Mục lục
Mục lục 1
MỞ ĐẦU 41. Đặt vấn đề .4
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .5
2.1. Ý nghĩa khoa học.5
2.2. Ý nghĩa thực tiễn .5
3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu.6
3.1. Mục đích nghiên cứu.6
3.2. Mục tiêu nghiên cứu .6
4. Đối tƣợng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .7
5.1. Phương pháp chọn mẫu .7
5.2. Phương pháp thu thập thông tin .7
5.2.1. Các phương pháp thu thập thông tin được sử dụng trong khuôn khổ dự án.7
5.2.1.1 Thảo luận nhóm . 7
5.2.1.2. Phỏng vấn cấu trúc. 8
5.2.1.3. Phỏng vấn bán cấu trúc. 8
5.2.2. Các phương pháp thu thập thông tin được chính tác giả sử dụng .8
5.2.2.1. Phƣơng pháp quan sát. 8
5.2.2.2. Phƣơng pháp phỏng vấn bán cấu trúc. 8
5.2.2.3. Nghiên cứu tài liệu. 9
5.3. Phương pháp xử lý thông tin .9
6. Câu hỏi nghiên cứu .9
7. Giả thuyết nghiên cứu.10
8. Khung lý thuyết . 10
NỘI DUNG
CHÍNH . 10
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 11
1.1. Lý thuyết tiếp cận .11
1.2. Tổng quan nghiên cứu .13
1.3. Các khái niệm công cụ.18
1.4. Các chính sách và bối cảnh xã hội của các chính sách về sự tham gia.20
1.4.1. Các chính sách của Việt Nam.20
1.4.2. Các chính sách về sự tham gia và các chính sách về giới của các nhà tài trợ .22
1.4.2.1 Các chính sách về sự tham gia. 23
1.4.2.2. Các chính sách về giới . 23
1.5. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và dự án cấp nƣớc cho các thị trấn nhỏ Việt Nam .24
CHƢƠNG 2: NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 29
2.1. Các biểu hiện sự tham gia của phụ nữ vào dự án .29
2.1.1. Phụ nữ tham gia dưới hình thức “Nghe và biết thông tin về dự án” .29
2.1.2. Phụ nữ tham gia bằng hình thức “đóng góp tiền bạc và lao động cho dự án”
2.1.3. Phụ nữ tham gia dự án bằng hình thức “tuyên truyền cho người khác”
2.1.4. Phụ nữ tham gia dự án qua hình thức “tham dự các buổi họp”
2.1.5. Phụ nữ tham gia dự án bằng các hình thức giám sát thực hiện
2.2. Các yếu tố thúc đẩy và rào cản đối với sự tham gia của phụ nữ vào dự án
2.2.1. Các yếu tố cá nhân.
2.2.1.1. Yếu tố năng lực.
2.2.1.2. Yếu tố địa vị xã hội.
2.2.1.3. Yếu tố tâm lý.
2.2.2. Yếu tố gia đình .
2.2.2.1 Yếu tố tài chính.
2.2.2.2. Yếu tố ngƣời chồng .
2.2.3. Yếu tố xã hội .2.2.3.1. Yếu tố chính sách.
2.2.3.2. Yếu tố văn hóa xã hội .
2.2.4. Yếu tố khác.
2.3. Thảo luận .
2.3.1. Phụ nữ trong dự án “cấp nước cho các thị trấn nhỏ Việt Nam” tham gia
2.3.2. Những yếu tố rào cản và thúc đẩy phụ nữ tham gia vào dự án cấp nước
KẾT LUẬN
1. Kết luận.
2. Những ngụ ý về mặt chính sách.
Tài liệu tham khảo .35
Phụ lục .d
40 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 479 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Sự tham gia của phụ nữ trong các dự án cấp nước cho các đô thị nhỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uật ngữ đƣợc đề cập rộng rãi trong các hoạt động chính trị,
các nghiên cứu mang tính học thuật cũng nhƣ các nghiên cứu và hoạt động của các dự án
phát triển. Ở nước ngoài, các nghiên cứu về sự tham gia nói chung và sự tham gia của
phụ nữ nói riêng cũng nhận đƣợc rất nhiều quan tâm của các học giả cũng nhƣ các tổ
chức thực hiện các dự án phát triển, đặc biệt nhƣ Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát
triển Châu Á v.v
Về mặt lí luận, các nghiên cứu từ thập niên 60, 70 của thế kỷ XX đã tập trung mổ
xẻ các khía cạnh của sự tham gia. Sự tham gia của cộng đồng đƣợc xem là quyền lực
công dân (Sherry R. Arnstein, 1969,1971). Arnstein đã phân chia sự tham gia thành 8 nấc
thang tƣơng ứng với 3 cấp độ, từ không tham gia tới các dấu hiệu có sự tham gia và tới
các cấp độ quyền lực công dân. Brager và Specht (1973) cũng đƣa ra một phân tích về
mức độ tham gia của cộng đồng với 7 cấp độ trên một thang hai cực, từ cực thấp là không
tham gia tới cực cao là có quyền quản lý. Nhƣ vậy, trao quyền là mục tiêu cuối cùng và là
cấp độ cao nhất cần hƣớng tới khi thực hiện quá trình tham gia của một dự án, chƣơng
trình (Xem them Ruth Alsop, Mette Bertelsen và Jeremy Holland, 2006).
Về mặt thực nghiệm, các nghiên cứu nƣớc ngoài dựa trên một phông kinh nghiệm
dồi dào từ hàng loạt các dự án phát triển. Sự tham gia trong các dự án phát triển của Ngân
hàng thế giới là điển hình. Có thể kể ra một loạt các nghiên cứu của Ngân hàng thế giới
từ nhiều bối cảnh và hoạt động phong phú của rất nhiều dự án ở các nƣớc khác nhau trên
toàn thế giới nhƣ: Ruth Meinzen-Dick, Richard Reidinger, Andrew Manzardo (1995) bàn
về sự tham gia trong dự án tƣới tiêu nông nghiệp; Nat J. Colletta, Gallian Perkins (1995)
bàn về sự tham gia trong giáo dục; Gabrielle Watson, N. Vijay Jagannathan (1995) bàn
về sự tham gia trong lĩnh vực cấp nƣớc và vệ sinh; Mary Schmidt, Alexandre Marc
(1995) bàn về sự tham gia trong các hoạt động của các quỹ xã hội; Dan R. Aronson, Ellen
Tynan (1995) bàn về sự tham gia nền kinh tế và khu vực việc làm; Deepa Narayan (1995)
bàn về việc thiết kế sự phát triển dựa trên cộng đồng v.v
Trong vấn đề về sự tham gia trên thì vấn đề giới, hay vấn đề sự tham gia của phụ
nữ đƣợc hết sức quan tâm trong các nghiên cứu. Một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới
(1996) khi bàn về các chủ đề then chốt và các yếu tố chung của sự tham gia đã nêu bật
tầm quan trọng của việc hiểu và chứng minh sự khác biệt giới trong các vai trò, các hoạt
động, các nhu cầu và các cơ hội hội trong các bối cảnh đã cho (phân tích giới). Nó làm
nổi bật các vai trò khác biệt và các hành vi học hỏi của nam giới và nữ giới dựa trên các
thuộc tính giới. Những sự khác biệt này thông qua văn hóa, giai tầng, chủng tộc, thu
nhập, giáo dục và thời gian.
Một trong những vấn đề xuất hiện trong các nghiên cứu sự tham gia của phụ nữ
vào dự án là thực trạng bất bình đẳng giới và làm sao để thúc đẩy sự tham gia của phụ
nữ trong dự án. Đánh giá của Ngân hàng thế giới đối với 121 dự án cấp nƣớc nông thôn ở
49 nƣớc Châu Á, Châu Phi và Châu Mĩ La tinh phát hiện ra rằng: thậm chí trong một khu
vực mà phụ nữ gánh vác trách nhiệm lớn hơn thì họ chỉ đạt đƣợc 17% lợi ích từ các dự án
cấp nƣớc đã đƣợc thiết kế một cách đặc biệt cho phụ nữ [69, tr67]. Nhƣ vậy, sự tham gia
của phụ nữ trong các dự án phát triển thƣờng gặp phải những cản trở, những giới hạn
nhất định của đặc điểm chính trị - kinh tế - xã hội – văn hóa. Chính vì vậy, nghiên cứu về
những yếu tố thúc đẩy và cản trở phụ nữ tham gia trong dự án nhận đƣợc sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu.
Bàn về các nhân tố ảnh hƣởng tới sự tham gia chung của cộng đồng, nhiều nhà
nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố hạn chế và thúc đẩy sự tham gia. Đó là: Một, sự thiếu
cam kết của chính phủ đối với việc chấp nhận cách tiếp cận có sự tham gia (với nghiên
cứu của Thomas Carroll; Conrad Kottak & cộng sự); Hai, sự không sẵn lòng của các viên
chức đối với việc từ bỏ quyền lãnh đạo đối với các hoạt động và các quyết định (với
Azefor & Bradley); Ba, sự thiếu các động cơ và các kỹ năng của cán bộ dự án để giúp họ
chấp nhận cách tiếp cận có sự tham gia; Bốn, năng lực giới hạn của các tổ chức cấp địa
phƣơng (tài chính và quản lý) và sự thiếu đầu tƣ trong việc xây dựng năng lực cộng đồng
(nhƣ Kottak và cộng sự; NIACONSULT); Năm, sự tham gia đƣợc bắt đầu triển khai quá
chậm (Della McMilan và cộng sự); Sáu, sự mất tin tưởng giữa chính quyền và các bên
tham gia cấp địa phƣơng (Stephen Stern; Maria Mejia và cộng sự).
Maria Aycrigg (1998) bàn đến các lực cản về thể chế (đồng thuận quản lý; các giới
hạn nguồn lực; sự tham vấn đối với sự tham gia và bằng chứng về các giá trị thêm về sự
tham gia); các lực cản trong quốc gia (năng lực của NGO và sự cam kết của chính
quyền); những hƣởng ứng mang tính thể chế nhƣ sự đầu tƣ vào nguồn lực con ngƣời; các
thủ tục và chính sách.[54, tr 62]. Trond Vedeld (2001) xác định các các cản trở đối với sự
tham gia gồm các cản trở trong quốc gia đối với sự tham gia của ngƣời hƣởng lợi (cấu
trúc đẳng cấp của các thiết chế ở Ấn Độ; sự thiếu hụt về sự cam kết của chính phủ và
năng lực thể chế; tính đa dạng về cấu trúc, chuyên nghiệp và tổ chức; các thái độ và các
văn hóa của những viên chức; sự thiếu hụt về năng lực của NGO đối với việc quản lý quá
trình có sự tham gia; các lực cản từ năng lực địa phƣơng [66, tr 423].
So với sự tham gia chung của cộng đồng, vấn đề phụ nữ đặc biệt đặc thù nên việc
xác định các yếu tố thúc đẩy và cản trở đối với sự tham gia của phụ nữ trong dự án cũng
có những đặc thù cần đi sâu mổ xẻ hơn: “Điểm yếu chung của các tổ chức cộng đồng
trong khu vực dự án là thiếu sự lôi kéo phụ nữ tham gia, thậm chí mặc dầu hầu hết các
lãnh đạo tổ chức cảm thấy rằng phụ nữ cam kết đối với tổ chức (và dành thời gian nhiều
hơn cho sự tham gia) so với nam giới”[67, tr7]. (Conrad Kottak – Chƣơng trình phát triển
nông thôn bắc Brazil).
Một nghiên cứu khác của Ngân hàng thế giới (1994) khi tập trung mổ xẻ các giới
hạn đối với phụ nữ trong quá trình phát triển kinh tế nhƣ khoảng cách giới đang tồn tại
trong giáo dục, sức khỏe; rào cản liên quan đến cán bộ dự án nơi mà phụ nữ bị giới hạn
về thời gian, và địa điểm của các cuộc gặp để trao đổi với các cán bộ nam giới này và
việc tập huấn của các cán bộ nam giới mà không tính đến nhu cầu của phụ nữ. Mặt khác,
vai trò nặng nề đối với sự chăm sóc hộ gia đình hạn chế phụ nữ tham gia phát triển kinh
tế. Hơn nữa, còn có các rào cản về pháp luật, hay vai trò kép của phụ nữ ở nhà và ở thị
trƣờng [67, tr37].
Sự tham gia của phụ nữ vào các dự án khác nhau cũng mang lại những điểm đặc
thù khác nhau. Đặc biệt là vấn đề sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực cấp nƣớc và vệ
sinh, bởi vì, phụ nữ thường đóng vai trò quan trọng mang tính chủ chốt đối với sự thành
công của loại hình dự án này. Các nghiên cứu về lĩnh vực này đã chỉ ra rằng mặc dù vai
trò quan trọng của phụ nữ trong việc quản lý nƣớc và vệ sinh hộ gia đình, nhƣng thƣờng
xuất hiện các rào cản liên quan tới vị trí, cách thiết kế, cán bộ dự án, các vấn đề về lập
chương trình, ngăn phụ nữ tiếp cận tới dịch vụ. Ví dụ ở Ấn Độ, do cách thiết kế thiết bị
cấp nƣớc xa nhà ở khiến phụ nữ tách biệt với thiết bị cấp nƣớc, do đó họ tiếp tục phải sử
dụng nguồn nƣớc ô nhiễm hơn là đi tới những thiết bị cấp nƣớc hiện đại ở xa những căn
nhà của họ [67, tr37].
Ở Việt Nam, tổng kết nghiên cứu trong 10 năm trở lại đây cho thấy các nghiên cứu
tập trung vào các lĩnh vực nổi bật nhƣ: Bất bình đẳng giới đối với phụ nữ thể hiện trong
phân công lao động nội trợ, các hoạt động kinh tế, sự chênh lệch giữa vai trò kinh tế và
địa vị trong gia đình (Mai Huy Bích, 1999; Lê Ngọc Văn, 1999; Lê Tiêu La, Lê Ngọc
Hùng, 1998; Vũ Tuấn Huy và Deborah S.Carr, 2000, Trần Thị Vân Anh – Nguyễn Hữu
Minh, 2008), trong việc giáo dục, định hƣớng cho con cái (Mai Huy Bích, 2003; Lê Thúy
Hằng, 2006), trong mức sinh (Đặng Hà Phƣơng, 2006), và các vấn đề khác (Nguyễn Linh
Khiếu, 2002). Bạo lực giới (Nguyễn Hữu Minh và cộng sự, 1999; Vũ Hồng Phong, 2006;
Hoàng Bá Thịnh, 2006; Trần Thị Vân Anh – Vũ Mạnh Lợi, 2006; Lê Thị Quý – Đặng Vũ
Cảnh Linh, 2007). Ngoài ra, một số vấn đề khác nhƣ xích mích trong gia đình (Bùi
Quang Dũng, 2002), vấn đề phụ nữ lấy chồng nƣớc ngoài (Trần Thị Kim Xuyên, 2005;
Phùng Thị Huế, 2006); giới trong di dân (Đặng Nguyên Anh, 2005) v.v
Một số nghiên cứu trực tiếp đề cập đến sự tham gia cộng đồng và của phụ nữ nhƣ:
Đỗ Hậu (2000) phân tích sự tham gia của cộng đồng đối với việc quy hoạch đô thị và
phân chia sự tham gia của cộng đồng thành 4 giai đoạn theo chu trình dự án. Nguyễn
Khánh Bích Trâm (2001) xuất phát từ quan điểm giới để phân tích tác động của các
chƣơng trình tín dụng đối với các phụ nữ nghèo. Nguyễn Thu Nguyệt (2004) cho rằng
các yếu tố cản trở phụ nữ tham gia trong xóa đói giảm nghèo là tập quán, sự thiếu tôn
trọng phụ nữ, địa vị thấp kém trong gia đình, khối lƣợng công việc nhà lớnLê Thị Quý
(2004) cho biết nguyên nhân cản trở phụ nữ tham gia vào chƣơng trình của dự án là: 1)
Nam giới thƣờng là chủ hộ; 2) Phong tục; 3) Phụ nữ chỉ đi họp về kế hoạch hóa gia đình;
4) Phụ nữ bận các công việc gia đình; 5) Sự hạn chế về trình độ văn hóa và hiểu biết về
tiếng Kinh; 6) Định kiến xã hội đối với nữ giới. Các nhóm chuyên gia của WB ở Việt
Nam thƣờng xuyên tiếp cận từ góc độ sự tham gia. Các báo cáo đánh giá đói nghèo sử
dụng cách tiếp cận có sự tham gia (Xem WB, 2003, 2004, 2005) hoặc Lê Ngọc Hùng
(2003) về sự hội nhập giới chỉ rõ sự tham gia của phụ nữ vào quá trình chuẩn bị và thực
hiện dự án.
Kết lại, chúng ta có thể tóm lƣợc tình hình nghiên cứu về sự tham gia của phụ nữ ở
Việt Nam với mấy đặc điểm: 1) Các nghiên cứu về giới tƣơng đối đa dạng, với nhiều chủ
đề, đặc biệt là vấn đề bạo lực giới, bất bình đẳng giới; 2) Các nghiên cứu về sự tham gia
chỉ đƣợc đề cập trên cấp độ cộng đồng nói chung, chƣa đề cập nhiều tới sự tham gia của
phụ nữ với nhiều đặc thù của nhóm đối tƣợng này; 3) Các nghiên cứu về phụ nữ và giới,
cũng đã chỉ ra đƣợc các vấn đề tham gia của phụ nữ, nhƣng chƣa thể hiện đƣợc cách tiếp
cận lí thuyết về sự tham gia nhƣ các nấc thang của việc tham gia, các yếu tố cản trở và
thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ
Tóm lại, trên những thiếu sót của các nghiên cứu về giới và sự tham gia Việt Nam
cũng nhƣ sự xuất hiện ngày càng nhiều các dự án phát triển nhƣ hiện nay, tác giả cho
rằng nhu cầu nghiên cứu về sự tham gia của phụ nữ trong sự tham gia chung là một bổ
sung hợp lý và cần thiết đối với vấn đề giới. Do vậy, tác giả tiến hành nghiên cứu về vấn
đề “Sự tham gia của phụ nữ trong dự án phát triển. Nghiên cứu trƣờng hợp dự án cấp
nƣớc tại thị trấn Tiên Lãng – Hải Phòng và thị trấn Nà Phặc – Bắc Cạn”.
1.3. Các khái niệm công cụ
+ Dự án phát triển: là những dự án đƣợc xây dựng nhằm phục vụ cho đời sống của
một bộ phận hay cộng đồng dân cƣ.
Từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20 trở lại đây, khi nhắc đến dự án phát triển, ngƣời ta
thƣờng gắn liền với khái niệm “dự án phát triển bền vững”. Bởi lẽ, các dự án phát triển
hiện nay đều đƣợc xây dựng với mục đích chung để phát triển bền vững.
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn
phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài
nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân
loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu
tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trƣờng sinh thái ".
Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi
trƣờng và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland) ghi rõ: Phát triển bền
vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng,
tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác,
phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và
môi trƣờng đƣợc bảo vệ, gìn giữ [65].
Trong các dự án các nhà tài trợ nƣớc ngoài thực hiện, điều quan trọng bậc nhất là
một dự án đƣợc xây dựng nhƣ thế nào để đảm bảo “phát triển bền vững”. Trong đó, thiết
kế kỹ thuật phải đảm bảo sự hài hòa giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trƣờng.
+ Dự án cấp nƣớc cho các thị trấn nhỏ tại Việt Nam: đây là dự án do chính phủ
Phần Lan (thông qua bộ ngoại giao Phần Lan) tài trợ không hoàn lại khoản tiền 20 triệu
Euro cho Việt Nam nhằm giúp phần cải thiện điều kiện nƣớc sinh hoạt và vệ sinh cho
ngƣời dân theo mô hình Thiết kế - Xây dựng - Vận hành (DBL) cho 12 thị trấn của 4
tỉnh Bắc Cạn, Hƣng Yên, Hải Phòng và Thái Bình.
+ Thị trấn: Thị trấn là đô thị cấp V và là đơn vị hành chính tƣơng đƣơng cấp xã
(cấp hành chính thấp nhất của Việt Nam hiện nay). Thông thƣờng, cơ quan quản lý Nhà
nƣớc cấp huyện đƣợc đặt ở một thị trấn, gọi là huyện lỵ, song không phải thị trấn nào
cũng là huyện lỵ của một huyện.
Tiêu chí để xét một khu vực dân cƣ là thị trấn hay xã thông thƣờng gắn với tỷ lệ
ngành nghề. Tại khu vực xã, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp (lâm nghiệp, ngƣ nghiệp) cao
hơn so với một thị trấn. Tại địa bàn một huyện, mật độ dân số tại các thị trấn thông
thƣờng cũng cao hơn so với mật độ dân số tại các xã [65].
+ Sự tham gia : “Sự tham gia là một quá trình, thông qua đó, những bên liên quan
ảnh hƣởng và chia sẻ việc quản lý đối với việc phát triển các sáng kiến , các quyết định
và nguồn lực ảnh hƣởng đến chúng [69, tr30].
Trong tiếp cận tham gia, tham vấn và lắng nghe đƣợc xem là điều kiện tiên quyết
thiết yếu cho sự tham gia. Sự tham gia “phổ biến” là sự tham gia của ngƣời nghèo và
những ngƣời thiếu điều kiện thuận lợi về mặt sức khỏe, giáo dục, mang tính sắc tộc và
giới [69, tr 6].
+ Bình đẳng giới: Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau,
đƣợc tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hƣởng nhƣ nhau về thành quả của sự phát triển đó [65].
Bình đẳng giới có thể hiểu là sự ngang bằng về mặt cơ hội giữa nam giới và phụ
nữ trong quá trình phát triển.
Ngƣợc lại, bất bình đẳng giới có thể đƣợc hiểu là sự không ngang bằng giữa nam
giới và phụ nữ trong quá trình phát triển.
+ Định kiến giới: Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu
cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ [65].
1.4. Các chính sách và bối cảnh xã hội của các chính sách về sự tham gia
1.4.1. Các chính sách của Việt Nam
Có thể nói, Việt Nam là một trong những nƣớc bị ảnh hƣởng bởi những tƣ tƣởng
Nho Giáo khá nặng nề. Việc “trọng nam khinh nữ” là một trong những hậu quả của quá
trình ảnh hƣởng đó.
Ngƣời phụ nữ Việt Nam thời phong kiến không có quyền hành gì đáng kể trong
gia đình và xã hội. Những quyết định đều do ngƣời đàn ông đảm nhận. Phụ nữ chỉ đảm
nhận vai trò “phụ” trong những quyết định của nam giới. Sự ra đời của pháp luật nƣớc
Việt Nam dân chủ cộng hòa (từ hiến pháp năm 1946 đến hiến pháp năm 1992) đã có
nhiều điều khoản bảo vệ quyền của ngƣời phụ nữ.
Để nâng cao các quyền về kinh tế cho nữ giới, Quốc hội Việt Nam đã thông qua
Luật Sửa đổi đất đai năm 2003, trong đó có ghi rõ tất cả các giấy tờ liên quan đến quyền
sử dụng đất đều phải đƣợc cấp bao gồm tên của cả vợ và chồng.
Các giấy tờ về quyền sử dụng đất giúp bảo đảm quyền và nghĩa vụ của ngƣời phụ
nữ đối với tài sản đất đai đó.
Những giấy tờ này cũng giúp nữ giới có thể vay vốn để đầu tƣ vào sản xuất kinh
doanh, đồng thời cũng nhằm bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ trong trƣờng hợp ly dị và phân
chia tài sản.
Bên cạnh đó, sự ra đời của Luật bình đẳng giới năm 2006 đánh dấu một mốc quan
trọng việc bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ so với nam giới. Luật Bình đẳng giới đã
đƣợc Quốc hội khoá XI nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Đây là văn bản pháp luật chuyên
ngành đầu tiên và đƣợc xem là cơ sở pháp lý quan trọng giúp nhà nƣớc quản lý hiệu quả
hơn lĩnh vực bình đẳng giới.
Ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác
phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Nghị quyết nêu rõ “phải
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục đổi mới công tác phụ nữ để phụ nữ tham gia
ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày càng lớn hơn cho sự phát triển của gia
đình, cộng đồng, đất nước và thực hiện bình đẳng giới”.
Cùng với Luật Bình đẳng giới, Nghị Quyết 11 nêu trên, Quốc hội và các cơ quan
hữu quan đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác, tạo điều kiện cho việc
thực hiện đồng bộ, thống nhất các quy định liên quan tới bình đẳng giới. Cụ thể nhƣ: Luật
phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Cán bộ,
công chức, các Nghị định hƣớng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới, Chiến lƣợc quốc gia
vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 ...
Điều 4. Mục tiêu bình đẳng giới
Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội nhƣ nhau
cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến
tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ
trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
(Trích Luật bình đẳng giới năm 2006)
Qua đây, cho thấy rằng, luật pháp Việt Nam phản ánh nỗ lực đáng kể của đất nƣớc
trong xóa đói giảm nghèo và thực hiện cam kết thúc đẩy bình đẳng giới trong mọi lĩnh
vực. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, chỉ số phát triển con ngƣời (HDI) của Việt
Nam đã tăng 4 bậc từ vị trí 109 lên 105 trong số 177 nƣớc, chỉ số giới (GDI) đạt tăng
hạng từ 109/177 nƣớc lên 91/157, chỉ số khoảng cách giới đạt mức 0,678- đứng vị trí thứ
68 trong số 130 nƣớc và trở thành quốc gia đạt đƣợc sự thay đổi nhanh chóng nhất trong
xóa bỏ khoảng cách giới trong vòng 20 năm trở lại đây ở khu vực Đông Á [65].
Tuy nhiên, do ảnh hƣởng nặng nề của chế độ xã hội cũ nên dù chủ ý hay vô tình,
ngƣời phụ nữ cũng vẫn chỉ là “cái bóng” của nam giới trong gia đình cũng nhƣ ngoài xã
hội . Điều này thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau: kinh tế, văn hóa, tham gia quản lý,
hoạt động xã hội.
1.4.2. Các chính sách về sự tham gia và các chính sách về giới của các nhà tài trợ
quốc tế
Có thể nói, để đƣợc các tổ chức nƣớc ngoài tài trợ cho những khoản tiền ƣu đãi
trong các dự án phát triển, các cơ quan hành chính của Việt Nam phải chịu “áp lực” nhất
định trong việc phải tuân theo những quy định chặt chẽ về mặt môi trƣờng và xã hội của
các nhà tài trợ. Việc đảm bảo an toàn về xã hội là một trong những “chính sách” mà các
tổ chức nƣớc ngoài quan tâm nhất.
1.4.2.1 Các chính sách về sự tham gia
Trong Tài liệu chiến lƣợc về giảm nghèo (PRSPs), quá trình tham gia bao gồm các
tài liệu, thảo luận và đàm phán trong các chƣơng trình thực hiện, và giám sát đánh giá có
sự tham gia hiệu quả nhất khi chúng đƣợc thiết kế theo “định hƣớng kết quả”. Kết quả
của chiến lƣợc giảm nghèo không chỉ nằm trên giấy mà còn là hành động của cả cộng
đồng mục đích để giảm nghèo. Do đó, việc xây dựng tiến trình có sự tham gia, điều quan
trọng là giữ đƣợc nguyên tắc tiếp cận dựa trên kết quả đã đƣợc xác định ngay từ đầu và
việc bố trí về mặt thể chế hỗ trợ họ có thể có ảnh hƣởng lâu dài thông qua việc lập chính
sách và thực hiện.Quá trình tham gia không đầy đủ có thể dẫn đến những khuyến nghị
chung chung không rõ ràng và có thể ảnh hƣởng đến những chính sách chống đói nghèo.
Ngƣợc lại, cách tiếp cận dựa trên kết quả cho phép sự tham gia đƣơc xây dựng theo cách
mà tất cả các bên liên quan cảm thấy có mình trong đó, có quyền sở hữu và có thể ảnh
hƣởng đến tiến trình. Hơn nữa, họ cho phép quá trình tham gia đƣợc dựa trên nội dung
của tài liệu chiến lƣợc về giảm nghèo và trên các vấn đề cụ thể ảnh hƣởng trực tiếp đến
từng nhóm của các bên liên quan [69, tr23].
1.4.2.2. Các chính sách về giới
Vấn đề giới là một phần nằm trong chính sách đảm bảo an toàn của nhà tài trợ. Cụ
thể vấn đề giới đƣợc coi là một trong những chính sách tác nghiệp của Ngân hàng thế
giới cũng nhƣ các nhà tài trợ khác. Tất cả các dự án, phân tích giới là một trong những
mảng quan trọng, bắt buộc phải có khi phân tích về xã hội.
Phân tích giới: một phƣơng pháp phân tích xã hội. Phân tích giới tập trung vào
hiểu và chứng minh sự khác biệt trong các vai trò, các hoạt động, các nhu cầu và các cơ
hội trong các bối cảnh đã cho. Phân tích giới bao gồm các dữ liệu định tính phân tách bởi
yếu tố giới. Nó làm nổi bật các vai trò khác biệt và các hành vi học hỏi của nam giới và
nữ giới dựa trên các thuộc tính giới. Những sự khác biệt này thông qua văn hóa, giai tầng,
chủng tộc, thu nhập, giáo dục và thời gian; vì vậy, phân tích giới không đối xử với phụ nữ
nhƣ một nhóm đồng nhất hay các thuộc tính giới nhƣ không thể thay đổi.[69, tr202]
Các nguyên lý cơ bản trong phân tích giới: 1) Lập kế hoạch nhƣ một quá trình: các
chƣơng trình định hƣớng tới sự hƣởng ứng giới phụ thuộc vào các quá trình lập kế hoạch
linh động có sự tƣơng tác, điều chỉnh các mục tiêu dựa trên phản hồi, và làm cho những
ngƣời kém thuận lợi có thể trở thành những ngƣời tham gia tích cực trong quá trình lập
kế hoạch; 2) Chuẩn đoán giới (gender diagnosis); 3) Các mục tiêu giới; 4) các chiến lƣợc
giới; 5) Giám sát và đánh giá giới. Khung phân tích giới gồm: 1) Đánh giá nhu cầu; 2) Hồ
sơ các hoạt động; 3) Hồ sơ nguồn lực, cách tiếp cận và quản lý; 4) Phân tích lợi ích và
động viên (incentives); 5) Các hạn chế và cơ hội thuộc thiết chế [69, tr201-203].
1.5. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và dự án cấp nƣớc cho các thị trấn nhỏ Việt
Nam
Thị trấn Nà Phặc thuộc huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn, đƣợc thành lập từ năm
1979, với diện tích tự nhiên là 6245 ha. Sự ra đời của thị trấn là kết quả của việc sơ tán
các cơ quan chính quyền tỉnh Cao Bằng do chiến tranh biên giới Việt Nam – Trung Quốc
năm 1979. Trƣớc năm 1979, đây là xã Thiều Quang, dân cƣ sống rải rác ở các khu vực xa
đƣờng quốc lộ. Dân sơ tán của Cao Bằng về định cƣ ở hai bên quốc lộ 3, sau đó cùng dân
dƣới xuôi lên làm cho thị trấn ngày càng đông đúc. Nà Phặc nằm cách thị xã Bắc Cạn
khoảng 40 km theo hƣớng quốc lộ 3 Hà Giang – Bắc Cạn và cách thị trấn Ngân Sơn, thủ
phủ của huyện Ngân Sơn khoảng 10 km cũng theo quốc lộ 3.
Dân số của Nà Phặc năm 2004 là 1.387 hộ với 6.295 khẩu và năm 2005 là 1.390
hộ với 6.365 khẩu.
Thị trấn Tiên Lãng nằm ở phía nam của thành phố Hải Phòng, là trung tâm kinh
tế, văn hoá và chính trị của huyện Tiên Lãng. Diện tích tự nhiên là 739,6 ha. Phía Đông
của thị trấn giáp sông Văn Úc, phía Tây giáp xã Cấp Tiến và xã Tiên Thanh, phía Nam
giáp xã Bạch Đằng và xã Quang Phục, phía Bắc giáp xã Quyết Tiến. Tổng nhân khẩu trên
toàn thị trấn là 11.814 ngƣời, lớn nhất huyện, tƣơng đuơng với 3.033 hộ. Tỷ lệ tăng dân
số 3,98%/năm.
Thị trấn Tiên Lãng hiện qui hoạch theo hƣớng đô thị, đƣợc chia thành 8 khu dân
cƣ trên cơ sở địa giới của 5 làng thuộc xã Minh Đức cũ. Tiên Lãng đƣợc quyết định trở
thành thị trấn từ năm 1987. Vẫn còn trên 70% hộ làm nông nghiệp, không có nghề phụ,
cao hơn mức trung bình toàn quốc (67%) [64]. Thu nhập từ sản xuất nông nghiêp là
chính. Ruộng đất hạn hẹp khoảng 220 m2/ngƣời). Trên địa bàn thị trấn cũng không có cơ
sở công nghiệp lớn nào, chỉ có một vài doanh nghiệp tƣ nhân.
Dự án cấp nƣớc cho các thị trấn nhỏ Việt Nam nằm trong khuôn khổ tài trợ của
chính phủ Phần Lan cho chính phủ Việt Nam nhằm cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng. Dự
án cấp nƣớc cũng tuân thủ các bƣớc theo đúng chu trình của một dự án đầu tƣ xây dựng.
Chu trình của một dự án xây dựng đƣợc chia làm ba giai đoạn lớn: giai đoạn chuẩn
bị dự án, giai đoạn thực hiện dự án và giai đoạn kết thúc dự án. Tất cả các giai đoạn phải
đi lần lƣợt từ trên xuống dƣới, bất cứ một giai đoạn nào bị dừng lại thì dự án này coi nhƣ
bị loại bỏ.
Hình 1.3: Chu trình của một dự án đầu tƣ xây dựng
CHUẨN BỊ DỰ ÁN
THỰC HIỆN DỰ ÁN
KẾT THÚC DỰ
ÁN
Giai đoạn chuẩn bị dự án: đây là giai đoạn hình thành ý tƣởng dự án. Sự tham gia
của ngƣời dân vào giai đoạn này chƣa có. Thậm chí những thông tin của giai đoạn này
chƣa đƣợc thông báo hay công bố rộng rãi tới ngƣời dân.
Giai đoạn thực hiện dự án: Sự tham gia của ngƣời dân, nếu có, sẽ đƣợc thể hiện
trong các giai đoạn lập dự án đầu tƣ xây dựng và giai đoạn thi công xây dựng. Hai giai
1.1. GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH
Ý TƯỞNG
1.2. GIAI ĐOẠN ĐỀ XUẤT Ý
TƯỞNG. LẬP BÁO CÁO ĐẦU TƯ
XÂY DỰNG
2.1. GIAI ĐOẠN LẬP DỰ ÁN
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
2.2. GIAI ĐOẠN THIẾT KẾ
2.3. GIAI ĐOẠNĐẤU THẦU
2.4. GIAI ĐOẠN THI CÔNG
XÂY DỰNG
3.1. GIAI ĐOẠN VẬN HÀNH
THỬ VÀ BÀN GIAO
3.2. GIAI ĐOẠN BẢO HÀNH
XÂY LẮP
đoạn thiết kế và đấu thầu là hai giai đoạn ngƣời dân không biết và cũng không tham gia
đến hai giai đoạn này.
Giai đoạn kết thúc dự án: Có thể có sự tham gia của ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l2_01655_295_2003037.pdf