Để tăng cường kinh phí cho hoạt động bình đẳng giới, các cơ
quan, tổ chức cần huy động nguồn đóng góp từ tự nguyện từ các tổ
chức, cá nhân; tranh thủ các dự án của các tổ chức nước ngoài, đặc
biệt cần chú trọng làm tốt công tác lồng ghép giới. Đảm bảo kinh phí
cho hoạt động thực hiện pháp luật về bình đẳng giới được sử dụng
hiệu quả, tiết kiệm.
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 07/03/2022 | Lượt xem: 408 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Bình Phước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những người quan tâm nghiên cứu về
vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thực hiện pháp luật về
bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Bình Phước
Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp hoàn thiện hoạt
động thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1. MỘT VÀI KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH
VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1.1. Khái niệm giới tính, giới, bình đẳng giới
Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
Giới là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân loại học, chỉ sự
khác biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội.
Vậy bình đẳng giới là gì? Theo quy định tại Khoản 3, Điều 5
Luật Bình đẳng giới năm 2006 thì: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ
có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy
năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
1.1.2. Pháp luật và thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh về quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo bảo đảm cho công dân nam, nữ có vai trò, cơ
hội phát triển như nhau, được hưởng thụ như nhau những thành quả
của sự phát triển, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
6
Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo là hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
được tiến hành theo những hình thức pháp lý nhất định, có mối liên
hệ và quy định lẫn nhau trong một cơ chế phù hợp với điều kiện của
từng giai đoạn lịch sử, nhằm hiện thực hóa các yêu cầu, nội dung
của quy phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, bảo đảm cho cả nam và nữ đều phát huy được tối đa ưu
điểm và sở thích của bản thân, qua đó đóng góp được tối đa năng
lực cho xã hội trong khi vẫn thỏa mãn được quan điểm, sở thích và
thế mạnh của mình.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO
1.2.1. Quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc ta
về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo qua các thời
kỳ
Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Từ xa xưa, khi nước ta chưa chịu ảnh hưởng của Phong kiến
Phương Bắc, vai trò của người phụ nữ luôn được đề cao. Thế nhưng,
khi nước ta bước sang chế độ xã hội phong kiến, dưới ảnh hưởng của
Nho giáo Trung Hoa “trọng nam, khinh nữ”, coi phụ nữ ngang hàng
với tiểu nhân, là loại khó dạy.
Nền giáo dục thời phong kiến, đại bộ phận nông dân, dân
nghèo, phụ nữ không được đi học do những quy định ngặt nghèo.
Trong khoảng mười thế kỷ trong xã hội phong kiến, kể từ năm 1076
triều đình nhà Lý mở Quốc tử giám - trường đại học đầu tiên ở nước
ta – đã đào tạo được 2874 tiến sĩ nhưng đều là nam giới. Việc học
hành thi cử không có chỗ cho phụ nữ.
7
Giai đoạn từ năm 1945 - năm 2006 (trước khi có Luật Bình
đẳng giới
Ngay từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong các văn
kiện thành lập Đảng, Bác Hồ đã nêu về phương diện xã hội “thực
hiện nam nữ bình quyền”.
Sau cuộc tổng khởi nghĩa lịch sử thành công, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngay trong nhiệm vụ diệt giặc dốt, nhằm
xóa bỏ tình trạng dốt nát của nhân dân ta do chính sách ngu dân của
thực dân Pháp để lại, Hồ Chủ tịch đã rất quan tâm đến việc học hành
của phụ nữ, Người đã khuyến khích chị em chịu khó học tập để có
khả năng làm chủ đất nước đảm nhiệm những công việc như nam
giới.
Quan điểm bình đẳng giới chính thức được ghi nhận trong một
văn kiện có giá trị pháp lý cao nhất ở nước ta lúc bấy giờ đó là Hiến
pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946.
Các bản Hiến pháp tiếp theo (1959, 1980, 1992, 2013) đều kế thừa
quan điểm bình đẳng nam – nữ có từ Hiến pháp 1946.
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn ban hành nhiều nghị quyết,
chỉ thị trong đó có nghị quyết 153 về công tác cán bộ nữ năm 1967,
nghị quyết 4/1993 về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ
nữ trong tình hình mới, chỉ thị 37 – CT/TW ngày 16 tháng 05 năm
1994 về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Và
cũng từ đây, đội ngũ nữ trí thức nước ta đã có sự chuyển mình rất lớn
về thành phần nguồn gốc xuất thân đa dạng hơn và không còn bất kỳ
sự phân biệt đối xử nào nữa.
Giai đoạn từ năm 2006 đến nay
Luật Bình đẳng giới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11
8
năm 2006, và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Việt
Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á có Luật Bình
đẳng giới và cũng được xem là quốc gia có Luật Bình đẳng giới tiến
bộ nhất Châu Á.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo được quy
định cụ thể trong Điều 14 Luật Bình đẳng giới và trong Điều 2 và
Điều 10 của Luật Giáo dục 2005. Để đảm bảo sự tuân thủ trên thực
tế các quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo, Điều 40 Luật bình đẳng giới 2006 còn quy định cụ
thể các hành vi cụ thể bị coi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực này.
Sau khi Luật Bình đẳng giới ra đời cho đến nay, ngoài Hiến
pháp năm 2013, đã có hơn 60 dự án luật, pháp lệnh có các quy định
được lồng ghép vấn đề bình đẳng giới. Đảng và Nhà nước ta cũng đã
ban hành nhiều Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư để cụ thể
hóa Luật bình đẳng giới, tạo điều kiện cho Luật được đi vào thực tiễn
cuộc sống.
Để triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới,
nhiều chương trình, chiến lược, đề án cũng đã được đề ra như: Chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020; Đề án tuyên
truyền giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2010 – 2015;
Đề án Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025... Nổi bật là
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 được
ban hành nhằm xác định các vấn đề bất bình đẳng giới cần ưu tiên
giải quyết trong vòng 10 năm. Trong mục tiêu số ba “Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng
giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo” của Chiến lược,
9
hai chỉ tiêu quan trọng là: (1) Tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ
tuổi từ 15 đến 40 ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng
đặc biệt khó khăn đạt 95% vào năm 2020; (2) tỷ lệ nữ thạc sĩ đạt
40% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020, tỷ lệ nữ tiến sỹ đạt 20%
vào năm 2015 và 25% vào năm 2020.
1.2.2. Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Cho tới nay, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế liên
quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ và trẻ em gái, trong đó có thể
kể đến như: Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ (CEDAW, năm 1979), Công ước Quyền trẻ em (CRC, năm
1990) và tích cực thực hiện Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh (năm
1995) vì bình đẳng, hòa bình và phát triển
Việt Nam là một trong sáu quốc gia đầu tiên trên thế giới ký
tham gia Công ước CEDAW vào ngày 29/7/1980, phê chuẩn vào
ngày 27/11/1981. Tuân thủ quy định của Công ước, trong suốt những
năm qua, nước ta đã tích cực tổ chức thực hiện và hoàn thành các
báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện Công ước để trình lên Tổng
thư ký Liên hợp quốc.
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO
1.3.1. Nguyên tắc cơ bản thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Một là, nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới.
Hai là, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
Ba là, chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là
phân biệt đối xử về giới.
10
Bốn là, bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây
dựng và thực thi pháp luật.
Năm là, thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, gia đình, cá nhân.
1.3.2. Hình thức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Một là, tuân theo pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo.
Hai là, thi hành pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo.
Ba là, sử dụng pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo.
Bốn là, áp dụng pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo.
1.3.3. Chủ thể thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Chủ thể thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo là các tổ chức và cá nhân tham gia vào quan hệ
pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Trong
đó, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức
nhà nước và cá nhân được nhà nước ủy quyền.
1.3.4. Nội dung thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo
1.3.4.1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là một trong những nội dung quan
trọng của thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo
11
dục và đào tạo, nhằm thay đổi nhận thức và hành vi của cộng đồng
dân cư về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; góp
phần đưa pháp luật về bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo được
đi vào thực tiễn cuộc sống.
1.3.4.2. Chỉ đạo, triển khai thực hiện
Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Nghị định số 70/2008/NĐ-
CP, ngày 04/6/2008 của Chính phủ đã quy định rõ trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chỉ đạo, triển khai thực hiện
pháp luật về bình đẳng giới và bảo đảm bình đẳng giới.
1.3.4.3. Xây dựng phát triển đội ngũ thực hiện pháp luật về
bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Đội ngũ cán bộ công chức làm công tác về bình đẳng giới chính
là những người trực tiếp triển khai, thực hiện các quy định của pháp
luật và thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
Để các chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật được đi vào
thực tiễn cuộc sống phụ thuộc rất lớn vào nhận thức và năng lực của
những người triển khai, thực hiện. Cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ
cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới
được tổ chức từ trung ương đến địa phương.
1.3.4.4. Nguồn tài chính cho hoạt động thực hiện pháp luật về
bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Nguồn tài chính cho hoạt động thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới nói chung, bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói
riêng gồm: nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp; nguồn đóng
góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân và các nguồn thu hợp pháp khác.
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới
thực hiện theo quy định tại Thông tư số 191/2009/TT-BTC của Bộ
Tài chính.
12
1.3.4.5. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới
nói chung, bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói
riêng nhằm bảo đảm cho hoạt động thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định, kịp thời khen thưởng
cũng như xử lý những sai phạm, đồng thời điều chỉnh chính sách cho
phù hợp với đặc điểm tình hình thực tế của từng đơn vị, địa phương.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC
2.1. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Bình Phước là một tỉnh miền núi ở phía Tây của vùng Đông
Nam Bộ, có diện tích tự nhiên là 6.874,6 km
2
, dân số năm 2016 là
968.900 người.
Đất đai màu mỡ, tài nguyên phong phú, khí hậu và thủy văn ở
Bình Phước được thiên nhiên ưu đãi. Đất Bình Phước rất thích hợp
với các loại cây công nghiệp lâu năm có giá trị kinh tế cao như: Cao
su, tiêu, điều, cà phê. Bên cạnh đó, đất bazan còn thích hợp cho
nhiều loại cây hoa màu, lương thực.
2.1.2. Điều kiện kinh tế
13
Bình Phước là một trong những tỉnh có nhiều tiềm năng để phát
triển kinh tế. Tuy nhiên sau ngày tái lập tỉnh, kinh tế Bình Phước chủ
yếu là nông nghiệp thuần túy, xuất phát điểm về mọi mặt đều thấp
hơn nhiều so với mức độ bình quân của cả nước.
Những năm gần đây, kinh tế của tỉnh liên tục đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao qua các năm. Tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh Bình
Phước bình quân hàng năm đạt 10,8%. Tổng giá trị sản phẩm trong
tỉnh năm 2015 đạt 10.150 tỷ, tăng 1,67 lần so với năm 2010 (giá so
sánh năm 1994) và bình quân đầu người tăng từ 24 triệu đồng năm
2010 lên 39,8 triệu đồng năm 2015.
2.1.3. Điều kiện văn hóa – xã hội
Là mảnh đất được thiên nhiên ưu đãi nên Bình Phước là nơi thu
hút rất nhiều dân cư từ các tỉnh thành trong cả nước đến làm ăn, sinh
sống. Bình Phước cũng là nơi định cư và sinh sống của 41 dân tộc
anh em, trong đó đông nhất là người Kinh và người S’tiêng. Cư dân
Bình Phước đa phần từ các tỉnh khác đến, lại là tỉnh tập trung đông
đồng bào dân tộc thiểu số nên nhìn chung trình độ học vấn, lao động
qua đào tạo thấp.
2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC
2.2.1. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo được
các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Bình Phước quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo với nhiều hình thức và nội dung phong phú như: Phát tờ rơi,
treo băng rôn, áp phích, khẩu hiệu; tuyên truyền phát động cuộc thi
14
tìm hiểu chính sách, pháp luật về bình đẳng giới nói chung, bình
đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói riêng. Các sở, ban,
ngành, đoàn thể đã phối hợp thực hiện đảm bảo công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục về bình đẳng giới mang lại hiệu quả thực
chất.
2.2.2. Chỉ đạo, triển khai thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí, tầm quan trọng triển khai, thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo nói riêng, trên cơ sở các văn bản chỉ đạo,
hướng dẫn của Trung ương, Đảng ủy, chính quyền tỉnh Bình Phước
đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần đưa các
quy định của Luật Bình đẳng giới được đi vào thực tiễn cuộc sống.
Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước đã xây dựng Kế hoạch số
59/KH-UBND ngày 24/5/2011 về chương trình hành động quốc gia
về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015; Kế hoạch thực hiện Đề án
“Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” năm 2015; Kế
hoạch số 79/KH-UBND thực hiện Đề án “Hỗ trợ hoạt động bình
đẳng giới vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025”; Kế
hoạch hành động số 194/KH-UBND ngày 03/8/2016 về bình đẳng
giới giai đoạn 2016 – 2020...
2.2.3. Xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác thực
hiện pháp luật về bình đẳng giới
UBND tỉnh ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của Sở LĐTBXH, theo đó
thành lập một phòng chuyên môn thực hiện nhiệm vụ công tác bảo
vệ chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới (gồm có 03 biên chế, trong đó
15
01 cán bộ thực hiện nhiệm vụ công tác bình đẳng giới và vì sự tiến
bộ của phụ nữ), hoạt động dưới sự chỉ đạo của 01 lãnh đạo sở. Đối
với cấp huyện, tất cả đều đã bố trí 01 lãnh đạo và 01 cán bộ thuộc
phòng LĐTBXH kiêm nhiệm công tác bình đẳng giới vì sự tiến bộ
của phụ nữ. Ở cấp xã, công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của
phụ nữ do cán bộ LĐTBXH kiêm nhiệm. Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ
được thành lập ở các cấp Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cộng tác
viên làm công tác bình đẳng giới được quan tâm, chú trọng.
2.2.4. Nguồn tài chính cho hoạt động thực hiện pháp luật về
bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Nguồn lực tài chính cho hoạt động thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới của tỉnh Bình Phước là do huy động và sử dụng có hiệu
quả từ các nguồn: ngân sách trung ương, ngân sách địa phương. Trên
cơ sở nguồn ngân sách trung ương phân bổ hằng năm và ngân sách
của tỉnh tuy vẫn còn khiêm tốn nhưng được sử dụng khá hiệu quả.
Tuy nhiên, trên thực tế, nguồn kinh phí cho hoạt động thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới chưa đáp ứng được yêu cầu.
2.2.5. Thanh tra, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện pháp luật
về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Thực hiện Chiến lược, Chương trình quốc gia bình đẳng giới
của Chính phủ, công tác thanh, kiểm tra, giám sát luôn được Tỉnh ủy,
UBND tỉnh triển khai thực hiện nghiêm túc. Từ năm 2011- 2018,
Tỉnh đã thành lập 22 đoàn kiểm tra công tác bình đẳng giới và vì sự
tiến bộ của phụ nữ tiến hành kiểm tra 72 lượt tại các sở, ban, ngành
nhằm đánh giá tình hình triển khai thực hiện Chiến lược, Chương
trình quốc gia bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ phụ nữ các
đơn vị, địa phương; những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc để kịp
16
thời tháo gỡ, đề xuất, kiến nghị với Tỉnh ủy và các cơ quan Trung
ương. Tuy nhiên, công tác kiểm tra mới dừng lại ở cấp tỉnh. Trong
thời gian tới, tỉnh cần có kế hoạch phân công các huyện tự kiểm tra
các xã trên địa bàn hoặc kiểm tra chéo để giảm tải công việc cho các
cơ quan quản lý cấp tỉnh cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm
của địa phương, tạo điều kiện để mọi đơn vị cấp cơ sở đều được
kiểm tra đồng loạt.
2.3. PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CHUNG
2.3.1. Kết quả đạt được
Nhằm triển khai, thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2011 - 2020, ngày 24/5/2011, UBND tỉnh Bình Phước
đã ban hành Kế hoạch số 59/KH-UBND, ngày 24/5/2011 về chương
trình hành động quốc gia về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Bình
Phước giai đoạn 2011-2015 và Kế hoạch hành động số 194/KH-
UBND, ngày 03/8/2016 về bình đẳng giới giai đoạn 2016 – 2020, kế
hoạch đã xác định 7 mục tiêu, trong đó mục tiêu trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo là: Đảm bảo sự tham gia bình đẳng của phụ nữ với
nam giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ. Cụ thể: Phổ cập biết chữ
nam giới và phụ nữ ở độ tuổi 15 đến 40 ở vùng sâu, vùng xa đạt 99%
vào năm 2020; đưa kiến thức giới vào trong các cấp học, trước tiên
đưa chuyên đề bình đẳng giới và giảng dạy trong các lớp quản lý nhà
nước và trung cấp chính trị của tỉnh.
Đối với chỉ tiêu thứ nhất: “Phổ cập biết chữ nam giới và phụ nữ
ở độ tuổi 15 đến 40 ở vùng sâu, vùng xa đạt 99% vào năm 2020”.
Tỉnh đã mạnh dạn đề ra chỉ tiêu cao hơn chỉ tiêu của Chiến lược
quốc gia. Theo đánh giá của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước, trong
những năm gần đây, công tác phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao
17
chất lượng nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số, được tỉnh và
các huyện đặc biệt quan tâm. Hằng năm, tỷ lệ học sinh người dân tộc
thiểu số hoàn thành chương trình các cấp đạt tỷ lệ cao. Tính đến năm
2018, tỷ lệ nam, nữ ở vùng sâu, vùng xa trong độ tuổi từ 15 đến 40
trên địa bàn tỉnh biết chữ ở mức độ 1 đạt 97,43%.
Đối với chỉ tiêu thứ hai: “Đưa kiến thức giới vào trong các cấp
học, trước tiên đưa chuyên đề bình đẳng giới và giảng dạy trong các
lớp quản lý nhà nước và trung cấp chính trị của tỉnh”.
Việc đưa kiến thức giới vào trong các cấp học là một nhiệm vụ
vô cùng quan trọng đã và đang được các cấp lãnh đạo và quản lý tỉnh
Bình Phước, nhất là ngành giáo dục - đào tạo không ngừng quan tâm
trong thời gian qua. Đội ngũ cán bộ, giáo viên các cấp học đã từng
bước đổi mới nội dung, phương pháp, chương trình giảng dạy, lồng
ghép vấn đề giới và bình đẳng giới vào trong các môn học. Tuy
nhiên, tại các trường ở một số huyện vùng sâu, vùng xa, việc đưa
kiến thức giới vào chương trình giảng dạy vẫn còn nhiều hạn chế.
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng
cho đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ nòng cốt, trong diện quy hoạch và
cả những lãnh đạo trẻ về kiến thức giới, những năm gần đây chương
trình đào tạo, bồi dưỡng tại các lớp quản lý nhà nước và trung cấp
chính trị của tỉnh đã lồng ghép kiến thức về giới, thực hiện pháp luật
về bình đẳng giới.
Về tình hình thực hiện bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo trong những năm qua ở tỉnh Bình Phước đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ như sau: Một là, sự chênh lệch về học
sinh nam và học sinh nữ trong tất cả các cấp học đang dần được thu
hẹp, tỷ lệ trẻ em gái phải nghỉ học ở tất cả các cấp học giảm đáng kể.
Hai là, đội ngũ nữ trí thức trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng cả về số
18
lượng, chất lượng. Ba là, nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và
nhân dân tỉnh Bình Phước về vai trò, tầm quan trọng của việc thực
hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo từng bước
được nâng lên đáng kể.
2.3.2. Những tồn tại và nguyên nhân
Một là, tỷ lệ nữ học sinh, sinh viên theo học các cấp, bậc, ngành
học tuy có tăng lên những năm gần đây nhưng chưa bền vững và
nhìn chung thấp hơn tỷ lệ nam.
Hai là, có thể thấy ở các bậc giáo dục như tiểu học, trung học cơ
sở, trung học phổ thông và bậc đại học, cao đẳng thì tỷ lệ nam nữ là
ngang nhau thậm chí nữ còn cao hơn nam nhưng đến các bậc cao
hơn như thạc sĩ, tiến sĩ con số này giảm hẳn.
Ba là, sự phân biệt về giới còn phổ biến trong việc lựa chọn
ngành học, cấp học, trong các tài liệu, sách giáo khoa.
Bốn là, trên địa bàn tỉnh, theo số liệu thống kê, tỷ lệ nhập học
giáo dục giữa nữ và nam khá bình đẳng, tuy nhiên tại các xã vùng
sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng các dân tộc thiểu số còn có sự chênh
lệch khá lớn do những phong tục tập quán lạc hậu vì vậy có rất nhiều
bé gái không được đến trường và không được tiếp cận với các dịch
vụ xã hội đầy đủ, do đó tỷ lệ phụ nữ nghèo, phụ nữ mù chữ vẫn còn
cao.
Năm là, tỷ lệ nữ làm lãnh đạo, quản lý trong ngành chưa tương
xứng với số lượng và khả năng của họ.
Sáu là, các ban ngành cũng như cán bộ, cộng tác viên phụ trách
các lĩnh vực liên quan đến vấn đề bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh
nhìn chung vẫn còn yếu và thiếu.
Nguyên nhân của những tồn tại này là:
19
Thứ nhất, định kiến giới vẫn còn tồn tại khá nặng nề cả trong
bản thân người nam và người nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
Thứ hai, các quy định của pháp luật chưa đồng bộ, chưa được
hướng dẫn cụ thể và chưa có biện pháp chế tài đảm bảo thực hiện
bình đẳng giới một cách hữu hiệu.
Thứ ba, thiếu chế tài xử phạt đối với các ban, ngành, đoàn thể
tại các địa phương khi chưa hoàn thành các chỉ tiêu của Chiến lược
quốc gia về bình đẳng giới.
Thứ tư, trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta
vẫn tồn tại một số quy định tạo ra sự khác biệt trong việc thụ hưởng
chính sách giữa nam và nữ.
Thứ năm, kinh phí cho hoạt động thực hiện pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo chưa được đầu tư đúng
mức.
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT
ĐỘNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC
3.1. QUAN ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH
ĐẲNG GIỚI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Một là, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới gắn với việc kiên
quyết và kiên trì chống lại tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”, phân biệt
đối xử về giới.
Hai là, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới gắn liền với việc
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
20
Ba là, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới phải trên cơ sở nắm
vững quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về nam, nữ bình quyền.
Bốn là, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là giải phóng cả
nam và nữ khỏi những áp đặt, định kiến của xã hội để người nam và
người nữ đều được hạnh phúc hơn.
Năm là, thực hiện pháp luật về bình đẳng giới gắn liền với việc
phát huy vai trò của người phụ nữ trong giai đoạn cách mạng mới.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO T
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_thuc_hien_phap_luat_ve_binh_dang_gioi_trong.pdf