Về thực hiện công tác giám sát: Phát huy vai trò của Thanh tra
nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng, nhất là giám sát việc thực
hiện các công trình “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Ngoài ra nhân
dân còn thực hiện quyền giám sát bằng hình thức gặp trực tiếp phản
ánh, kiến nghị với cấp ủy, chính quyền hoặc thông qua sinh hoạt tổ
dân phố, Mặt trận, đoàn thể, nội dung chủ yếu là lĩnh vực an ninh trật
tự, vệ sinh môi trường, xây dựng, quy hoạch. Thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường, nhiều phường, Mặt
trận tổ quốc chủ trì phối hợp với UBND tổ chức hội nghị thông tin
hằng quý, tiếp xúc, đối thoại, thông tin giữa nhân dân với chính quyền,
qua đó trả lời, thông tin, giải quyết những vấn đề do nhân dân phản
ánh và theo dõi, giám sát chính quyền. Ngoài ra UBND các phường
quan tâm chỉ đạo, đánh giá tinh thần thái độ trách nhiệm của toàn thể
cán bộ công chức phường, khu phố, cảnh sát khu vực, trong mối quan
hệ giải quyết công việc của dân, xây dựng thành tiêu chí đánh giá cán
bộ, xem xét đề xuất khen thưởng. Tăng cường thông tin và đối thoại
trực tiếp người dân, qua đó kéo giảm khiếu nại, tố cáo.
29 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở tại quận 12, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n địa bàn tỉnh Thanh Hóa” của Lại Thế Nguyên năm 2014; Luận
văn Thạc sĩ Luật học - Đại học Quốc gia Hà Nội “Thực hiện pháp luật
về dân chủ ở xã trên địa bàn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên” của
Nguyễn Thị Tuyết năm 2014; bài viết “Thực hiện pháp luật dân chủ ở
cơ sở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên hiện nay”
của ThS. Đỗ Văn Dương - Trường Chính trị tỉnh Đắk Lắk đăng trên
cổng thông tin điện tử Viện nghiên cứu lập pháp năm 2012; bài viết
“Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Sơn La hiện nay: Thực trạng
và giải pháp” của ThS. Đinh Thế Thanh Tú, Trường Đại học Tây Bắc
đăng trên tạp chí Lý luận chính trị năm 2016; bài viết “Thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở ở xã, phường - thành tố quan trọng của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay” của ThS. Nguyễn
Thị Linh Huyền, Trường Đại học Tây Bắc đăng trên trang thông tin
5
điện tử Trường Đại học Tây Bắc năm 2015. Các công trình nghiên cứu
trên còn tập trung nghiên cứu về lý luận thực hiện dân chủ ở cơ sở ở
những địa phương cụ thể, chưa nghiên cứu sâu thực hiện pháp luật và
chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở (chủ thể có thẩm quyền
áp dụng pháp luật).
Các công trình nghiên cứu về thực hiện dân chủ ở cơ sở mang
tính định hướng, giải pháp thực hiện, tăng cường dân chủ ở cơ sở như:
Luận án Tiến sĩ – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh “Thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Nguyễn Hồng Chuyên
năm 2014; Luận án Tiến sĩ – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa
bàn các tỉnh Tây Nguyên” của Đỗ Văn Dương năm 2014; bài viết
“Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức trách nhiệm
của nhà nước” của GS. Lê Thi – Viện khoa học xã hội Việt Nam đăng
trên Tạp chí Triết học, số 8 (219), tháng 8 – 2009; bài viết “Một số
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ
cơ sở xã, phường, thị trấn ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Xuân Huy,
Ủy ban nhân dân thi ̣ trấn Thanh Ba, Thanh Ba, Phú Tho ̣đăng trên tạp
chí Dân chủ và Pháp luật (Bộ Tư pháp) năm 2016; bài viết “Vai trò
của thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay” của
Nguyễn Hồng Chuyên, Ủy ban nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái
Bình đăng trên Tạp chí Luật học năm 2011. Tác giả tâm đắc vấn đề
trách nhiệm của Nhà nước trong thực hiện dân chủ cơ sở (cụ thể là
trách nhiệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở), chủ thể có vai trò
đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở. Các công trình nghiên cứu là nguồn tư liệu tham khảo quan
6
trọng về giải pháp để nâng cao hiệu quả, vai trò và giải pháp thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
Quận 12 là địa phương đang trong quá trình đô thị hóa rất nhanh,
phát triển theo hướng “đô thị văn minh, hiện đại, nghĩa tình”. Để tiếp
tục phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, cũng như trách nhiệm thực
hiện dân chủ ở cơ sở của các chủ thể có thẩm quyền, đòi hỏi phải có
đánh giá tổng quát việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cở sở xuất
phát từ thực tiễn trong quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ
sở tại Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.
Từ tình hình nghiên cứu như trên, đề tài “Thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở tại Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh” là cần thiết
và hoàn toàn phù hợp, bảo đảm tính riêng biệt trong giai đoạn hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên những cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, luận văn nghiên cứu, đề xuất các
giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở tại Quận 12
trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ: Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận và lý thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở; hai là, nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp
luật về dân chủ cơ sở tại Quận 12, từ đó đánh giá kết quả thực hiện,
xác định mặt mạnh, mặt yếu và nguyên nhân, đúc kết bài học kinh
nghiệm; ba là, xây dựng hệ thống giải pháp để bảo đảm hiệu quả, hiệu
lực việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở tại Quận 12.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
7
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở ở các phường trên địa bàn Quận 12 với các chủ
thể có thẩm quyền trong áp dụng pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực hiện pháp luật về dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.
Về thời gian: Nghiên cứu thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ
sở trên đia bàn Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012 -
2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở. Trong quá trình triển khai nội dung nghiên cứu,
sử dụng các phương pháp cụ thể sau: Thống kê, phân tích, so sánh, đối
chiếu, tổng hợp, nghiên cứu tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở từ thực tiễn tại Quận 12, thành phố Hồ
Chí Minh nói chung; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chủ
thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở và từ đó đề xuất các giải
pháp, chủ trương bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở trên địa bàn Quận 12.
Luận văn có thể là nguồn tài liệu tham khảo, sử dụng cho các
chủ thể áp dụng pháp luật về dân chủ ở cơ sở tại Quận 12 và các quận,
huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và cũng là nguồn tài liệu
8
tham khảo cho sinh viên, học viên cao học tại Học viện Hành chính
Quốc gia cơ sở thành phố Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về dân chủ ở cơ sở
và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
tại Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở tại Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ DÂN CHỦ Ở
CƠ SỞ VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Dân chủ ở cơ sở và pháp luật về dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm dân chủ ở cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
Khái niệm dân chủ, như nhiều người quan niệm, dường như là
một sản phẩm của văn minh phương Tây, đúng hơn là văn minh Hy
Lạp. Chữ “democracy” (dân chủ) trong tiếng Anh và một số ngôn ngữ
Tây phương khác hiện nay có gốc gác từ tiếng Hy Lạp cả hơn hai ngàn
năm trăm năm trước, trong đó, “demos” là dân, nhân dân; và “kratos”
quyền lực. “Demoskratia” – dân chủ - có nghĩa quyền lực thuộc về
nhân dân. Xuất phát từ nguồn gốc trực tiếp dẫn tới sự ra đời khái niệm
“Demoskratia” thì dân chủ trước hết là khái niệm thuộc về lĩnh vực
chính trị, có nghĩa quyền lực chính trị - quyền lực nhà nước phải thuộc
về nhân dân.
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Dân chủ là hình thức
tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân
dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và
tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của
những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định” [13].
1.1.1.2. Khái niệm dân chủ ở cơ sở
Dân chủ ở cơ sở là sự phản ánh vị thế quyền lực của nhân dân
trên địa bàn cơ sở. Cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một
cách chính xác nhất đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan.
10
1.1.1.3. Đặc điểm dân chủ ở cơ sở
Dân chủ ở cơ sở là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước ở cơ
quan nhà nước thấp nhất, mà quyền lực đó thuộc về nhân dân. Nghĩa
là nhân dân có quyền được biết, được bàn và được tham gia giải quyết
và kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở, là hình thức nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện
ý chí, nguyện vọng đối với những vấn đề về tổ chức và hoạt động ở
cơ sở. Nhân dân trực tiếp bỏ phiếu tín nhiệm, bầu cử lập nên cơ quan
quyền lực nhà nước ở cơ sở đại điện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhân dân trực
tiếp làm chủ, trực tiếp quyết định các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình phù hợp với quy định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về dân chủ ở cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung
do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các
biện pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế.
Pháp luật về dân chủ ở cơ sở là toàn bộ quy phạm pháp luật quy
định quyền hạn và nghĩa vụ của nhà nước và nhân dân phù hợp với
Hiến pháp nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân được thực hiện trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở (xã,
phường, thị trấn), là pháp luật về hình thức.
11
1.1.2.2. Đặc điểm pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Pháp luật về dân chủ ở cơ sở quy định về cách thức thực hiện
dân chủ ở cơ sở như quy định về các nội dung, trách nhiệm, hình thức
thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; là
công cụ là cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
1.2. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở
Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật – Học
viện Hành chính Quốc gia, “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc
sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật” [23].
Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là hoạt động có mục đích
của các cơ quan nhà nước, tổ chức và các cá nhân, làm cho những
quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở đi vào cuộc sống nhằm phát
huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh
tế, văn hoá - xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội giàu đẹp, công
bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong
sạch, vững mạnh.
1.2.2. Chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, với cách tiếp cận khác,
nếu Hiếp pháp là nền móng của pháp luật về dân chủ thì chính bản
thân cơ quan lập hiến hoặc là hoạt động lập pháp về thực hiện dân chủ
ở cơ sở của cơ quan lập pháp (Quốc hội) cũng chính là một chủ thể
của thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Chính phủ, các bộ, chính
quyền địa phương các cấp thực hiện quyền lập quy để triển khai thực
12
hiện Hiến pháp, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Xét về khía
cạnh này, chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở là tất cả các
cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật phù hợp
với Hiến pháp, luật về dân chủ ở cơ sở (kể cả Quốc hội là cơ quan lập
hiến, lập pháp).
Xét về khía cạnh, chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ
sở là các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật về dân chủ ở cơ sở
được chia làm hai nhóm sau:
Nhóm thứ nhất, chủ thể là cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhóm thứ hai, chủ thể là tổ chức được nhà nước trao quyền.
1.2.3. Nội dung thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Một là, ban hành văn bản pháp luật để triển khai văn bản luật,
văn bản dưới luật về dân chủ ở cơ sở.
Hai là, tuyên truyền phổ biến pháp luật về dân chủ ở cơ sở để
nâng cao nhận thức của các chủ thể và đối tượng chịu sự điều chỉnh
của pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Ba là, bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, tổ chức bộ máy và
nguồn nhân lực để triển khai thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở.
Bốn là, theo dõi, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện pháp luật dân
chủ ở cơ sở.
Năm là, hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát về thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở, là hoạt động thường xuyên để bảo đảm
pháp luật về dân chủ ở cơ sở được thực hiện hiệu lực, hiệu quả.
Sáu là, sơ kết, tổng kết việc thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ
sở.
Bảy là, thực hiện các biện pháp nghiệp vụ của chủ thể có thẩm
quyền trong triển khai các quy định pháp luật dân chủ ở cơ sở, cụ thể:
13
những nội dung cần công khai để dân biết; những nội dung nhân dân
được bàn và quyết định trực tiếp; những nội dung dân bàn, biểu quyết,
tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết định; những nội dung
nhân dân giám sát.
1.2.4. Vai trò của thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
1.2.4.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần mở
rộng dân chủ, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân
1.2.4.2. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền cấp cơ sở
1.2.4.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần phát
triển kinh tế, văn hóa – xã hội; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở cơ sở
1.3. Yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về dân chủ
ở cơ sở
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ
sở bao gồm: Chế độ chính trị; sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam; quản lý của chính quyền địa phương và cán bộ, công chức; hệ
thống pháp luật; điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá - xã hội.
14
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở
CƠ SỞ TẠI QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tổng quan điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Quận 12
Hình 2.1. Bản đồ địa giới hành chính Quận 12
Quận 12 có 11 phường (gồm phường An Phú Đông, phường
Đông Hưng Thuận, phường Trung Mỹ Tây, phường Tân Thới Nhất,
phường Tân Chánh Hiệp, phường Tân Thới Hiệp, phường Thạnh Lộc,
phường Thạnh Xuân, phường Thới An, phường Hiệp Thành và
phường Tân Hưng Thuận), 80 khu phố, 980 tổ dân phố và 142.284 hộ
với 558.260 nhân khẩu. Nền kinh tế Quận 12 được phát triển theo
hướng “thương mại, dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp”, kinh tế
không ngừng phát triển, đời sống người dân từng bước được nâng lên,
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tỷ trọng ngành
15
thương mại – dịch vụ năm 2017 đạt tỷ lệ 52,24% và có xu hướng tiếp
tục tăng trong thời gian tới, sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp giữ tỷ trọng tương đối ổn định ở mức 47,33%, tỷ trọng nông
nghiệp chỉ còn 0,43%. Tốc độ phát triển ngành thương mại – dịch vụ
tăng trưởng bình quân 19,6%/năm, ngành công nghiệp đạt 17,3%/năm.
Thu ngân sách nhà nước tăng đều qua các năm, tổng thu ngân sách nhà
nước giai đoạn 2011 – 2016 ước hơn 7.259 tỷ đồng, trong đó năm 2016
thu hơn 2.049 tỷ đồng.
Công tác quản lý đô thị ngày càng được nề nếp, tốc độ đô thị
hóa nhanh. Năm 2016, 130.796 hộ dân được tiếp cận nước sạch, đạt
100% kế hoạch theo Nghị quyết 35/NQ-HĐND ngày 11 tháng 12 năm
2015 của Hội đồng nhân dân Thành phố. Thực hiện phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, nhân dân và chính quyền
địa phương tích cực xây dựng khu phố văn hóa, gia đình văn hóa, số
đơn vị văn hóa hằng năm đạt trên 80% với hơn 391.699 lượt hộ được
công nhận gia đình văn hóa, trong đó xây dựng đạt 02/11 phường đạt
chuẩn văn minh, đô thị (phường Thới An và phường Tân Chánh Hiệp).
Giải quyết việc làm cho hơn 32.196 lượt người. Đến năm 2016, trên
địa bàn quận có 1.119 phòng học bậc mầm non (trong đó có 952 phòng
học ngoài công lập), 571 phòng học bậc tiểu học (trong đó có 10 phòng
học ngoài công lập) và 371 phòng học bậc trung học cơ sở. Tình hình
pháp hình sự có xu hướng tăng, năm 2011 xảy ra 164 vụ, năm 2016
xảy ra 245 vụ, giai đoạn 2011 – 2016 xảy ra 1.410 vụ phạm pháp hình
sự.
16
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở tại
Quận 12
Thường xuyên quán triệt nội dung của Chỉ thị 30-CT/TW của
Bộ Chính trị, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 và các Nghị định
của Chính phủ về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
Quận uỷ, Uỷ ban nhân dân Quận 12 xác định đây là một chủ trương
lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là bước cụ thể hoá phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nhằm đưa chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc
sống thực sự có hiện quả, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành, phục vụ của Nhà nước; phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cấp ủy chỉ đạo, tổ chức thực hiện, thể hiện phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong đó tập trung nội dung về
công khai tài chính, dự án công tình và công tác về cán bộ, tiếp tục chỉ
đạo cụ thể hóa bằng nghị quyết, chương trình, kế hoạch hàng năm,
quan tâm chỉ đạo công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức và linh
hoạt, tổ chức thực hiện các nội dung phù hợp với từng địa phương,
cộng đồng dân cư như thông qua niêm yết, công khai, sinh hoạt tổ dân
phố, bản tin của phường, quận, qua hệ thống loa truyền thanh
Thực hiện 11 nội dung công khai theo Pháp lệnh 34, nhất là
công khai thủ tục hành chính bằng nhiều hình thức niêm yết tại trụ sở
và sắp xếp theo loại như: Nhà đất, hộ tịch, chứng thực, sao y, phí, lệ
phí, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, dự án, đền bù tái định cư, danh
17
sách hộ nghèo, các nguồn quỹ từ các khoản đóng góp của nhân dân,
chủ trương làm đường, mở hẻm, tình hình trật tự xã hội, trật tự xây
dựng, tuyển quân Các nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của công dân như: quyền được biết, được bàn, được kiểm tra, giám
sát, nội dung phải xin ý kiến nhân dân theo Pháp lệnh 34 và các hướng
dẫn. Đồng thời các phường còn chú trọng chỉ đạo bộ phận chức năng
biên soạn nội dung công khai niêm yết theo hướng để dân dễ tiếp cận,
dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm và tiện việc giám sát, có nhiều hình thức đa
dạng lấy ý kiến người dân, Nhà nước quyết định như: Về quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch hẻm giới, quy hoạch mua bán những
ngành hàng, các khoản đóng góp của nhân dân. Nơi niêm yết, công
khai cũng đa dạng: Phát tài liệu, các văn bản đến tổ dân phố, phát hành
thông báo, phát phiếu lấy ý kiến, họp tổ dân phố, tiếp xúc cử tri tạo
điều kiện thuận lợi người dân được biết để cùng tham gia vào quản lý
Nhà nước.
Những nội dung đưa ra dân bàn và quyết định trực tiếp chủ yếu
là những việc như nâng cấp mở rộng đường, hẻm nội bộ, thoát nước,
công trình phúc lợi công cộng bằng hình thức họp đại diện cử tri là
chủ yếu. Thực hiện dân chủ đã tạo ra sự đồng thuận khá cao trong nhân
dân, đối với một số hộ dân chưa đồng thuận, ở từng đơn vị cơ sở
phường, khu phố, tổ dân phố phối hợp chủ đầu tư và đơn vị thi công
suy nghĩ cách làm “dân vận khéo” như phân công cán bộ có uy tín vận
động, phát huy vai trò những người có uy tín trong gia đình, hay sử
dụng phương thức đồng thuận tới đâu thi công tới đó, hỗ trợ người dân
18
neo đơn, khó khăn trong di dời vật kiến trúc để bàn giao mặt bàng, qua
đó làm cho số hộ chưa đồng thuận cũng đắn đo suy nghĩ.
Về thực hiện công tác giám sát: Phát huy vai trò của Thanh tra
nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng, nhất là giám sát việc thực
hiện các công trình “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Ngoài ra nhân
dân còn thực hiện quyền giám sát bằng hình thức gặp trực tiếp phản
ánh, kiến nghị với cấp ủy, chính quyền hoặc thông qua sinh hoạt tổ
dân phố, Mặt trận, đoàn thể, nội dung chủ yếu là lĩnh vực an ninh trật
tự, vệ sinh môi trường, xây dựng, quy hoạch. Thực hiện thí điểm
không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường, nhiều phường, Mặt
trận tổ quốc chủ trì phối hợp với UBND tổ chức hội nghị thông tin
hằng quý, tiếp xúc, đối thoại, thông tin giữa nhân dân với chính quyền,
qua đó trả lời, thông tin, giải quyết những vấn đề do nhân dân phản
ánh và theo dõi, giám sát chính quyền. Ngoài ra UBND các phường
quan tâm chỉ đạo, đánh giá tinh thần thái độ trách nhiệm của toàn thể
cán bộ công chức phường, khu phố, cảnh sát khu vực, trong mối quan
hệ giải quyết công việc của dân, xây dựng thành tiêu chí đánh giá cán
bộ, xem xét đề xuất khen thưởng. Tăng cường thông tin và đối thoại
trực tiếp người dân, qua đó kéo giảm khiếu nại, tố cáo. Thực hiện đúng,
đầy đủ các quy định về quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần tăng cường
mối quan hệ đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, ý thức phục vụ nhân
dân, phòng ngừa các biểu hiện tiêu cực, tạo điều kiện cho cán bộ công
chức, phát huy quyền làm chủ tập thể, tăng cường các hoạt động giám
sát, phối hợp hỗ trợ, trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu, phấn đấu
hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở.
19
2.2. Đánh giá chung về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ
sở tại Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1. Kết quả
Qua việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, từng bước xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là công bộc của Nhân dân,
có đủ phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực và
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm việc có năng suất, chất lượng,
hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước; phòng
ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
phiền hà, sách nhiễu Nhân dân góp phần xây dựng các cấp chính
quyền, xây dựng cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh.
Công tác kiểm tra giám sát được chú trọng thực hiện thường
xuyên, qua đó nhắc nhở, chấn chỉnh kịp thời những hạn chế, yếu
kém trong việc triển khai thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở
một số cơ quan, đơn vị.
Việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở đã thực sự đi vào
đời sống của Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân với
phương chăm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ
hưởng”, huy động được tiềm lực to lớn trong Nhân dân tham gia
đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an
ninh trên địa bàn quận, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng, sự điều hành, phục vụ của chính quyền.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Công tác tuyên truyền, phổ biến Pháp lệnh 34 có lúc, có nơi
chưa đi vào chiều sâu.
Việc thực hiện công khai và hình thức công khai 11 nội dung
quy định tại Điều 5 của Pháp lệnh 34 cũng như công khai thủ tục
20
hành chính chưa tinh gọn, vẫn còn tình trạng giải quyết hồ sơ chậm
trễ.
Một bộ phận Nhân dân vẫn còn thờ ơ với các hoạt động của khu
phố, tổ dân phố, chưa thể hiện hết tinh thần trách nhiệm trong công tác
tự quản.
Hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám
sát đầu tư công đồng ở một số phường hiệu quả chưa cao, chưa phát
huy hết chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chưa phát huy
vai trò đại diện của Nhân dân, việc kiểm tra, giám sát gặp nhiều
khó khăn do trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ về giám sát
còn hạn chế.
21
Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIAI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TẠI QUẬN 12, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở tại Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh
3.1.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở cho cán bộ,
công chức và nhân dân bảo đảm tính công khai, minh bạch
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở ra đời là quá trình khảo
sát tình hình thực tiễn, sự tìm tòi, tổng kết của Đảng và Nhà nước ta
nhằm đáp ứng đòi hỏi bức xúc của cuộc sống. Dân chủ là khát vọng
sâu xa của quần chúng nhân dân lao động, là yêu cầu bức thiết của
cuộc sống. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu đúng nội dung, ý nghĩa,
mục đích của việc xây dựng, tổ chức, triển khai, thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở. Một số bộ phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế
trong nhận thức về vấn đề dân chủ. Do vậy, việc triển khai thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cơ sở còn gặp khó khăn, thực hiện không hiệu
quả. Trong thời gian tới cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm
của Đảng về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xem đây là khâu
đột phá quan trọng để phát huy quyền làm chủ của nhân dân tại cơ sở.
Công khai, minh bạch các chủ trương, chính sách, chế độ của Đảng,
nhà nước cho dân, cho công nhân viên chức biết để kiểm tra, giám
sátMuốn vậy phải cụ thể hoá thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
thành những quy định, nguyên tắc và quy trình thực hiện dân chủ, nhất
là những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến lợi ích của người dân, như
các dự án quy hoạch phát triển hạ tầng, đất đai, lợi ích công
22
3.1.2. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở gắn với phát
triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí trên địa bàn quận
Phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận việc trước tiên cần
phải thực hiện là phát triển lực lượng sản xuất, phải có chính sách cụ
thể nhằm phát huy tinh thần tự chủ trong sản xuất và phát triển kinh tế
gia đình; có chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với
điều kiện của quận; tăng cường ứng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_thuc_hien_phap_luat_ve_dan_chu_o_co_so_tai.pdf