MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. 2
3. Mục tiêu nghiên cứu. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 4
5. Phương pháp nghiên cứu. 5
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài . 5
7. Kết cấu của luận văn. 6
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ,
THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở VÀ NHÀ Ở
GẮN LIỀN VỚI ĐẤT . 7
1.1. Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế . 7
1.1.1. Khái niệm thừa kế . 7
1.1.2. Khái niệm quyền thừa kế. 10
1.1.3. Người thừa kế. 11
1.2. Khái niệm và đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất ở và
nhà ở gắn liền với đất . 13
1.2.1. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liềnvới đất. 13
1.2.2. Đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắnliền với đất. 18
1.3. Quá trình phát triển pháp luật thừa kế của Việt Nam. 20
1.3.1. Pháp luật thừa kế của chế độ phong kiến . 20
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1958. 24
1.3.3. Giai đoạn từ 1959 đến 1979 . 26
1.3.4. Giai đoạn từ 1980 đến 2004 . 27
1.3.5. Giai đoạn từ 2005 đến nay. 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT Ở VÀ NHÀ Ở GẮN LIỀN VỚI ĐẤT
TẠI THÀNH PHỐ HUẾ. 322
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 26 trang
26 trang | 
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 981 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất (qua thực tiễn tại thành phố Huế), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 các quy định về pháp luật thừa kế 
nói chung và thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất 
nói riêng để làm cơ sở pháp lý cho công tác xét xử các vụ tranh chấp 
về thừa kế, nhằm góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị trên 
địa bàn thành phố Huế. 
+ Luận văn sẽ nêu ra và phân tích một số vụ khởi kiện về thừa 
kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất trên địa bàn thành 
phố Huế, từ đó chỉ ra một số điểm phù hợp, chưa phù hợp, bất cập, 
 6 
thiếu sót, chồng chéo của pháp luật về thừa kế, qua đó có những kiến 
nghị khoa học nhằm hoàn thiện những quy định pháp luật về thừa kế 
trong Bộ luật dân sự năm 2005. 
- Luận văn phân tích có hệ thống một số quy định của pháp 
luật về thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất. Qua 
đó, nêu ra những quy định phù hợp, chỉ ra những quy định còn bất 
cập để có những kiến nghị khoa học nhằm hoàn thiện hệ thống pháp 
luật thừa kế về quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất. Làm 
cơ sở pháp lý cho công tác xét xử tranh chấp về thừa kế quyền sử 
dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất nói chung và trên địa bàn thành 
phố Huế nói riêng. 
7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và 
các phụ lục kèm theo, luận văn được kết cấu bao gồm 3 chương, cụ 
thể như sau: 
- Chương 1. Những vấn đề lý luận về thừa kế, thừa kế quyền 
sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất; 
- Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp 
luật thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất tại thành 
phố Huế; 
- Chương 3. Kiến nghị phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu 
quả thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất. 
Chương 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ, 
THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở 
VÀ NHÀ Ở GẮN LIỀN VỚI ĐẤT 
1.1. Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế 
1.1.1. Khái niệm thừa kế 
Ở Việt Nam, việc thừa kế di sản đã hình thành theo tập quán 
của từng dân tộc, từng vùng miền, thậm chí việc chia di sản thừa kế 
 7 
còn theo truyền thống của dòng tộc. Con cháu trong gia đình được 
hưởng di sản từ ông bà, cha mẹ và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng tổ 
tiên, việc thờ cúng tổ tiên nhắc nhở con cháu nhớ công ơn của người 
đã chết. Đây là một truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam được 
lưu truyền đến ngày hôm nay. Theo Từ điển luật học: “Thừa kế là sự 
truyền lại tài sản của người đã chết cho người khác theo di chúc hoặc 
theo quy định của pháp luật” [25; 486]. Và theo Từ điển Tiếng Việt 
thừa kế là: “Hưởng của người chết để lại cho” [26; 938]. 
Như vậy, có thể hiểu khái niệm thừa kế là sự dịch chuyển tài 
sản của người đã chết cho người còn sống theo truyền thống, phong 
tục tập quán của từng dân tộc. 
1.1.2. Khái niệm quyền thừa kế 
Khi nói đến quyền thừa kế là quyền chủ quan của các chủ thể 
trong quan hệ pháp luật về thừa kế, những người tham gia có quyền để 
lại tài sản, thành quả lao động, các quyền và lợi ích của mình cho 
người khác thừa hưởng. Người thừa kế có quyền nhận di sản và hưởng 
giá trị vật chất, giá trị tinh thần và các lợi ích khác phát sinh từ di sản. 
Quyền thừa kế chỉ có thể phát sinh trong một xã hội có nhà nước 
và pháp luật. Quyền thừa kế hàm chứa những yếu tố cấu thành một 
quan hệ pháp luật và có những đặc điểm pháp luật đặc thù. Chế định 
về quyền thừa kế qui định về quyền tự định đoạt của chủ thể trong việc 
để lại di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật và quyền của người được 
thừa kế di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật, quyền hưởng hoặc từ 
chối hưởng di sản theo những điều kiện do pháp luật qui định. 
Như vậy, quyền thừa kế là quyền tự quyết của người nhận di 
sản. Quyền thừa kế chỉ có thể thực hiện được khi người có di sản 
chết, những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của người 
để lại di sản thể hiện ý chí nhận di sản hoặc từ chối nhận di sản thừa 
kế của người để lại di sản. 
1.1.3. Người thừa kế 
Theo quy định tại Điều 635 Bộ luật dân sự năm 2005: “Người 
 8 
thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế 
hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành 
thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa 
kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại 
vào thời điểm mở thừa kế”. 
1.2. Khái niệm và đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất ở và 
nhà ở gắn liền với đất 
1.2.1. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn 
liền với đất 
Tác giả có thể nêu khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất ở và 
nhà ở gắn liền với đất như sau: 
Thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất là việc 
dịch chuyển quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất của cá 
nhân đã chết cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, 
theo đó người thừa kế trở thành chủ sở hữu của quyền sử dụng đất ở 
và nhà ở gắn liền với đất do được thừa kế, có các quyền và nghĩa vụ 
của chủ sở hữu quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất. 
1.2.2. Đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn 
liền với đất 
Về bản chất, thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với 
đất cũng giống như thừa kế các loại tài sản khác. Tuy nhiên, thừa kế 
quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất còn có những đặc điểm 
tương đối độc lập với thừa kế các tài sản khác ngoài quyền sử dụng 
đất ở và nhà ở gắn liền với đất. 
- Đối với quyền sử dụng đất ở: Do chế độ sở hữu toàn dân về 
đất đai cho nên đất đai trước hết thuộc quyền sở hữu của Nhà nước 
và do Nhà nước thống nhất quản lý. Do vậy, việc thừa kế quyền sử 
dụng đất ở cũng không nằm ngoài nguyên tắc thừa kế quyền sử dụng 
đất nói chung, tuy rằng thừa kế quyền sử dụng đất ở không cần phải 
có các điều kiện như đối với thừa kế đất nông nghiệp trồng cây hàng 
năm, nuôi trồng thủy sản. Đất ở được hiểu là đất do Nhà nước giao 
 9 
cho cá nhân hoặc hộ gia đình và qui định chế độ pháp lý cho loại đất 
này được khai thác sử dụng để xây dựng nhà ở ổn định và lâu dài. 
- Đối với thừa kế nhà ở gắn liền với đất: nhà ở gắn liền với đất 
là tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân hoặc sở hữu của nhiều cá 
nhân và sau khi cá nhân chết, nhà ở hoặc phần diện tích nhà ở gắn 
liền với đất của cá nhân đó là di sản thừa kế được chia theo di chúc 
hoặc chia theo pháp luật như các loại tài sản khác của người để lại di 
sản. Thông thường, nhà ở là vật chia được, do vậy khi chia di sản là 
nhà ở gắn liền với đất cũng tuân theo nguyên tắc chia bằng hiện vật. 
Như vậy, đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn 
liền với đất có hệ quả là việc chuyển dịch quyền sử dụng đất ở và nhà 
ở gắn liền với đất cho người có quyền thừa kế theo di chúc hoặc theo 
pháp luật phù hợp với những qui định của pháp luật dân sự về thừa 
kế, pháp luật về đất đai, pháp luật về nhà ở. 
1.3. Quá trình phát triển pháp luật thừa kế của Việt Nam 
1.3.1. Pháp luật thừa kế của chế độ phong kiến 
Chế độ phong kiến Việt Nam tồn tại qua nhiều thế kỷ và mỗi 
triều đại điều xây dựng cho mình bộ máy nhà nước và pháp luật để 
củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Pháp luật phong kiến Việt Nam 
mang đậm ảnh hưởng của nho giáo lễ nghi và pháp luật là yếu tố cơ 
bản kết dính các yếu tố khác của nền quân chủ bao gồm quan hệ vua 
- tôi, vua quan - dân chúng, cơ cấu bộ máy nhà nước điều chỉnh các 
quan hệ xã hội tạo nên trật tự xã hội. Pháp luật phong kiến Việt Nam 
tiêu biểu là Bộ luật Hồng Đức (1483), Bộ luật Gia Long (1815); 
ngoài các bộ luật, các nhà nước phong kiến còn ban hành các chiếu 
thư, chỉ dụ, lệnh Vua... nội dung các bộ luật điều chỉnh nhiều quan hệ 
xã hội trong đó có những quy định về thừa kế (thừa kế theo di chúc 
và thừa kế theo pháp luật). 
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1958 
1.3.3. Giai đoạn từ 1959 đến 1979 
1.3.4. Giai đoạn từ 1980 đến 2004 
 10 
1.3.5. Giai đoạn từ 2005 đến nay 
Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời đã hoàn thiện thêm những quy 
định về thừa kế. Chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự năm 2005 đã 
có những quy định cụ thể và phù hợp hơn với đời sống thực tế ở 
nước ta trong giai đoạn hiện nay. 
Thừa kế được quy định ở phần thứ tư từ Điều 631 đến Điều 
687 của Bộ luật dân sự năm 2005, riêng quy định về thừa kế quyền 
sử dụng đất được quy định tại các Điều: 733, 734, và 735; quan hệ 
dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan đến thừa kế được quy định tại 
Điều 767 và Điều 768. 
Chương 2 
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 
PHÁP LUẬT THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở VÀ NHÀ Ở 
GẮN LIỀN VỚI ĐẤT TẠI THÀNH PHỐ HUẾ 
2.1. Các quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc quyền 
sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất 
2.1.1. Di chúc và thừa kế theo di chúc về quyền sử dụng đất 
ở và nhà ở gắn liền với đất 
Theo Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Di chúc là 
sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho 
người khác sau khi chết”. Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người 
khi còn sống định đoạt tài sản của mình, để chuyển toàn bộ hoặc một 
phần tài sản của người đó cho một hay nhiều người thừa kế sau khi 
người đó chết. 
Vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất 
được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005, Luật đất đai năm 2003 
và Luật nhà ở năm 2005 thì cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt 
cho người thừa kế được hưởng quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền 
với đất của mình sau khi chết. Khi để lại di sản là quyền sử dụng đất 
ở và nhà ở gắn liền với đất, người lập di chúc phải thỏa mãn các điều 
 11 
kiện về chủ thể lập di chúc, quyền tự do định đoạt ý chí, nội dung của 
di chúc không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội và hình thức của di 
chúc phải tuân theo những qui định của pháp luật. 
2.1.2. Những người thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở 
gắn liền với đất không phụ thuộc vào nội dung của di chúc 
Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định những người thừa 
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc là con chưa thành niên, 
cha, mẹ, vợ, chồng; con đã thành niên mà không có khả năng lao 
động. Nhằm bảo vệ lợi ích cho một số người trong diện thừa kế thuộc 
hàng thừa kế thứ nhất, phù hợp với phong tục, tập quán truyền thống 
tốt đẹp của dân tộc ta. 
Hay nói cách khác, đó là những người thừa kế theo pháp luật 
quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất ở hàng thừa kế thứ 
nhất, có quan hệ huyết thống trực hệ và quan hệ hôn nhân với người 
lập di chúc, họ có quyền được hưởng ít nhất hai phần ba một suất của 
người thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất theo 
pháp luật trong trường hợp di sản được chia theo di chúc, mà người 
lập di chúc không cho họ hưởng thừa kế theo di chúc, hoặc cho 
hưởng phần di sản quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất ít 
hơn hai phần ba một suất của người thừa kế theo pháp luật. 
2.2. Các quy định pháp luật về thừa kế theo pháp luật 
quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất 
Pháp luật thừa kế Việt Nam cũng như pháp luật thừa kế các 
nước trên thế giới đều quy định hai hình thức thừa kế cơ bản là thừa 
kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc là 
chia di sản thừa kế cho người thừa kế theo sự định đoạt trong di chúc 
của người có di sản và người thừa kế theo di chúc có thể là bất kỳ ai. 
Còn thừa kế theo pháp luật không phụ thuộc vào ý chí của người để 
lại di sản và hình thức thừa kế do pháp luật quy định. 
Tại Điều 764 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Thừa kế theo 
pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do 
pháp luật quy định”. Khác với thừa kế theo di chúc, người thừa kế có 
thể là một hoặc nhiều cá nhân, một hay nhiều tổ chức; nhưng thừa kế 
 12 
theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân. Theo phương thức này, người thừa 
kế theo pháp luật về quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất là 
những người có một trong ba mối quan hệ: quan hệ hôn nhân, quan hệ 
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người đã chết. 
2.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến tranh chấp thừa kế 
quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất qua thực trạng tại 
thành phố Huế 
2.3.1. Vị trí địa lý và tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Huế 
2.3.2. Dân số, đơn vị hành chính và diện tích đất của thành 
phố Huế 
2.3.3. Đặc điểm thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn 
liền với đất qua thực tiễn tại thành phố Huế 
Thành phố Huế là nơi duy nhất còn giữ được khá nguyên vẹn 
hệ thống Kinh thành, lăng, chùa cổ, nhà vườn, các phủ đệ... là thành 
phố duy nhất được UNESCO công nhận Quần thể di tích Cố đô Huế 
và nhã nhạc cung đình Huế là hai Di sản Văn hóa Thế giới. 
Với những nét văn hóa truyền thống rất Việt Nam của thành phố 
Huế là mô hình nhà - vườn, vừa bảo vệ được môi trường sinh thái, vừa 
thể hiện bản sắc văn hóa, trình độ kiến trúc của Huế có những nét 
tương đồng và khác biệt so với các vùng miền khác ở Việt Nam về mô 
hình nhà ở, do đó nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại thành phố Huế có 
những nét đặc thù riêng. Ngoài ra, việc quy định diện tích tối thiểu 
được tách thửa trong 4 phường nội thành đã hạn chế quyền của người 
có tài sản là nhà đất trong đó có quyền thừa kế. Do đó, những tranh 
chấp trong các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất và 
nhà ở nói chung và thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với 
đất nói riêng thường diễn ra nhiều hơn và phức tạp hơn. 
Hàng năm Tòa án nhân dân thành phố Huế phải giải quyết 
nhiều vụ việc về phân chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất ở và 
nhà ở gắn liền với đất. Cho nên việc nghiên cứu về thừa kế quyền sử 
dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất trên địa bàn thành phố Huế là 
một việc làm mang tính cấp thiết, đáp ứng đầy đủ yêu cầu về mặt lý 
luận và thực tiễn. 
 13 
2.4. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng 
đất ở và nhà ở gắn liền với đất tại thành phố Huế 
Với đặc điểm như trên nên tại địa bàn thành phố Huế bên cạnh 
sự gia tăng của các án hình sự thì các tranh chấp về dân sự cũng khá 
phổ biến. Theo số liệu báo cáo của Tòa án nhân dân thành phố Huế 
qua các năm đã khẳng định rằng: Hàng năm Tòa án thành phố Huế 
phải giải quyết một số lượng lớn các loại vụ án; trong đó, chiếm hơn 
50% số lượng án của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, 
có nhiều vụ án phức tạp, nổi cộm được dư luận quan tâm. Mặc dù 
vậy, Tòa án thành phố Huế vẫn hoàn thành xuất sắc khối lượng công 
việc rất lớn như vậy. Bảng số liệu sau đây đã nói lên điều đó: 
Bảng 2.2: Tổng số vụ án Tòa án nhân dân thành phố Huế 
giải quyết từ năm 2005 đến năm 2010 
Năm 
Vụ án 
2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng 
Tổng số vụ án đang 
thụ lý 
615 740 850 807 806 839 4.657 
Tổng số vụ án đã 
giải quyết 
598 722 836 714 696 784 4.350 
Tỷ lệ giải quyết 
95,6
% 
97,5
6% 
98,3
5% 
88,4
7% 
86,3
5% 
93,4
% 
93,40
% 
(Nguồn: Rút từ báo cáo hoạt động Tòa án nhân dân thành phố Huế) 
Theo Bảng số liệu (Bảng 2.2) tổng hợp các loại án từ năm 
2005 đến 2010 mà Tòa án nhân dân thành phố Huế thụ lý, giải quyết, 
qua đó có thể thấy lượng án mà Tòa án thụ lý rất lớn và tăng theo 
từng năm (trong 6 năm thụ lý 4.657 vụ án). 
Về giải quyết án dân sự, hàng năm Tòa án nhân dân thành phố 
Huế đã thụ lý và giải quyết một khối lượng khá lớn các vụ án dân sự 
mà chủ yếu là về các lĩnh vực nhà đất, thừa kế, hợp đồng vay tài sản. 
Cụ thể ở Bảng số liệu dưới đây: 
 14 
Bảng 2.3: Số vụ án dân sự Tòa án nhân dân thành phố Huế 
giải quyết từ năm 2005 đến năm 2010 
Năm 
Vụ án 
2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng 
Tổng số vụ án dân sự 
thụ lý 
156 241 346 268 246 235 1.492 
Tổng số vụ án dân sự 
giải quyết 
139 229 338 217 190 214 1.327 
Tỷ lệ 89% 95% 98% 81% 77% 91% 89% 
(Nguồn: Rút từ báo cáo hoạt động Tòa án nhân dân thành phố Huế) 
Căn cứ bảng thống kê chúng ta thấy số lượng vụ án dân sự mà 
Tòa án nhân dân thành phố Huế đã thụ lý trong 6 năm là 1.492 vụ và 
Tòa án đã giải quyết được 1.327 vụ, đây là một tỷ lệ giải quyết khá 
cao. Có thể nói rằng đội ngũ Thẩm phán Tòa án thành phố Huế đã có 
sự phấn đấu, nổ lực rất lớn để hoàn thành nhiệm vụ. Án dân sự có 
chiều hướng giảm so với những năm gần đây.Cụ thể: Năm 2008 thụ 
lý 268 vụ, năm 2009 thụ lý 246 vụ, năm 2010 thụ lý 235 vụ. So với 
những vụ án Tòa án đã thụ lý thì số lượng vụ án mà Tòa án đã giải 
quyết có chiều hướng gia tăng, điều đó đã chứng minh sự nổ lực phấn 
đấu của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, Thư ký của Tòa án nhân dân 
thành phố Huế. 
Trong số các vụ án dân sự mà Tòa án đã thụ lý thì các tranh 
chấp về thừa kế quyền sử dụng đất ở, nhà ở gắn liền với đất cũng 
chiếm một tỷ lệ khá cao, được thể hiện qua bảng thống kê sau đây: 
Bảng 2.4: Số vụ tranh chấp thừa kế nhà, đất Tòa án nhân dân 
thành phố Huế giải quyết từ 2005 đến 2010 
Năm 
Vụ án 
2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng 
Tổng số vụ án dân sự thụ lý 156 241 346 268 246 235 1.492 
Số vụ án tranh chấp thừa 
kế nhà, đất 
105 170 253 187 198 129 1.042 
(Nguồn: Tìm hiểu từ hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Huế) 
 15 
Có thể khẳng định rằng, việc giải quyết tranh chấp thừa kế 
quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất hiện nay là loại việc 
khó, phức tạp nhất và là khâu yếu nhất trong công tác giải quyết các 
tranh chấp dân sự nói chung. Vì quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn 
liền với đất ở là những tài sản có giá trị lớn về kinh tế, đồng thời còn 
là chốn cư trú của các gia đình, theo phong tục của người Việt Nam 
thì “an cư mới lập nghiệp”. 
2.4.1. Nội dung vụ án thứ nhất: Chia thừa kế quyền sử dụng 
đất ở và nhà ở gắn liền với đất theo di chúc 
2.4.2. Nội dung vụ án thứ hai: Chia thừa kế quyền sử dụng 
đất ở và nhà ở gắn liền với đất theo pháp luật 
2.4.3. Nội dung vụ án thứ ba: Yêu cầu chia di sản thừa kế là 
nhà ở và quyền sử dụng đất ở 
Tranh chấp di sản thừa kế nói chung, quyền sử dụng đất ở và 
nhà ở gắn liền với đất nói riêng, là những tài sản có giá trị lớn, đồng 
thời được điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau. Do đó, giải quyết 
đúng loại tranh chấp này đòi hỏi sự nổ lực rất lớn về trình độ chuyên 
môn, trách nhiệm nghề nghiệp của người áp dụng pháp luật, góp 
phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. 
Chương 3 
KIẾN NGHỊ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO 
HIỆU QUẢ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở 
VÀ NHÀ Ở GẮN LIỀN VỚI ĐẤT 
3.1. Kiến nghị phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện những 
quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất ở và nhà ở 
gắn liền với đất 
3.1.1. Cần sửa đổi quy định về thời điểm được thực hiện các 
quyền của người sử dụng đất ở 
Tại khoản 1, Điều 98 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 
29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai năm 
 16 
2003, quy định: “1. Thời điểm người sử dụng đất được thực hiện các 
quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho 
quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng 
đất theo quy định của pháp luật về đất đai đối với đất do Nhà nước 
giao có thu tiền sử dụng đất, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử 
dụng phải nộp tiền sử dụng đất được quy định như sau: a) Trường 
hợp người sử dụng đất không được phép chậm thực hiện nghĩa vụ tài 
chính hoặc không được ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì chỉ được thực 
hiện các quyền của người sử dụng đất kể từ khi thực hiện xong nghĩa 
vụ tài chính theo quy định của pháp luật; b) Trường hợp người sử 
dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định cho chậm 
thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc cho ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì 
được thực hiện các quyền của người sử dụng đất kể từ khi có quyết 
định đó; c)Trường hợp người sử dụng đất được chậm thực hiện nghĩa 
vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính theo quy định của 
pháp luật thì được thực hiện các quyền của người sử dụng đất kể từ 
khi có quyết định giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, 
ký hợp đồng thuê đất”. 
Do đó, nếu có tranh chấp quyền thừa kế mà đất ở đó đã có các 
giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật đất đai thì Toà án vẫn 
căn cứ vào pháp luật về thừa kế và luật đất đai để xác định quyền 
thừa kế quyền sử dụng đất ở của các bên đương sự. Sau khi các bên 
đã được Toà án xác định quyền sử dụng đất ở theo thừa kế, muốn 
được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở họ phải 
thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Nhà nước và việc 
này do cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện. Với hướng xử lý như 
vậy vừa phù hợp với thực tế, vừa phù hợp với thẩm quyền của mỗi 
bên mà vẫn bảo đảm được lợi ích của Nhà nước. 
3.1.2. Về di chúc chung của vợ chồng định đoạt quyền sử 
dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất theo di chúc 
Quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất là di sản của cá 
 17 
nhân khi sống có quyền sở hữu, định đoạt và để chia thừa kế sau khi 
cá nhân này chết. Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005, qui định: “Vợ, 
chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Theo qui 
định này, trong trường hợp vợ chồng lập chung di chúc định đoạt tài 
sản chung là quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất, nhưng 
hiệu lực di chúc chung của vợ, chồng được pháp luật qui định tại 
Điều 668 Bộ luật dân sự năm 2005, như sau: “Di chúc chung của vợ, 
chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời 
điểm vợ, chồng cùng chết”. Qui định này, tự thân nó chứa đựng 
nhiều bất cập. Liệu một di chúc chung của vợ, chồng có còn duy trì 
hiệu lực hay không, nếu vợ chồng được Tòa án cho ly hôn hoặc được 
Tòa án cho phép chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, sau thời 
điểm di chúc chung được lập. Mặt khác, qui định này đã xâm phạm 
đến quyền thừa kế hợp pháp của người thừa kế theo pháp luật và 
người thừa kế bắt buộc của người vợ hoặc chồng chết trước và làm 
ảnh hưởng tới thời hiệu khởi kiện về thừa kế. 
Với những bất cập trên đây, thiết nghĩ nên sửa đổi Điều 668 
Bộ luật dân sự năm 2005 như sau: 
“Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một 
người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của 
người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng 
có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là 
thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc 
chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”. 
3.1.3. Về di sản thừa kế dùng vào việc thờ cúng là quyền sử 
dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất 
Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định trong trường 
hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ 
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho 
một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện 
việc thờ cúng. 
 18 
Việc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng là do ý 
muốn của người để lại thừa kế. Không ai có thể buộc một người 
phải dành một số di sản khi chết để con cháu lo việc cúng giỗ cho 
họ và tổ tiên của họ nhưng nếu bằng di chúc, người để lại di sản 
thể hiện ý nguyện như vậy thì ý nguyện đó phải được tôn trọng. 
Trường hợp để lại di sản thờ cúng là quyền sử dụng đất ở và nhà ở 
gắn liền với đất nhưng không giới hạn tỷ lệ phần di sản thờ cúng 
là bao nhiêu thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa 
kế. Do đó, cần thiết phải xác định “một phần di sản” dùng vào 
việc thờ cúng là bao nhiêu trong tổng số di sản là quyền sử dụng 
đất ở và nhà ở gắn liền với đất. Nếu người để lại di sản lập di chúc 
để lại 90% (hoặc cao hơn nữa, nhưng không được 100%) di sản là 
quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất dùng vào việc thờ 
cúng thì vẫn được coi là để lại “một phần”. 
Ở những vùng quê của tỉnh Thừa Thiên Huế người dân còn lưu 
truyền những nét văn hóa, phong tục truyền thống của mình như xây 
nhà thờ họ để thờ ông, bà, tổ tiên; xây lăng mộ cho ông, bà, cha mẹ 
đã chết Trong một dòng tộc có nhiều người giàu có thì sẽ cùng 
nhau góp tiền để xây dựng nhà thờ Họ hoặc để dùng vào việc thờ 
cúng. Còn đối với một số dòng tộc khó khăn về kinh tế thì thờ ông, 
bà ở nhà riêng của người con trai trưởng và thông thường người này 
để lại (bằng di chúc) toàn bộ quyền sử dụng đất ở và nhà ở vào việc 
làm nhà thờ, thờ cúng tổ tiên ông bà. Như vậy, khi một người để lại 
thừa kế di sản toàn bộ quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất 
để làm nhà thờ họ sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quyền lợi của những 
người thừa kế. 
Như vậy, việc không quy định một tỷ lệ giới hạn nhất định đối 
với phần di sản thờ cúng là quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với 
đất xuất phát từ sự tôn trọng ý chí của “người chết” khi định đoạt tài 
sản của mình. Cũng thừa nhận rằng, với quy định của luật hiện hành, 
việc để lại di sản thờ cúng có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của những 
 19 
người thừa kế. Thiết nghĩ, cần có quy định để xem xét phần di sản 
thờ cúng là quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất có “vượt 
quá” hay không, có ảnh hưởng như thế nào đến quyền lợi của những 
người thừa kế phải tuỳ vào các trường hợp cụ thể, kết hợp giữa 
luật thực định và phong tục tập quán ở địa phương. 
3.1.4. Một số kiến nghị với các cơ quan liên quan của tỉnh 
Thừa Thiên Huế. 
3.1.4.1. Phân định rõ giữa công chứng và chứng thực các hợp 
đồng là quyền sử dụng đất ở và nhà ở gắn liền với đất 
Tại khoản 1, Điều 119 Nghị định số 181/NĐ-CP ngày 29
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 lds_le_trung_phuoc_thua_ke_quyen_su_dung_dat_o_va_nha_o_gan_lien_voi_dat_qua_thuc_tien_tai_thanh_pho.pdf lds_le_trung_phuoc_thua_ke_quyen_su_dung_dat_o_va_nha_o_gan_lien_voi_dat_qua_thuc_tien_tai_thanh_pho.pdf