệ chăm sóc sức khỏe của cá nhân mình. Nhà nước luôn có chính sách hỗ trợ một phần hoặc toàn phần cho các đối tượng yếu thế trong xã hội như: Người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, dân tộc thiểu số, Người già, trẻ em, người khuyết tật Chất lượng Các cơ sở chăm sóc sức khỏe, hàng hóa và dịch vụ về sức khỏe phải được kiểm soát, được cơ quan Nhà nước phê duyệt một cách khoa học dựa trên các tiêu chuẩn về y tế. Chất lượng là một thành phần chính của tiêu chuẩn y tế, gồm cả về kinh nghiệm cũng như nhận thức về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe. Dịch vụ y tế chất lượng phải gồm các tiêu chuẩn sau đây: An toàn: tránh gây thương tích cho những người cần được sự chăm sóc sức khỏe; Hiệu quả: cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe dựa trên bằng chứng cho những người có nhu cầu; Lấy người dân làm trung tâm: cung cấp dịch vụ chăm sóc đáp ứng sở thích, nhu cầu và giá trị cá nhân; Kịp thời: Các dịch vụ về sức khỏe phải được tiến hành nhanh chóng, khi có nhu cầu chăm sóc sức khỏe, người dân được đáp ứng kịp thời, giảm thời gian chờ đợi và đôi khi sự đáp ứng chậm trễ có thể gây hại cho sức khỏe thậm chí tính mạng của người. Công bằng: cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe không thay đổi về chất lượng dựa trên giới tính, dân tộc, vị trí địa lý và tình trạng kinh tế, xã hội của người bệnh; đảm bảo người có tiền và người nghèo, người có địa vị trong xã hội và người yếu thế cùng được hưởng các chế độ như nhau trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Tích hợp: cung cấp dịch vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe tích hợp với các dịch vụ liên quan như: phòng chống dịch bệnh, môi trường trong lành, thực phẩm an toànbảo đảm có sẵn đầy đủ trong suốt cuộc đời con người; Tiết kiệm: tối đa hóa lợi ích của các nguồn lực có sẵn và tránh lãng phí. 1.3.2. Các biện pháp bảo đảm quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe Các biện pháp bảo đảm bằng pháp luật 11 Các biện pháp áp dụng hình phạt của Nhà nước Xử lý theo pháp luật dân sự: Xử lý theo pháp luật hình sự: Ngoài các hình phạt trên người vi phạm còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ xung như: Cấm đảm nhiệm những chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Tiêu hủy tang vật; Khôi phục lại tình trạng ban đầu; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền; bồi thường thiệt hại Kết luận chương 1 Qua phân tích chương 1: “Cơ sở lý luận về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe”, tác giả rút ra kết luận sau: 1. Quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe là một quyền tự nhiên, cơ bản, tối cao của con người nhưng không phải là quyền tuyệt đối, xét theo các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế hiện hành. Quyền này có nội hàm rộng, không chỉ liên quan trong lĩnh vực y tế đến việc bảo vệ các cá nhân khỏi bị tước đoạt tính mạng một cách tùy tiện, mà còn gắn với những điều kiện vật chất và xã hội bảo đảm cho sự tồn tại và an ninh của con người. Với nội hàm rộng như vậy, bên cạnh những khía cạnh đã được khẳng định rõ ràng, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe vẫn còn những nội dung đang được tiếp tục nghiên cứu làm rõ. 2. Quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các quyền khác của con người. Quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe là một phần tất yếu không thể tách rời của quyền con người. Ở Việt Nam, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe mặc dù không được quy định riêng trong một văn bản cụ thể nhưng đã được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Khung pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe được ghi nhận ở nhiều văn bản pháp luật hiện hành, mà nền tảng là Hiến pháp 2013, và một số bộ luật, luật liên quan. 3. Pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe bao gồm tổng hợp các quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền này trên cơ sở quy định pháp luật và nguyên tắc. Việc thực hiện pháp luật bị chi phối bởi hai yếu tố quan trọng đó là yếu tố về pháp luật và yếu tố ý thức và ý chí của các chủ thể tham gia vào hoạt động đảm bảo quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe. Những vấn đề được nghiên cứu ở Chương 1 sẽ là cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe. 12 4. Ở Việt Nam, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe trực tiếp quy định trong các bản Hiến pháp, và đã được bảo vệ từ lâu trong hệ thống pháp luật thông qua các quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm, cũng như các quyền được trợ giúp của những cá nhân và nhóm yếu thế. Nhìn chung, hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam đã tương thích với những nguyên tắc cơ bản về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe trong luật quốc tế. Mặc dù vậy, giống như nhiều quốc gia khác, pháp luật Việt Nam vẫn cần được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện và tương thích ở mức độ cao hơn với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền này. Từ những định hướng của Đảng trong Chiến lược cải cách tư pháp và động lực từ những phát triển tiến bộ to lớn về chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, có thể tin tưởng rằng khuôn khổ pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe của Việt Nam tới đây sẽ được hoàn thiện một cách đáng kể. Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ CHĂM SÓC SỨC KHỎE VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Quy định pháp luật hiện hành về quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe 2.1.1. Quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trong Hiến Pháp 2013 Quyền con người nói chung và quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe là tiếng nói chung, mục tiêu chung của xã hội loài người. Pháp luật về quyền con người ghi nhận các tư tưởng và lý luận về quyền con người. Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe thúc đẩy sự phát triển tự do, nhân phẩm và hạnh phúc của mỗi người, mỗi quốc gia và văn minh nhân loại. Sự ghi nhận các quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người trong Hiến pháp Việt Nam thể hiện quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Kế thừa và phát huy các bản Hiến pháp cữ, Hiến pháp năm 2013 đã đặt nền móng cho thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước ta. So với các bản hiến pháp trước đây, Hiến pháp 2013 có những phát triển mới trong chế định về quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người. Đó là: 2.1.2. Quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trong các VBQPPL về y tế Hiện nay, hệ thống pháp luật về y tế gồm 1137 văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp và gián tiếp điều chỉnh các hoạt động về sức khỏe : Điển hình là Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm (1989). Luật gồm 55 điều được chia làm 11 chương với phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, liên quan đến hoạt động của nhiều ngành như y tế, vệ sinh, phòng chống dịch bệnh, kiểm dịch, thể thao, phục hồi 13 chức năng, điều dưỡng và kế hoạch hoá gia đình. Nhiều quy định của Luật thể hiện một tầm nhìn có tính chiến lược như quy định “bảo vệ sức khoẻ là sự nghiệp của toàn dân" mà không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành y tế. Bên cạnh ngành y tế thì ngành thể dục thể thao, ngành lao động thương binh xã hội cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Luật cũng quy định quyền của mọi công dân Việt Nam “được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể; được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường sống và được phục vụ chuyên môn về y tế”. Luật còn quy định trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong việc đảm bảo vệ sinh trong sinh hoạt và lao động, vệ sinh công cộng, phòng và chống dịch bệnh 2.1.3. Quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trong các bộ luật khác Trên tinh thần Hiến pháp 2013, các bộ luật, luật khác có liên quan cũng thể hiện khá rõ nét về quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe. 2.1.4. Quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trong các Văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới là một văn bản về chính sách y tế. Có thể coi đây là chính sách của các chính sách y tế. Trong Nghị quyết 20-NQ/TW đã đưa ra năm quan điểm chỉ đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới. Chỉ thị 06-CT/TW năm 2002 của Ban Bí thư về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở đã xác định rõ mạng lưới y tế cơ sở bao gồm y tế thôn, bản, xã, phường, thị trấn, quận, huyện, thị xã; là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo đảm cho mọi người dân được chăm sóc sức khỏe cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Quyết định số 122/QĐ-TT ngày 10-01-2013 về Chiến lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030, đã chỉ rõ: “Sức khỏe là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội, đầu tư cho việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng là đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội”. 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay 2.2.1. Bối cảnh kinh tế xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2016-2020 2.2.2. Một số thành tựu đạt được của ngành y tế Với quan điểm "Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân 14 dân là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách và có cơ chế, chính sách huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân"[1], Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện hệ thống y tế hiện đại, từng bước đưa các chỉ tiêu y tế vượt mức đề ra, tạo điều kiện để người dân được tiếp cận, sử dụng y tế chất lượng cao ngay tại địa phương. Việt Nam cũng đã đạt được nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ giai đoạn từ 1990 đến 2019 liên quan đến lĩnh vực y tế như: Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi đã giảm từ 37‰ năm 1990 xuống còn 17,3‰ vào năm 2015 và 16,7‰ năm 2019, Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi cũng đã giảm từ 51,5‰ xuống còn 21,6‰ vào năm 2015 và 20,9‰ vào 2019, Tỷ lệ tử vong ở người mẹ mang thai giảm từ 139‰ năm 1990 xuống còn 56‰ vào năm 2015 và 54 ‰ năm 2019. 2.2.3 Những thách thức trong thi hành pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe Việt Nam hiện nay Mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng khen ngợi, nhưng nếu xem xét đầy đủ các khía cạnh chúng ta vẫn còn thấy y tế Việt Nam còn một số vấn đề như sau: Hệ thống y tế cồng kềnh, nhiều đầu mối, chưa đồng bộ, thiếu ổn định, hoạt động chưa hiệu quả, phối hợp giữa y tế công và y tế tư nhân chưa chặt chẽ để phù hợp với biến đổi mô hình bệnh tật, mất an toàn thực phẩm, biến đổi khí hậu, già hóa dân số và chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của Nhân dân. 2.3. Đánh giá chung về thực hiện bảo đảm quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Như đã phân tích ở trên, quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe phụ thuộc rất nhiều vào việc quyền này có được thừa nhận, tôn trọng và thực hiện trên thực tế hay không phụ thuộc rất nhiều vào pháp luật có kiên quan. Pháp luật hiện hành về quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam không quy định trọn vẹn trong một VBQPPL cụ thể mà các quyền này được ghi nhận ở các bộ luật, luật chuyên ngành có liên quan. 2.3.1. Thực trạng thực hiện quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay Kế thừa và phát triển các quy định, nguyên tắc của Hiến pháp 2013 về quyền con người: như quyền sống, quyền không bị tra tấn, quyền được bảo đảm an sinh xã hội Tất cả những quyền trên đã đáp ứng những nhu cầu mới nảy sinh về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trong thời kỳ đổi mới đất nước. Trên cơ sở Hiến pháp, hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ngày càng được hoàn thiện. Nhà nước đã thông qua nhiều bộ luật, luật bao phủ hầu hết các lĩnh vực của 15 đời sống xã hội và nhìn chung tương thích với những nguyên tắc, quy định của Luật pháp quốc tế về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe. Có thể nhận thấy hiệu quả của các quy phạm pháp luật thông qua các thành tựu như sau: “Năm 2008, năm đầu tiên triển khai BHXH tự nguyện, có 6,11 nghìn người tham gia thì đến tháng 12/2019 con số này là hơn 570 nghìn người (tăng gần 100 lần). Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng tăng nhanh với 5,9 triệu người khi bắt đầu triển khai năm 2009 lên 15,77 triệu người ở thời điểm tháng 12/2019. Đầu năm 1990, sau khi thực hiện một số mô hình thí điểm BHYT. Nghị định số 299-HĐBT ngày 15/8/1992 về việc ban hành điều lệ BHYT. Sau 2 năm thực hiện, hệ thống tổ chức BHYT từ Trung ương đến địa phương đã hình thành với sự quản lý của BHYT Việt Nam, trực thuộc Bộ Y tế. Năm 2002, Chính phủ ban hành Quyết định 20/2002/QĐ-TTg chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam. Kể từ đây hòa trộn 2 chính sách an sinh xã hội quan trọng là BHXH, BHYT thống nhất thực hiện từ Trung ương xuống địa phương, theo mô hình một quỹ quốc gia”. Đặc biệt, BHYT là chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của quốc gia để bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, với nhiều lần sửa đổi, bổ sung, chính sách BHYT phát triển mạnh mẽ, chế độ ngày càng hoàn thiện, đúng đắn, vai trò của BHYT từng bước khẳng định trong hệ thống chính sách, thực sự trở thành những chính sách trụ cột của hệ thống an sinh xã hội. Ngày 23/11/2009, Quốc hội đã thông qua Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Ngay sau Luật được ban hành, Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ, ngành đã ban hành hàng loạt văn bản hướng dẫn thi hành luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh ra đời đã tạo hành lang pháp lý vô cùng quan trọng cho công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh. Cụ thể: Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã góp phần chuẩn hóa chất lượng của hoạt động khám bệnh, chữa bệnh thông qua việc quy định điều kiện tối thiểu để cấp chứng chỉ hành nghề cho người hành nghề và giấy phép hoạt động cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Hơn nữa, Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã góp phần tăng cường khả năng tiếp cận với dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của người dân. Ngài ra, Luật Khám bệnh, chữa bệnh cũng góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, tạo hành lang pháp lý để y học Việt Nam đã tiếp cận được với các kỹ thuật mới, phương pháp mới, kỹ thuật y khoa tiên tiến, hiện đại hàng đầu thế giới, góp phần làm tăng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam ngày càng được cải thiện. Nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao sức khỏe người dân, phòng chống dịch 16 bệnh, nâng cao chất lượng công tác dân số, 31/7/2017 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phê duyệt Chương trình Mục tiêu y tế- dân số giai đoạn 2016- 2020. Trong những năm thực hiện, chương trình đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Cụ thể, mạng lưới y tế Việt Nam được phát triển rộng khắp, cùng với Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007 đã góp phần kiểm soát được các bệnh, dịch mới nổi, không có dịch lớn xảy ra, tiếp tục giảm số mắc, số tử vong của nhiều bệnh dịch nguy hiểm, bảo vệ thành quả thanh toán bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh, duy trì tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ trên 95% cho trẻ em dưới 1 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em thể nhẹ cân đã giảm từ 17,5% năm 2010 xuống còn 15,3% năm 2013 và giảm xuống còn 13% năm 2019. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em thể thấp còi đã giảm từ 29,3% năm 2010 xuống còn 25,9% năm 2013 và 23,3% năm 2019. Việt Nam cũng triển khai được năng lực giám sát xét nghiệm rất tốt. Tất cả bệnh truyền nhiễm mới nổi đến nay, Việt Nam đều có khả năng xét nghiệm và phát hiện, từ MERS-CoV, Ebola, hay cúm A/H7N9 và rất đáng tự hào khi Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới thành công trong trong việc khống chế dịch COVID-19, chữa trị không để ca tử vong nào (Tính đến hết tháng 4/2020) Hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm hoạt động hiệu quả từ giám sát cộng đồng, giám sát tại cửa khẩu, tại phòng xét nghiệm, giám sát tại vùng bất thường liên quan đến yếu tố dịch tễ đều được báo cáo, sàng lọc. Luật Bảo vệ môi trường được áp dụng từ năm 2014 đã hoàn thiện thể chế, chính sách, quy định pháp luật về Bảo vệ môi trường phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất về môi trường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về môi trường, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong lĩnh vực sống trong môi trường trong lành của con người. Hệ thống VBQPPL về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm ở Việt Nam tương đối toàn diện và phong phú, bao gồm các lĩnh vực như an toàn sức khỏe cộng đồng, quy định về kiểm dịch động thực vật, hệ thống quy định về kinh doanh, xuất khẩu và nhập khẩu thực phẩm. Cùng với các văn bản theo hệ thống pháp luật về VSATTP, nhiều văn bản luật, pháp lệnh có liên quan đến công tác kiểm soát VSATTP cũng đã được ban hành như Luật Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Thương mại, Luật Quảng cáo, Luật Hình sự, Pháp lệnh Thú y, Pháp lệnh Bảo vệ thực vật,... và hàng loạt các 17 văn bản dưới luật cũng được ban hành. Các văn bản nói trên đã tạo hành lang pháp lý cho công tác kiểm soát VSATTP trong xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) đã được tiếp cập theo hướng mới, chuyển từ phương thức quản lý tiền kiểm sang hậu kiểm (quản lý dựa trên tiêu chuẩn, quy chuẩn công bố áp dụng), từ quản lý theo phương thức kiểm tra VSATTP theo công đoạn sang quản lý theo quá trình, theo chuỗi cung cấp thực phẩm. Bên cạnh những nỗ lực trong việc hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật quốc gia về bảo đảm và thúc đẩy quyền bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Trong những năm qua Việt Nam luôn chủ trương đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền, đặc biệt là việc tham gia thực hiện về cơ bản đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người nhằm thể hiện quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước ta trong việc thúc đẩy và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản cho người dân Việt Nam theo đúng các chuẩn mực quốc tế. Ngay sau đó, đến nay Việt Nam đã trở thành thành viên của hầu hết các công ước quốc tế quan trọng khác liên quan đến nhân quyền như: Việt Nam đã tham gia cả hai Công ước quốc tế cơ bản về Nhân quyền năm 1966 (ICCPR, ICESCR) và một số điều ước quốc tế khác về quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như Công ước về Quyền trẻ em 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật (2006), Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người... Trong năm 2019, Việt Nam cũng đã bảo vệ Báo cáo quốc gia thực thi Công ước về các quyền dân sự, chính trị, một trong những công ước được sự quan tâm cao của dư luận quốc tế. Phiên bảo vệ đã diễn ra thành công trên tinh thần trao đổi thẳng thắn. Việt Nam đã giải đáp rõ ràng với lập luận vững chắc về chính sách và pháp luật của Việt Nam về quyền con người, cũng nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_van_quyen_duoc_bao_ve_cham_soc_suc_khoe_o_viet.pdf