MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài . 5
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 6
3. Mục đích và ý nghĩa của đề tài . 7
4. Phương pháp nghiên cứu . 8
5. Tư liệu. 9
6. Bố cục của Luận văn. 10
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vấn đề dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam . 13
1.1.1. Lịch sử vấn đề . 13
1.1.2. Về các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Namhiện nay . 14
1.2. Một số vấn đề lí luận liên quan đến ngữ pháp học nói chung và
ngữ pháp trong giảng dạy một ngoại ngữ . 17
1.2.1. Quan niệm về ngữ pháp . 17
1.2.2. Ngữ pháp trong việc giảng dạy một ngoại ngữ . 18
1.2.3. Vai trò của việc chú giải ngữ pháp trong giáo trình dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài . 20
1.3. Tìm hiểu các hiện tượng ngữ pháp trên cơ sở phân định từ loại . 22
Chương 2. TÌM HIỂU SỰ THỂ HIỆN CÁC CHÚ GIẢI NGỮ PHÁP TRONG CÁC GIÁO
TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGưỜI NưỚC NGOÀI
2.1. Tìm hiểu vị thế của ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài được biên soạn từ năm 1980 đến nay . 24
2.2. Thống kê các giáo trình khảo sát và phân chia theo trình độ . 40
2.3. Kết quả thống kê và nhận xét các hiện tượng ngữ pháp. 42
2.3.1. Số lượng các phần chú giải ngữ pháp và chủ điểm ngữ pháp. 42
2.3.2. Cách gọi tên, ngôn ngữ trong chú giải, trình tự và cách thức chú giải
ngữ pháp. 47
2.3.3. Cách thức giới thiệu và kiểu loại các chủ điểm ngữ pháp . 672.4. Tiểu kết . 75
Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VIỆC GIỚI THIỆU VÀ CHÚ GIẢI CÁC HIỆN
TưỢNG NGỮ PHÁP TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGưỜI
NưỚC NGOÀI
3.1. Về việc giới thiệu hiện tượng ngữ pháp trong các giáo trình . 76
3.1.1. Sự phân bố về số lượng chủ điểm ngữ pháp trong mỗi bài học . 76
3.1.2. Sự phân bố về nội dung chủ điểm ngữ pháp trong mỗi bài học . 77
3.1.3. Một số hiện tượng ngữ pháp chưa mang tính cơ bản . 80
3.1.4. Cùng một hiện tượng ngữ pháp – chú giải khác nhau. 80
3.1.5. Sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên ngành ngôn ngữ . 82
3.1.6. Một số sơ suất trong khâu biên tập. 84
3.2. Về việc xây dựng chuẩn cho chú giải ngữ pháp . 85
3.2.1. Tiêu chuẩn đúng. 85
3.2.2. Tiêu chuẩn đủ. 86
3.2.3. Tiêu chuẩn về tính đơn giản. 87
3.3. Tiểu kết . 88
PHẦN KẾT LUẬN . 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 94
PHẦN PHỤ LỤC . 99
22 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 603 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Tìm hiểu các hiện tượng ngữ pháp được giới thiệu trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài (từ năm 1980 đến nay), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Trên cơ sở đó, chúng
tôi đưa ra một cái nhìn tổng quan về hệ thống ngữ pháp được chú giải trong các giáo trình
này. Với việc mô tả, khảo sát mang tính thực tế, luận văn hy vọng sẽ góp phần tư liệu giải
quyết những vấn đề phức tạp trong việc chú giải các hiện tượng ngữ pháp trong giáo trình dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài.
Trong luận văn, chúng tôi thực hiện khảo sát phần chú giải ngữ pháp trong 20 giáo
trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài được biên soạn từ năm 1980 đến nay.
3. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Qua khảo sát, luận văn cố gắng chỉ ra được những mặt đạt và chưa đạt trong việc
biên soạn giải thích các hiện tượng ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài và liên tưởng với những tiêu chuẩn đối với chú giải ngữ pháp.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi muốn đem đến một cái nhìn tổng quan về quá trình
phát triển những cách thức biên soạn các chú giải ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài trong khoảng thời gian 30 năm trở lại đây. Chúng tôi cũng hy
vọng sẽ phát hiện được những điểm mạnh cũng như những điểm hạn chế của từng công
trình, từng giai đoạn.
Chúng tôi đặt ra mục đích nghiên cứu cụ thể là:
– Tìm hiểu vai trò của ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng cho người nước
ngoài được biên soạn từ năm 1980 đến nay.
– Thống kê các giáo trình khảo sát, phân chia theo trình độ, thống kê và nhận xét
các hiện tượng ngữ pháp về số lượng, tên gọi, trình tự giới thiệu, ngôn ngữ và cách thức sử
dụng để chú giải.
– Nhận xét các hiện tượng ngữ pháp được khảo sát về kiểu loại dựa trên sự phân
định từ loại.
Trên cơ sở đó, chúng tôi nhận định, phát hiện một số vấn đề ngữ pháp trong liên
tưởng với những tiêu chuẩn đối với việc chú giải ngữ pháp một cách hiệu quả.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là:
– Phương pháp thống kê
– Phương pháp tổng hợp
– Phương pháp miêu tả
– Phương pháp so sánh.
Trên cơ sở này, chúng tôi thực hiện theo trình tự như sau:
– Tiến hành thống kê về các hiện tượng ngữ pháp (chủ điểm ngữ pháp) trong chú
giải ngữ pháp ở từng bài trong các giáo trình.
– Tìm hiểu vai trò, vị thế ngữ pháp thông qua việc miêu tả về bố cục, mối tương
quan giữa phần hội thoại (bài đọc), chú giải ngữ pháp và phần luyện tập trong các giáo
trình. Từ đó, đưa ra một số nhận xét chung về ưu điểm, nhược điểm trong từng giáo trình.
– Thống kê các hiện tượng chú giải ngữ pháp về số lượng, tên gọi, ngôn ngữ và
cách tổ chức của các chú giải ngữ pháp, chủ điểm ngữ pháp.
– Đưa ra một số nhận xét về việc giới thiệu và chú giải các hiện tượng ngữ pháp
trong các giáo trình.
5. Tƣ liệu
Chúng tôi tiến hành khảo sát, mô tả các hiện tượng ngữ pháp được chú giải trong
các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài được xuất bản tại Việt Nam từ năm
1980 đến gần đây. Cụ thể là 20 giáo trình sau:
1. Giáo trình cơ sở Tiếng Việt thực hành, tập I, Nguyễn Văn Lai (Chủ biên), Khoa
Tiếng Việt, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, 1980.
2. Giáo trình cơ sở Tiếng Việt thực hành, tập II, Đặng Ngọc Cừ – Phan Hải (Chủ biên),
Khoa Tiếng Việt, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, 1980.
3. Tiếng Việt cho người nước ngoài, quyển 1, Bùi Phụng (Chủ biên), Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, 1987.
4. Tiếng Việt cho người nước ngoài, quyển 2, Bùi Phụng (Chủ biên), Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, 1987.
5. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Learning Morden Spoken Vietnamese, Bùi Phụng (Chủ
biên), NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, 1992.
6. Tiếng Việt cơ sở – Vietnamese for beginners, Vũ Văn Thi, Khoa Tiếng Việt và Văn
hoá Việt Nam cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc
gia Hà Nội, NXB Khoa học xã hội, 1996.
7. Tiếng Việt nâng cao (cho người nước ngoài) – Intermediate Vietnamese (for non–
native Speakers), Nguyễn Thiện Nam, Khoa Tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam cho
người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB
Giáo dục, 1998.
8. Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài), Trình độ B, Đoàn Thiện Thuật (Chủ
biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, NXB Thế Giới, 2001.
9. Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài), Trình độ C, Đoàn Thiện Thuật (Chủ
biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, NXB Thế Giới, 2001.
10. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 1, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt Nam
học và Tiếng Việt cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học
Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, 2003.
11. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 2, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt Nam
học và Tiếng Việt cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học
Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, 2003.
12. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 3, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt Nam học và
Tiếng Việt cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc Gia TP.
Hồ Chí Minh, NXB Giáo dục, 2003.
13. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 4, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt Nam
học và Tiếng Việt cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, NXB Đại
học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, 2003.
14. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Trình độ nâng cao – Vietnamese for foreigners
Intermediate Level, Trịnh Đức Hiển (Chủ biên), Khoa Tiếng Việt và Văn hoá Việt
Nam cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà
Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
15. Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài) – Trình độ A, tập 1, Đoàn Thiện
Thuật (Chủ biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, 2004.
16. Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài) – Trình độ A, tập 2 Đoàn Thiện
Thuật (Chủ biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, 2004.
17. Thực hành Tiếng Việt – Practice Vietnamese – Use for Foreigners, Nguyễn Việt
Hương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
18. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Vietnamese for foreigners, Mai Ngọc Chừ,
NXB Thế Giới, 2006.
19. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Chương trình cơ sở – Vietnamese for
foreigners, Nguyễn Văn Phúc (Chủ biên) – Đào Văn Hùng – Nguyễn Văn Chính,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
20. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Vietnamese for foreigners, Nguyễn Anh Quế,
NXB Văn hoá thông tin Hà Nội, 2007.
Chúng tôi lựa chọn các tư liệu này để khảo sát vì đây là những giáo trình dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài đã và đang được sử dụng phổ biến tại Việt Nam. Các giáo trình
được phân chia ở cả bậc cơ sở và nâng cao, chúng tôi có điều kiện so sánh và đánh giá mức độ
một số vấn đề về nội dung ngữ pháp được chú giải. Hơn nữa, qua việc khảo sát này, chúng ta
có thể hình dung được diễn trình thực tế của vị thế ngữ pháp thể hiện trong các giáo trình dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài được biên soạn từ năm 1980 đến nay.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung luận văn gồm 3 chương, như sau:
Chƣơng 1: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN
Chương 1 giới thiệu các vấn đề lý luận liên quan đến ngữ pháp học tiếng Việt nói
chung và tầm quan trọng của ngữ pháp dạy tiếng, trong đó lưu ý đến cơ sở phân định từ loại
trong lí thuyết ngữ pháp tiếng Việt.
Chƣơng 2: TÌM HIỂU SỰ THỂ HIỆN CÁC CHÚ GIẢI NGỮ PHÁP TRONG CÁC GIÁO
TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI
Chương 2 tìm hiểu sự thay đổi về vai trò, vị thế của ngữ pháp trong các giáo trình
dạy tiếng Việt cho người nước ngoài từ 1980 đến nay. Đồng thời, trong chương này, chúng
tôi sẽ tiến hành thống kê, phân chia và đưa ra những nhận xét về số lượng các phần chú
giải ngữ pháp và chủ điểm ngữ pháp ; cách gọi tên và ngôn ngữ chú giải ; trình tự và cách
thức giới thiệu các phần chú giải ngữ pháp trong bài học.
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VIỆC GIỚI THIỆU VÀ CHÚ GIẢI CÁC HIỆN
TƢỢNG NGỮ PHÁP TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI
NƢỚC NGOÀI
Chương 3 là phần đánh giá về một số hiện tượng ngữ pháp mà chúng tôi cho rằng
chưa thật hợp lý dựa trên phụ lục từng chú giải ngữ pháp được khảo sát (cung cấp ở cuối
luận văn). Về việc nghiên cứu hướng sửa đổi những điều chưa thật hợp lý này và đưa ra
những giải pháp thích hợp, chúng tôi cho rằng cần có một công trình nghiên cứu chuyên
sâu hơn.
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vấn đề dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam
1.1.1. Lịch sử vấn đề
Việc dạy học ngôn ngữ hay giáo dục ngôn ngữ theo Rozdextvenxki là “một lĩnh
vực của nghiên cứu ngôn ngữ ứng dụng nhằm mục đích phổ biến các tri thức về ngôn ngữ
và các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ... Giáo dục ngôn ngữ miêu tả ngôn ngữ nhằm mục đích
dạy học ngôn ngữ và rèn luyện ngôn ngữ” [45, tr. 337]. Trọng tâm của giáo dục ngôn ngữ
gắn với vấn đề dạy tiếng – dạy một ngôn ngữ với tư cách là một ngoại ngữ.
Trong xu thế giao lưu thương mại giữa các nước trên thế giới, ngoại ngữ trở thành
phương tiện giao tiếp cơ bản nhưng đồng thời cũng là rào cản giao tiếp. Việc dạy và học
ngoại ngữ chính là bước loại bỏ từng phần rào cản này.
Ở Việt Nam, việc dạy và học tiếng Việt như một ngoại ngữ chắc chắn đã có một
lịch sử lâu dài gắn liền với mối giao bang với người nước ngoài. Tài liệu cổ nhất được tìm
thấy là cuốn giáo trình giáo khoa dạy hội thoại tiếng Pháp và tiếng Bắc Kỳ do cha xứ
M.Bon (cố Bân) và Droket (cố Ân) – giáo trình dẫn đàng nói chuyện bằng tiếng Pháp và
tiếng An Nam. Trương Vĩnh Ký và Trương Vĩnh Thống cũng có một số tài liệu dạy tiếng
Việt cho các cha cố người nước ngoài.
Đến những năm 50 của thế kỉ XX những mối quan hệ quốc tế trong chiến tranh đã
làm tăng nhu cầu cấp bách trong việc dạy và học ngoại ngữ. Cho đến nay, việc khoa “Việt
Nam học và Tiếng Việt cho người nước ngoài” của Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) được
thành lập đã đưa tiến trình giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ chính thức trở thành
một ngành khoa học chuyên môn có tính lâu dài và phát triển.
Ngày nay, nhu cầu học tiếng Việt của những người nước ngoài đến Việt Nam ngày
càng nhiều với mục đích khác nhau. Dù với mục đích nào, theo Hoàng Trọng Phiến, yêu
cầu chính của họ vẫn là:
Một là, học để hiểu biết, sử dụng như một phương tiện giao tiếp trực tiếp với người
Việt Nam.
Hai là, học để nghiên cứu tiếng Việt và là công cụ văn hoá của ngành Việt Nam
học.
Ba là, một số rất ít học trong vòng vài ba tuần với số vốn tối thiểu về từ, câu, để
giao dịch đời thường trong lúc du lịch tại Việt Nam. [35].
Để đáp ứng nhu cầu đó, từ đây, các cơ sở, trung tâm dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, theo đó, số lượng các giáo trình, giáo trình dạy tiếng cho
người nước ngoài cũng phát triển phong phú và phục vụ cho những nhu cầu và mục đích
khác nhau của người học.
1.1.2. Về giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay
Cũng như các giáo trình dạy ngoại ngữ, một giáo trình dạy tiếng Việt (cơ sở) phải
nhằm giúp cho người học, sau khi học, có khả năng giao tiếp tối thiểu, (nghe, nói, đọc, viết).
Muốn vậy, theo Nguyễn Văn Khang “một giáo trình tiếng Việt cơ sở phải giúp cho người
học hoàn chỉnh về mặt phát âm (ngữ âm), có một vốn từ tối thiểu (từ vựng) và những mẫu
câu cơ bản (ngữ pháp)” [24, tr. 116]. Các giáo trình tiếng Việt (cơ sở) hiện nay hầu hết đều
có các phần như vậy. Tuy nhiên, mức độ và cấu trúc của mỗi giáo trình khác nhau.
Ở đây, chúng tôi quan tâm tới vấn đề chú giải ngữ pháp ở mỗi giáo trình. Nếu như
Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài, Trình độ A (tập 1, tập 2) của Đoàn Thiện
Thuật (Chủ biên) tách biệt riêng phần “ghi chú ngữ pháp” với mục đích làm rõ thêm những
điều đã học ở trong bài đọc, Tiếng Việt cho người nước ngoài của Mai Ngọc Chừ chỉ dẫn
một số phần “note” nhỏ về ngữ pháp đi kèm phần bài tập thì Tiếng Việt cơ sở của Vũ Văn
Thi, Tiếng Việt cho người nước ngoài của Nguyễn Anh Quế, Tiếng Việt cho người nước
ngoài của Nguyễn Văn Phúc, Thực hành Tiếng Việt của Nguyễn Việt Hương,... đều đi theo
hướng “chú giải ngữ pháp” là một phần chính trong mỗi bài học.
Những nghiên cứu về vấn đề chú giải ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài hiện nay chưa nhiều. Có thể nhắc đến một số bài viết, chẳng hạn,
“Phương pháp dạy và giải thích ý nghĩa các từ, ngữ của tiếng Việt cho người nước ngoài”
của Đào Thanh Lan nhấn mạnh việc áp dụng chức năng dụng học trong việc dạy và giải
thích ý nghĩa của các từ, ngữ là khâu quan trọng [26, tr. 140] ; Đào Thản trong bài viết “Dự
kiến về một giáo trình Tiếng Việt cho người nước ngoài” nhấn mạnh điểm xuất phát quan
trọng của giáo trình là từ đặc điểm của tiếng Việt. [37, tr. 236].
Nguyễn Văn Tu đã dựa trên thực tế “Việc soạn giáo trình và dạy tiếng Việt nhập
môn cho người nước ngoài” cho rằng, học ngoại ngữ hay dạy tiếng Việt như một ngoại
ngữ cần xoáy sâu vào từng chủ đề cần giảng để sinh viên nắm chắc được các mặt ngữ âm
cách dùng từ ngữ và cách đặt câu tiếng Việt một cách thật cơ bản [42, tr. 313-315]. Tuy
nhiên, trong các bài viết này, hầu như việc đề cập đến phần chú giải ngữ pháp như là một
phần trong bài học còn rất dè dặt.
Phải đến những bài viết của Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Thị Thuận, Nguyễn Thiện
Nam, vấn đề chú giải ngữ pháp mới được đề cập với tư cách là một phần quan trọng đối với
mỗi bài học trong giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.
Trong bài “Đôi điều suy nghĩ về các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài”,
Nguyễn Văn Chính nhấn mạnh việc giải thích các hiện tượng ngữ pháp được định trước và
thường được lồng ghép theo các bài hội thoại, mọi hiện tượng ngữ pháp được đưa vào chú
giải đều là những hiện tượng quan yếu trong tiếng Việt, tuy nhiên việc chú giải các hiện
tượng ngữ pháp này còn có nhiều bất cập (những bất cập mà tác giả nhắc đến, chúng tôi sẽ
lưu ý trong chương 3 của luận văn) [9, tr. 200-203].
Cũng với những bất cập này, khi nghiên cứu một số giáo trình dạy tiếng, Nguyễn Thị
Thuận đã cho rằng các chú thích ngữ pháp được đưa ra trong một số giáo trình thực chất là
dành cho người dạy chứ không phải người học, đó là những chú giải mang tính “Việt ngữ
học”, từ đó tác giả đã đưa ra ba tiêu chuẩn như những yêu cầu cần đạt để có được một chú
thích ngữ pháp hiệu quả cho người học, đó là “đúng, đủ – liều lượng hợp lí và đơn giản”.
[41, tr. 342-351].
Tiếp đó, đối với việc dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ, người dạy cần thông tư
tưởng như Bùi Phụng đã nói khi dạy tiếng Việt, quan trọng là anh phải biết không dạy gì chứ
không phải là dạy cái gì. [41, tr. 348]. Còn Nguyễn Thiện Nam trong bài viết “Một vài suy
nghĩ về khái niệm ngữ pháp trong giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài” nhấn
mạnh trong giáo trình dạy tiếng, thứ ngữ pháp hiệu quả nhất được dùng để chú giải ngữ
pháp phải là ngữ pháp thực hành, nhằm giới thiệu cho người học các hiện tượng ngữ pháp
mang tính đặc trưng nhất, song yêu cầu là đơn giản, nhẹ nhàng, dễ sử dụng đối với người
học. [27, tr. 156].
Vấn đề về chú giải ngữ pháp trong việc dạy và học tiếng Việt cho người nước ngoài
đang được quan tâm, lưu ý. Việc đưa ra những điều như Bùi Phụng đề cập là không hề đơn
giản, vì điều đó không chỉ đòi hỏi kiến thức chuyên môn của người dạy mà còn cần một bề
dày thực tế giảng dạy và việc tích lũy những kiến thức, kinh nghiệm từ thực tiễn. Chúng tôi
nghĩ rằng, để đạt được những tiêu chuẩn đúng – đủ và đơn giản mà Nguyễn Thị Thuận đưa
ra, cần có những tìm hiểu sâu hơn về xu hướng nghiên cứu ngữ pháp giải thích tiếng Việt.
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến ngữ pháp học nói chung và ngữ pháp trong
giảng dạy một ngoại ngữ
1.2.1. Quan niệm về ngữ pháp
Mục đích chính mà chúng tôi nêu ra trong luận văn là tìm hiểu các phần chú giải ngữ
pháp trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Vì thế, những hiện tượng liên
quan đến ngữ pháp được chúng tôi nhấn mạnh và đặc biệt quan tâm với hình thức nhận diện
là các phần: “ghi chú”, “ngữ pháp”, “ghi chú ngữ pháp” hay “chú giải ngữ pháp” trong các
giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Khi đi vào tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi đi
từ điểm xuất phát trước tiên là về ngữ pháp nói chung và ngữ pháp tiếng Việt nói riêng.
Lịch sử ngôn ngữ học đã chứng kiến, tiếp nhận và sử dụng không ít quan niệm
rộng, hẹp khác nhau về ngữ pháp. Tuy nhiên, dù xuất phát từ quan niệm ngữ pháp nào, thì
theo Nguyễn Chí Hòa, trong việc dạy tiếng, ngữ pháp bao giờ cũng phải được biểu hiện
một cách tường minh bằng các cấu trúc, các kết hợp trên bình diện hình thức vật chất của
ngôn ngữ [18, tr. 4]. Ngữ pháp có ba mặt cơ bản có tác động qua lại với nhau, đó là cú
pháp – từ vựng – ngữ nghĩa, trong đó: Cú pháp là các nguyên tắc, các đơn vị và mối quan
hệ ngữ pháp liên quan đến cấu trúc câu ; từ vựng là các từ, cụm từ và các đơn vị tương
đương ; còn ngữ nghĩa: các ý nghĩa liên kết từ của một ngôn ngữ và các mối quan hệ của
chúng trong các cấu trúc câu.
Nếu như quan niệm truyền thống ngôn ngữ học về ngữ pháp là một hệ thống các
quy tắc cấu tạo từ và cấu tạo câu (Diệp Quang Ban) thì xuất phát từ góc độ dạy tiếng
Việt thực hành với tư cách một ngoại ngữ, chúng tôi xin đề cập tới một quan niệm sau
đây của Nguyễn Thiện Nam: Ngữ pháp học là sự miêu tả cấu trúc của một ngôn ngữ và
cái cách mà các đơn vị ngôn ngữ như từ và cụm từ kết hợp lại với nhau để tạo nên câu
trong ngôn ngữ. [28, tr. 24].
Như vậy, ngữ pháp của một ngôn ngữ là một bộ của những cấu trúc, những cách
thức và quy tắc mà theo đó, các từ ngữ kết hợp được với nhau để tạo nên câu, khiến cho
người ta có thể giao tiếp được với nhau.
Vì thế, dựa vào những điều trên đây, theo chúng tôi, có thể hiểu một cách đơn giản
những phần gọi là chú giải ngữ pháp trong giáo trình dạy tiếng, đó là sự miêu tả, giải thích
những hiện tượng ngữ pháp được đề cập trong giáo trình dạy tiếng, về cấu trúc, các quy
tắc ngữ pháp mà theo đó các từ ngữ kết hợp được với nhau để người học có thể thụ đắc và
sử dụng chúng tạo nên câu để giao tiếp được với nhau.
1.2.2. Ngữ pháp trong việc giảng dạy một ngoại ngữ
Ngữ pháp kì thực là một khái niệm trung tâm và được coi là bắt buộc đối với bất kì
chương trình giảng dạy về ngôn ngữ, không chỉ trong tiếng mẹ đẻ mà nhất là trong việc học tập
một ngoại ngữ nào đó. Với mỗi bài học, các bài khoá, bài luyện tập đều đặt ra vấn đề ngữ
pháp, trong đó việc giải thích các hiện tượng ngữ pháp được được đúc kết bằng những quy tắc
thành văn, quy tắc bằng mẫu câu. Ngữ pháp gắn liền với việc học ngoại ngữ như một đối
tượng đặc biệt. Tuy nhiên, mỗi cách tiếp cận phương pháp khác nhau lại có cách giải quyết
khác nhau về vai trò cũng như vị trí ngữ pháp trong việc giảng dạy ngoại ngữ.
Có những trường phái giảng dạy ngoại ngữ lại gạt bỏ ngữ pháp ra ngoài, đưa ngữ pháp
về vị trí “zero”. Tiến sĩ M.Band trong một khoá tập huấn ngắn hạn tại trường Đại học Hà Nội,
đã từng đề cập tới phương pháp giảng dạy này tạm gọi là “mười không”, đó là: không chương
trình – không giáo trình – không giáo án – không ngữ pháp – không từ vựng – không kĩ năng
riêng biệt (nghe, nói, đọc, viết) – không ngữ âm, ngữ điệu – không phương pháp – không kiểm
tra – không tiếng mẹ đẻ. Nói mười không nhưng thực chất là mười có, nói không với ngữ pháp
nhưng thực chất là muốn chú trọng đến việc giảng dạy ngữ pháp phải tiến hành trong các ngữ
cảnh hơn là dạy đơn lẻ. [16, tr. 14].
Việc sử dụng phương pháp định hướng giao tiếp trong việc giảng dạy ngoại ngữ,
trong đó có vấn đề ngữ pháp hiện nay đã được quan tâm thích đáng. Ngữ pháp đã được xem
xét trong “trạng thái làm việc”.
Vậy, giảng dạy và nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt như thế nào trên bình diện dạy
tiếng Việt như một ngoại ngữ? Quá trình giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ thực chất
là quá trình biến đổi từ hệ thống quy tắc ngữ pháp miêu tả sang hệ thống quy tắc ngữ pháp
giao tiếp. Trong đó ngữ pháp là một trong những phương tiện quan trọng nhất, trong phạm vi
của tất cả các kiểu hoạt động lời nói. Nếu không có ngữ pháp thì không hiểu bài khoá một
cách chính xác, không nắm vững được hành động lời nói, không áp dụng vào thực tế giao
tiếp một cách hiệu quả. Các chú giải ngữ pháp vì thế cũng cần có một vị trí cần thiết trong
giáo trình và trong việc giảng dạy.
Thực chất, ngữ pháp tiếng Việt có những đặc điểm khác với ngữ pháp châu Âu. Việc
áp dụng những thuật ngữ, những quan niệm ngữ pháp của các nhà ngôn ngữ châu Âu vào
việc giải thích ngữ pháp tiếng Việt đang đặt ra những thử thách trong việc sửa đổi đối với
người viết giáo trình và vấn đề về giảng dạy đối với người trực tiếp dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài. Bên cạnh đó, việc đưa những thuật ngữ, khái niệm mới để giải thích ngữ pháp
tiếng Việt, chẳng hạn như các thuật ngữ chuyên sâu của ngành ngôn ngữ học “vị từ” “tiểu
từ”, “câu liên động”, “hiển ngôn”, “hàm ý”, hàm lượng sao cho đủ cũng đang là những lựa
chọn cân nhắc.
Chính vì vậy, trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, việc xác định
đâu là những nội dung ngữ pháp cần giảng dạy (các từ công cụ, các mẫu câu, trình tự giảng
dạy của các nội dung ngữ pháp đó theo thứ tự từ dễ đến khó, từ thông dụng đến ít thông
dụng) từ chương trình cơ sở đến nâng cao là việc làm đòi hỏi sự quan tâm, nghiên cứu nhiều
hơn nữa.
1.2.3. Vai trò của việc chú giải ngữ pháp trong giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời
nƣớc ngoài
Ngữ pháp là một bộ phận quan trọng trong chương trình đào tạo ngoại ngữ nói chung
và tiếng Việt như một ngoại ngữ nói riêng. Trong quá trình học ngoại ngữ, theo Nguyễn Chí
Hoà, các giai đoạn cơ bản của việc học ngữ pháp là:
Giai đoạn định hướng ngữ nghĩa và hiện tượng ngữ pháp mới trong các mẫu lời
nói và hoạt động thực tiễn các quy tắc ngữ pháp.
Giai đoạn luyện tập hành động lời nói và hình thành kĩ năng ngữ pháp trong hoạt
động lời nói.
Giai đoạn thành thục các hiện tượng ngữ pháp được học tập trong các hoạt động
lời nói. [18, tr. 40].
Như vậy có ba giai đoạn cơ bản trong giảng dạy ngữ pháp:
– Giai đoạn thứ nhất - giới thiệu các ngữ liệu ngữ pháp.
– Giai đoạn thứ hai - luyện tập với các ngữ liệu mới.
– Giai đoạn thứ ba - sử dụng ngữ liệu này trong các kiểu hoạt động lời nói khác
nhau, ứng dụng vào giao tiếp.
Về nguyên tắc, việc làm quen với ngữ liệu ngữ pháp là khâu đầu tiên và là tiền đề quan
trọng cho việc thụ đắc ngoại ngữ. Tuy nhiên, trong việc dạy ngoại ngữ, việc giới thiệu ngữ
pháp về nguyên tắc lại không được chiếm nhiều thời gian trong giảng dạy, mà thời gian đa
phần là phải dành cho việc luyện tập các bài tập ngữ pháp và thực hành trong giao tiếp thực tế.
Chính vì điều này mà ngữ pháp được lựa chọn trình bày trong bài học phải hết sức ngắn gọn,
cô đọng, dễ hiểu và dễ ứng dụng kèm theo các ví dụ thực tế.
Những tranh luận về một hình thức phù hợp về giáo trình dạy tiếng vẫn đang tiếp tục và
sẽ còn kéo dài, nhưng bất luận thế nào, một giáo trình được coi là tốt là một giáo trình dễ sử
dụng và đảm bảo cho việc học thành công. [27, tr. 148].
Từ ý kiến trên của Nguyễn Thiện Nam, một giáo trình như vậy thiết yếu có sự dung
hòa của cả ba mặt: từ vựng, ngữ âm và ngữ pháp. Trong đó, sự góp mặt của các đơn vị ngữ
pháp dù ở hình thức nào trong giáo trình cũng đều đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo cho việc học thành công của học viên. Do đó, việc giải thích các hiện tượng ngữ pháp
sao cho học viên dễ hiểu, nắm bắt và sử dụng được các đơn vị ngữ pháp là vấn đề được đặt
lên hàng đầu. Vậy các hiện tượng ngữ pháp được đưa vào giảng dạy có nội dung gì và dựa
vào điều gì để có được các chú giải ngữ pháp để học viên có dễ hiểu?
Theo Nguyễn Chí Hoà, khi phân tích phạm vi nội dung giảng dạy ngữ pháp tiếng
Việt, cần chú ý tới các bình diện sau:
– Các hình thức cấu tạo từ.
– Tri thức về cấu tạo cụm từ, với các quy tắc cấu tạo và sử dụng các hình thức này.
– Hoạt động ngữ pháp hình thành hành động lời nói trong đó câu như đơn vị cơ
bản nhất (kĩ năng sản sinh ngữ pháp và kĩ năng tiếp thụ ngữ pháp). [18, tr. 39].
Theo đó, những lời giải thích phải đúng bản chất của hiện tượng ngữ pháp đó, tức là
phải cho người học hiểu được hiện tượng đó có nghĩa gì và nó được dùng như thế nào. Theo
Chomsky, cần phân biệt ngữ pháp lí thuyết và ngữ pháp thực hành, trong đó, ngữ pháp lí
thuyết của một ngôn ngữ trưng bày cơ chế ngôn ngữ đó, giải thích cho người học biết và
hiểu về cơ chế ngữ pháp nhưng không yêu cầu người tiếp thu phải tái sản xuất được ngôn
ngữ đó một lần nữa. Còn ngữ pháp thực hành giải thích trình tự, tuần tự của ngôn ngữ đó
và yêu cầu người học phải vận dụng và tái lập lại ngôn ngữ đó. Trong giáo trình tiếng Việt
cho người nước ngoài, ngữ pháp được trình bày phải là ngữ pháp thực hành. Điều này giúp
người học hiểu được sự kiện ngôn ngữ và có khả năng tạo lập, thực hành lại được (một cách
sáng tạo) sự kiện ngôn ngữ đó theo những giải thích về cách dùng, mô hình, quy tắc ngữ pháp
đã thụ đắc được.
Việc đưa ra hiện tượ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l2_01647_2003082.pdf