MỤC LỤC
Mở đầu.1
Chƣơng 1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa . 5
1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta . 5
1.1.1. Khái quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá . 5
1.1.2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hộiở nước ta. 8
1.2. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá . 12
1.2.1. Chính quyền cấp tỉnh với việc xây dựng chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa . 12
1.2.2. Chính quyền cấp tỉnh với việc tổ chức thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiệnđại hóa. 20
Chƣơng 2 . Thực trạng về vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và những vấn đề đặt ra hiện nay ở tỉnh Bắc Ninh. 34
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh. 34
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh . 34
2.1.2. Khái quát về đặc điểm kinh tế- xã hội ở tỉnh Bắc Ninh. 39
2.2. Thực trạng về vai trò chính quyền tỉnh trong việc xây dựng chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh. 42
2.3. Thực trạng về vai trò chính quyền tỉnh trong việc tổ chức thực hiện chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh. 53
2.3.1. Về việc xây dựng cơ sở hạ tầng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnhBắc Ninh . 53
2.3.2. Về việc đề ra các chính sách nhằm thu hút công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh BắcNinh. 59
2.3.3. Về việc tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Bắc Ninh . 68
2.4. Những vấn đề đặt ra về việc nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh . 76
2.4.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những hạn
chế về mặt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh. 77
2.4.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với những hạn
chế trong cơ chế, chính sách ở tỉnh Bắc Ninh. 78
2.4.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với trình độ đội
ngũ cán bộ ở tỉnh Bắc Ninh. 80
Chƣơng 3. phƣơng hƣớng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của chính
quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh BắcNinh . 825
3.1. Phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh . 82
3.1.1. Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh . 82
3.1.2. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh. 84
3.1.3. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh.93
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh . 95
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tổ chức chính quyền cấp tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh . 95
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tuyển dụng cán bộ, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh . 98
3.2.3. Đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo nhằm đảm bảo yêu cầu nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh . 101
3.2.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ các cấp ở địa phương đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh. 103
Kết luận. 106
Danh mục tài liệu tham khảo. 108
Phụ lục . 111
43 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 541 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của nông, lâm, ngư
nghiệp, bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn lương thực cho xã hội; tạo nguồn
nguyên liệu có khối lượng lớn, chất lượng cao, giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn
đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến; tăng giá trị và khối lượng hàng
xuất khẩu; tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động; phân công lại
lao động xã hội, hình thành các điểm công nghiệp gắn liền với đô thị hóa tại
chỗ, mở mang thị trường sản phẩm và dịch vụ cho công nghiệp.
Để thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn cần phải
chú trọng đến các vấn đề thủy lợi hóa, áp dụng công nghệ tiến bộ, nhất là
công nghệ sinh học, cơ giới hóa, điện khí hóa; phát triển mạnh công, thương
nghiệp, dịch vụ, du lịch...; tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng...
Xây dựng cơ cấu kinh tế cần thiết là yêu cầu khách quan của mỗi nước
trong thời kỳ CNH. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Một cơ cấu kinh tế được gọi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau
đây:
- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng.
- Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ và công nghệ
đã và đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành,
các địa phương, các thành phần kinh tế.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa
kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”.
17
Ở nước ta, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dưới ánh
sáng của đường lối đổi mới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt được
những thành tựu quan trọng.
Thông qua cách mạng khoa học - công nghệ và phân công lại lao động
với những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng
ta đã xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý mà “bộ xương” của nó là cơ cấu kinh
tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu
rộng. Mục tiêu phấn đấu của nước ta đến năm 2010 là tỷ trọng GDP của nông
nghiệp 16 - 17%; công nghiệp 40 - 41%, dịch vụ 42 - 43%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thực hiện theo phương châm: kết hợp công nghệ với nhiều
trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao
động dồi dào, vùa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với
nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính
đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được tốc độ
tăng trưởng hợp lý tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và
các vùng trong nền kinh tế... chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong
những năm trước mắt cần thực hiện theo định hướng chung sau đây: chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và
các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị
trường trong nước và ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và quốc phòng,
an ninh. Tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường
ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
1.2. Vai trò của chính quyền cấp tỉnh đối với sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Ở nước ta từ trước đến nay thuật ngữ “chính quyền cấp tỉnh„ được sử
dụng tương đối rộng rãi và phổ biến, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn
bản pháp luật nào định nghĩa khái niệm chính quyền cấp tỉnh. Xuất phát từ
18
góc độ nghiên cứu lý luận, từ góc độ thực tiễn có thể thấy rằng: chính quyền
cấp tỉnh là một bộ phận nằm trong khái niệm chính quyền địa phương.
Chính quyền địa phương là khái niệm dùng chung để chỉ tất cả các cơ
quan nhà nước (mang quyền lực nhà nước) đứng trên địa bàn địa phương.
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 chính quyền địa phương được tổ chức ở 3
cấp; cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Cấp tỉnh bao gồm: tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh).
Do vậy, chính quyền cấp tỉnh chính là khâu trung gian nối liền giữa
chính quyền trung ương với chính quyền các cấp huyện, xã nhằm tổ chức
quản lý nhà nước về mặt kinh tế - xã hội trên phạm vi tỉnh.
Chính quyền cấp tỉnh bao gồm HĐND (cơ quan quyền lực nhà nước),
UBND (cơ quan hành chính nhà nước), Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân.
Để xây dựng thành công sự nghiệp CNH, HĐH thì vai trò của chính
quyền cấp tỉnh là rất quan trọng. Đó là; xây dựng chiến lược CNH, HĐH, xây
dựng môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi để thực hiện CNH, HĐH.
1.2.1. Chính quyền cấp tỉnh với việc xây dựng chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Xây dựng chiến lược CNH, HĐH ở cấp tỉnh có vai trò sau:
Trong CNH, HĐH xây dựng chiến lược là xác định những mục tiêu đạt
tới của trình độ khoa học - công nghệ, của chuyển dịch cơ cấu kinh tế; các
bước đi giải quyết mục tiêu đó, đồng thời xác định hệ thống những tiền đề
đảm bảo thực hiện mục tiêu, phù hợp với mỗi bước đi của quá trình CNH,
HĐH. “Thực chất của xây dựng chiến lược CNH, HĐH là, trên cơ sở phân
tích và dự báo đúng đắn, đưa ra được những định hướng hành động, giải
pháp phù hợp để thực hiện thành công CNH, HĐH’’ [29, tr 16].
+ Định hướng hoạt động dài hạn và là cơ sở cho việc thực hiện CNH,
HĐH. Nếu không có chiến lược hay chiến lược không phù hợp, tức là chiến
19
lược thiếu căn cứ khoa học sẽ làm cho hoạt động mất phương hướng, chỉ thấy
trước mắt không thấy lâu dài, chỉ thấy cục bộ mà không thấy toàn cục. Điều
đó dẫn đến sự nghiệp CNH, HĐH rất khó thành công.
+ Tạo ra cơ sở để huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả nhằm
đẩy nhanh CNH, HĐH. Trong thực tế, phần lớn các sai lầm về đầu tư, về
nghiên cứu triển khai công nghệ, phát triển các nguồn lực đều có nguồn gốc
từ chỗ thiếu vắng hoặc sai lệch trong việc xác định chiến lược CNH, HĐH.
Với vai trò như vậy, việc xác định chiến lược CNH, HĐH rất quan
trọng.. Xác định chiến lược CNH, HĐH đúng đắn giúp ta định hướng, bước đi
đúng đắn, phát huy và sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nước có hiệu quả
nhất, qua đó thúc đẩy nhanh được tiến trình CNH, HĐH.
- Xây dựng chiến lược CNH, HĐH ở cấp tỉnh đặt ra một số yêu cầu
sau:
+ Xác định chiến lược CNH, HĐH phải phù hợp với điều kiện trong
tỉnh.
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải xác định rõ
CNH, HĐH bằng những nguồn lực nào? Như đã biết, các yếu tố quyết định
đến thành bại của CNH, HĐH mỗi tỉnh về cơ bản bao gồm: nguồn vốn, nguồn
nhân lực và tiềm lực khoa học - công nghệ, trong đó nguồn nhân lực trong
tỉnh là yếu tố quyết định nhất. Nguồn nhân lực đó sẽ quyết định phương
hướng, nội dung, bước đi và biện pháp CNH, HĐH; quyết định lựa chọn các
yếu tố đầu vào, các nguồn lực khác để thực hiện; quyết định việc tổ chức và
thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH. Bởi vì, trong sự nghiệp CNH, HĐH nếu
không có đội ngũ đông đảo những người công nhân lành nghề, những nhà
khoa học tài năng, những nhà doanh nghiệp năng động, những nhà lãnh đạo,
quản lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng thì sự nghiệp CNH, HĐH khó có thể
20
thành công. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong
nước, đáp ứng được yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH.
Đối với nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp CNH, HĐH cũng vậy. Các
nguồn đầu tư bên ngoài đóng vai trò quan trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết
định đến mức độ nào đó trong những giai đoạn đầu của CNH, HĐH, đặc biệt
đối với những tỉnh mà nguồn tích lũy ban đầu khi bước vào CNH, HĐH gần
như con số không. Nhưng không thể coi những nguồn đầu tư bên ngoài là
nguồn vốn quyết định cho sự thành công của CNH, HĐH. Bởi vì, những
nguồn đầu tư từ bên ngoài không được kết hợp với những nguồn đầu tư ngày
càng quan trọng bên trong thì khó lòng nói tới thành công của CNH, HĐH.
Về trình độ khoa học - công nghệ, các tỉnh không thể có ngay được
trình độ khoa học - công nghệ cao nhất, mà phải trải qua nhiều trình tự để
nâng dần, bằng cách cải tiến và phát triển công nghệ trong tỉnh, nhận chuyển
giao khoa học - công nghệ nước ngoài: cải tiến, đổi mới những công nghệ này
càng hoàn thiện hơn. Điều đó đòi hỏi tiềm lực khoa học - công nghệ trong
nước, trong tỉnh đạt trình độ nhất định mới có thể "Tiêu hoá" được khoa học -
công nghệ hiện đại nhận chuyển giao từ nước ngoài.
Như vậy, xác định chiến lược CNH, HĐH phải căn cứ vào các nguồn
nội lực và phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá của từng tỉnh. Có
vậy mới phát huy được các nguồn nội lực để đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH.
+ Xác định chiến lược CNH, HĐH phải phù hợp với điều kiện trong
nước.
Mỗi tỉnh là một bộ phận của quốc gia, do đó không thể tách khỏi những
tác động của điều kiện trong nước. Khi nói về mối quan hệ "cái riêng" và "cái
chung", Lênin đã chỉ ra rằng: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến
cái chung. Mỗi một tỉnh là “cái riêng”, quốc gia là “cái chung”. Như vậy mỗi
21
tỉnh đều tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập đó không có nghĩa hoàn toàn biệt
lập với cả nước. Ngược lại bất cứ tỉnh nào cũng tồn tại trong môi trường,
hoàn cảnh trong nước nhất định, chịu sự tác động của môi trường, hoàn cảnh
trong nước đó, do đó, đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại giữa các tỉnh
thành cả nước hết sức đa dạng. Vì vậy, trong việc lựa chọn chiến lược CNH,
HĐH không chỉ căn cứ vào điều kiện trong tỉnh mà còn phải căn cứ vào tinh
hình trong nước và phải phù hợp với tình hình trong nước đó. Có vậy mới hạn
chế được những tác động tiêu cực và lợi dụng được những thuận lợi do điều
kiện trong nước mang lại, tức là lợi dụng các nguồn lực bên ngoài như vốn,
công nghệ, thị trường để thực hiện CNH, HĐH.
Sự nghiệp CNH, HĐH phải dựa vào nguồn lực trong tỉnh là chính, điều
đó không có nghĩa là không cần đến nguồn lực bên ngoài. Nguồn lực bên
ngoài sẽ bổ sung và khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn lực trong
tỉnh. Các dòng chảy vốn, công nghệ trong từng giai đoạn cụ thể bị phụ
thuộc vào điều kiện tình hình chính trị, kinh tế - xã hội.
Hiện nay, khi thế giới đã chuyển sang xu thế hội nhập thì càng tạo điều
kiện và thúc đẩy "mở cửa", phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa các
tỉnh, tạo điều kiện để tham gia đầy đủ hơn vào hệ thống phân công lao động
trong nước. Bởi vậy một tỉnh tách mình khỏi cả nước, tự ép mình vào con
đường tự lực cánh sinh thực hiện CNH, HĐH hậu quả chắc chắn sẽ là tụt hậu
xa hơn. Khi một tỉnh không tham gia vào các định chế tài chính quốc gia như
ngân hàng nhà nước của quỹ tiền tệ quốc gia thì tỉnh đó khó có thể vay vốn
của họ để CNH, HĐH. Về mặt thương mại, càng khó hơn, nếu phần lớn các
tỉnh cam kết với nhau thực hiện các quan hệ thương mại theo nguyên tắc tự
do hoá, thì một tỉnh đứng ngoài những cam kết đó khó có thể len chân vào thị
trường tự do đó được. Trong một thế giới toàn cầu hoá một quốc gia hội nhập
tình trạng cô lập sẽ dẫn tới tụt hậu xa hơn và sự tụt hậu trong tình trạng cô lập
22
sẽ là một nguy cơ tai hại nhất. Thực tế cho thấy, những tỉnh còn nghèo chính
là những tỉnh ở xa trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước.
Trong thời kỳ hiện đại, cấp tỉnh xác định chiến lược CNH, HĐH phù
hợp điều kiện quốc gia, huy động và sử dụng tốt được nguồn lực bên ngoài,
tận dụng được phân công lao động quốc gia thì tỉnh đó sẽ đẩy nhanh được sự
nghiệp CNH, HĐH cũng như phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đảm bảo tính kế thừa và liên tục của chiến lược CNH, HĐH.
Để xác định chiến lược CNH, HĐH đúng đắn đòi hỏi phải tuân theo
quy luật trên. Bởi, mỗi chiến lược chỉ phù hợp với một giai đoạn của sự
nghiệp CNH, HĐH. Khi điều kiện trong nước và trong tỉnh thay đổi, đòi hỏi
chiến lược cũng phải thay đổi cho phù hợp, điều đó không có nghĩa là, chiến
lược CNH, HĐH sau phủ định sạch trơn chiến lược trước. Trái lại chiến lược
sau còn kế thừa những thành tựu, những nhân tố tích cực và khắc phục được
những tồn tại của chiến lược trước. Điều đó sẽ đảm bảo cho sự thắng lợi của
sự nghiệp CNH, HĐH.
- Xây dựng chiến lược CNH, HĐH ở cấp tỉnh có một số nội dung sau:
+ Xác định giải pháp, bước đi phát triển khoa học - công nghệ và mức
độ trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại cho nền kinh tế.
Để thực hiện CNH, HĐH mỗi tỉnh đều có chiến lược ưu tiên lựa chọn
bước đi khoa học - công nghệ của mình và nhờ vào đó mà họ đi nhanh trên
con đường CNH, HĐH.
Như vậy, trong những điều kiện khác nhau, các tỉnh lựa chọn bước đi
khác nhau để đẩy nhanh CNH, HĐH. Trong bối cảnh hiện nay, để đẩy nhanh
CNH, HĐH nên lựa chọn bước đi như thế nào để phát triển khoa học - công
nghệ?
Trong điều kiện đó, các tỉnh tiến hành CNH, HĐH bước đi để phát triển
khoa học - công nghệ để thực hiện quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH. Một mặt
23
thực hiện bước đi tuần tự trong phát triển công nghệ. Đó là, chuyển từ thủ
công lên bán cơ khí rồi lên cơ khí. Mặt khác, “áp dụng những thành tựu của
cách mạng khoa học - công nghệ để thực hiện quá trình "đi tắt, nhảy vọt"
trong phát triển khoa học - công nghệ” [29, tr 22]. Đó là từ thủ công lên
thẳng cơ khí, từ đó thực hiện sự nghiệp HĐH là bán tự động và tự động hoá
nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển kinh tế tri thức, bước đi tuần tự của
CNH vẫn có thể nhanh hơn các nước đi trước. Bước đi này vẫn có thể rút
ngắn được nếu biết dựa vào những tiến bộ của cách mạng khoa học - công
nghệ. Điều này đòi hỏi trong chiến lược phát triển khoa học - công nghệ của
từng ngành, từng lĩnh vực phải có bước đi đúng và phải có sự lựa chọn công
nghệ phù hợp.
Mặt khác, để đi tắt trong phát triển khoa học - công nghệ cần lựa chọn
một số ngành mũi nhọn để tập trung đầu tư, tạo sự đột phá mạnh mẽ cho việc
rút ngắn CNH, HĐH. Một vấn đề quan trọng là chọn "ngành mũi nhọn" để
đầu tư. Nguyên tắc để chọn ngành kinh tế "mũi nhọn" trong điều kiện nền
kinh tế thị trường là phải lấy tính hiệu quả làm cơ bản nhất. Những ngành
được lựa chọn để đầu tư phải là những ngành có tác động cao đến sự phát
triển của nhiều ngành. Nói cách khác, sự phát triển khoa học - công nghệ của
ngành "mũi nhọn" sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành liên quan.
Xác định giải pháp, bước đi cho việc xây dựng một cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại hợp lý.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội. Đó là, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phân phối lại tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cũng là quá trình sắp xếp lại tỷ trọng các ngành, đảm bảo cho mọi thành phần
kinh tế phát huy được năng lực của mình, thực hiện được hiệu quả nói chung.
24
Mặt khác, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó sẽ phân bố lại lãnh thổ, đô
thị hoá nông thôn, tạo ra sự phát triển bình đẳng giữa các vùng, đồng thời qua
đó đẩy nhanh sự phát triển của toàn nền kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH phải quán triệt một số quan điểm sau:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi mục đích, có định hướng,
dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn cùng với việc áp
dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu kinh tế từ trạng thái
này sang trạng thái khác.
Hiện nay, khi kinh tế tri thức và toàn cầu hoá trở thành một xu thế thì
cơ cấu kinh tế phải là cơ cấu kinh tế mở. Đó là cơ cấu kinh tế có tính năng
động, linh hoạt cao, có khả năng thích ứng nhanh với các biến động của kinh
tế quốc tế, ứng phó một cách có hiệu quả với các chấn động bên ngoài. Cơ
cấu kinh tế đó có khả năng tận dụng tối ưu các nguồn lực bên trong, bên ngoài
cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế và tiếp nhận được những giá trị
của kinh tế tri thức, của quá trình toàn cầu hoá cũng như những nền văn hoá
tiêu biểu của các tỉnh.
Với quan điểm đó, nguyên tắc của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong điều kiện hiện nay là: trước hết là phải tận dụng tối đa lợi thế so sánh,
nâng cao dần khả năng cạnh tranh của các ngành hàng phù hợp với tiến trình
hội nhập. Thứ hai, cần phải lựa chọn hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế sao cho
nắm bắt được cơ hội, phát huy được vai trò của kinh tế tri thức, trước hết là
công nghệ thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập và đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng.
Từ những vấn đề đặt ra trên đây, có thể đưa ra tính quy luật cho việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện hiện
nay:
25
Hiện nay, ở các nước ĐPT cơ cấu kinh tế là nông nghiệp - công nghiệp
- dịch vụ. Xu hướng chuyển dịch của cơ cấu ngành trong sự nghiệp CNH,
HĐH ở các nước này là từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ lên công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Đó là xu hướng tỷ trọng giá trị sản phẩm công
nghiệp ngày càng tăng, nông nghiệp ngày càng giảm; tỷ trọng giá trị sản
phẩm dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp
ngày càng giảm tương ứng. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
đã tạo điều kiện thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp -
nông nghiệp - dịch vụ lên cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp và cao
hơn nữa là cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đây là cơ cấu kinh tế
hiện đại, phản ánh một nền kinh tế phát triển trong điều kiện hiện nay. Các
nước đi đầu trong CNH phải mất hơn 200 năm mới có được cơ cấu kinh tế đó.
Nếu các nước đang thực hiện CNH, HĐH cũng đi như vậy thì còn lâu mới có
cơ cấu kinh tế hiện đại. Để nhanh chóng chuyển dịch kinh tế truyền thống
nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu kinh tế hiện đại dịch vụ -
công nghiệp - nông nghiệp đòi hỏi phải có những bước đi, giải pháp thích
hợp. Tất nhiên, trước mắt các nước ĐPT phải chuyển từ cơ cấu nông nghiệp -
công nghiệp - dịch vụ lên cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, nhưng
đồng thời cũng phải tạo những tiền đề để chuyển lên cơ cấu dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp. Do vai trò quan trọng của khoa học - công nghệ sẽ giúp
các nước nói chung Việt Nam nói riêng thực hiện CNH, HĐH đẩy nhanh việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu vùng, lãnh thổ: Trong sự nghiệp CNH, HĐH cùng với sự
chuyển dịch của cơ cấu ngành thì cơ cấu vùng, lãnh thổ cũng chuyển dịch
theo. Cùng với sự phát triển của các vùng công nghiệp thì các khu đô thị, dân
cư tập trung cũng phát triển. Tương ứng với sự phát triển của công nghiệp và
dịch vụ là sự giảm xuống của khu vực nông thôn. Điều đó có nghĩa là, xu
hướng chuyển dịch của cơ cấu vùng lãnh thổ trong sự nghiệp CNH, HĐH là
26
tăng dần tỷ trọng trong khu vực đô thị, giảm dần tỷ trọng khu vực nông thôn
hay thành thị hoá nông thôn. Điều này diễn ra cùng với sự nghiệp CNH, dịch
vụ hoá nông thôn.
Cơ cấu thành phần kinh tế. Nếu như trong chuyển dịch cơ cấu ngành,
xu hướng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp ngày càng tăng, nông nghiệp
ngày càng giảm; tỷ trọng giá trị sản phẩm dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá trị
sản phẩm nông - công nghiệp ngày càng giảm tương ứng thì xu hướng chuyển
dịch cơ cấu thành phần kinh tế không diễn ra một chiều. Lịch sử phát triển đã
chứng minh rằng, có thời kỳ tỷ trọng thành phần kinh tế Nhà nước trong nền
kinh tế tăng lên (như những năm 40 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX),
nhưng cũng có thời kỳ có xu hướng giảm xuống (cùng với quá trình chuyển
các doanh nghiệp Nhà nước thành các doanh nghiệp tư nhân hay đa dạng hoá
các doanh nghiệp Nhà nước). Xu hướng vận động đó tuỳ thuộc vào yêu cầu
phát triển kinh tế của mỗi nước. Nhưng trong cơ cấu thành phần kinh tế, thành
phần kinh tế Nhà nước bao giờ cũng phải đảm bảo xây dựng cơ sở hạ tầng,
những công trình công cộng, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển.
1.2.2. Chính quyền cấp tỉnh với việc tổ chức thực hiện chiến lược
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Muốn thực hiện CNH, HĐH phải có môi trường kinh tế - xã hội thuận
lợi, trước hết là xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, những chính sách nhằm thu
hút CNH, HĐH, và tạo ra môi trường xã hội để thực hiện CNH,HĐH.
Các tỉnh luôn đứng trước các vấn đề kinh tế làm cho quá trình thực hiện
CNH, HĐH khó thành công. Đó là, các nguồn lực luôn ở vào tình trạng khan
hiếm, trình độ phát triển khoa học - công nghệ thấp, không đáp ứng được yêu
cầu của quá trình CNH, HĐH. Vì vậy, tạo những điều kiện để thực hiện CNH,
HĐH là một nội dung quan trọng của vai trò chính quyền trong quá trình
27
CNH, HĐH. Để tạo được những điều kiện đó, đòi hỏi chính quyền cấp tỉnh
phải đưa ra được các chính sách hữu hiệu.
1.2.2.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chính quyền cấp tỉnh muốn thực hiện thành công CNH, HĐH thì cần phải
có hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hoàn chỉnh như: mạng lưới giao thông, thuỷ
lợi, mạng lưới cấp điện, bưu chính viễn thông, mạng lưới cấp thoát nước...
Mạng lưới giao thông, các tỉnh cần có một mạng lưới giao thông đồng
bộ rộng khắp với các tuyến đường bộ, đường sông, đường sắt,... tạo ra một hệ
thống liên hoàn thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế.
Đường bộ bao gồm đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ và đường xã.
Đường bộ là hệ thống giao thông quan trọng cho việc vận chuyển, giao lưu
kinh tế trong, ngoài tỉnh. Các khu công nghiệp thường đặt ở những nơi có hệ
thống giao thông thuận tiện do vậy việc xây dựng và phát triển hệ thống
đường bộ rộng khắp là một yêu cầu khách quan cho sự nghiệp CNH, HĐH
của tỉnh.
Đường sông cũng giữ một vai trò không nhỏ trong việc vận chuyển
giao lưu kinh tế, đặc biệt đối với các tỉnh có hệ thống đường sông dày đặc.
Đường sắt và đường hàng không cũng có vai trò to lớn trong việc vận
chuyển, giao lưu kinh tế. Đối với những tỉnh có hệ thống giao thông này thì
việc giao kinh tế cũng trở nên đáng kể hơn trong thời kỳ xây dựng chiến lược
CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh.
Mạng lưới cấp điện, chính quyền cấp tỉnh cần phải quan tâm đến hệ
thống nguồn điện để cung cấp phụ vụ sản xuất và tiêu dùng của tỉnh. Sự
nghiệp CNH, HĐH cần phải có những nguồn điện lưới 110KV, 110 MW,
35KV, 0,4KV... Hệ thống điện lưới để phục vụ tốt trong địa bàn tỉnh góp
phần quan trọng vào thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
28
Bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin, công tác bưu chính
không ngừng được mở rộng mạng lưới phục vụ và phát triển mạnh mẽ theo
hướng đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ và phát triển theo
hướng đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao chất lượng và thời gian phục vụ. Ngoài
dịch vụ truyền thống còn có một số dịch vụ mới như tiết kiệm bưu điện,
chuyển tiền nhanh, bưu phẩm chuyển nhanh, chuyển phát quà...
Hệ thống truyền dẫn được nâng lên những thiết bị mới với tốc độ cao,
cấu trúc an toàn, chất lượng đảm bảo như: mạng ngoại vi, mạng lưới thông tin
di động...
Về hệ thống trường học, hệ thống trường học đối với các tỉnh cần phải
phát triển tại tất cả các bậc học. Các xã/phường đều có trường mâm non,
trường tiểu học, THCS. Mỗi huyện có trường THPT Trên địa bàn tỉnh có
trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp dạy nghề. Hệ thống
trường đào tạo được phân bố đều trên địa bàn tỉnh.
Về y tế: y tế và các vấn đề nâng cao sức khoẻ cộng đồng cũng được các
cấp đặc biệt quan tâm. Đến nay trên địa bàn tỉnh đã có một hệ thống bệnh
viện, bệnh xá, trạm y tế từ tỉnh đến huyện, xã đảm bảo đủ cơ sở để chăm sóc
sức khoẻ ban đầu cho cộng đồng
1.2.2.2. Đề ra các chính sách nhằm thu hút công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên địa bàn tỉnh
* Chính sách về khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh
Vận dụng triệt để chính sách ưu đãi như: thuế, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ
tiếp thị, xây dựng thương hiệu... đồng thời kịp thời điều chỉnh, bổ sung chính
sách thu hút khuyến khích đầu tư với sức hấp dẫn cao, xây dựng kết cấu hạ
tầng hợp lý phục vụ cho phát triển công nghiệp.
Chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về mặt vốn, thuế, công
nghệ thông tin, môi trường đầu tư... nhằm khơi dậy tiềm năng trong các thành
29
phần kinh tế, nhất là khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh. Đồng thời dành
một khoảng kinh phí thích đáng cho công tác hỗ trợ, đầu tư và phát triển trung
tâm công nghiệp - nhất là ở khu vực nông thôn và các làng nghề, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Có chính sách về thu nhập thích đáng, bồi dưỡng mở rộng kiến thức,
nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động phù hợp với cơ chế thị
trường.
Tiếp tục cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, bình
đẳng, có chính sách thống nhất, không phân biệt các thành phần kinh tế và
đây sẽ là giải pháp có tác động rất lớn trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Trong sự nghiệp CNH, HĐH vốn đóng vai trò rất quan trọng. Trước
hết, CNH, HĐH làm biến đổi về chất của kỹ thuật sản xuất, lao động bằng
máy móc thay thế cho lao động thủ công. Hơn nữa bản thân tiến độ kỹ thuật
phụ thuộc rất lớn vào mức đầu tư vốn nhiều hay ít. Từ đó, CNH, HĐH làm
thay đổi cơ cấu ngành nghề, trong đó, ngành công nghiệp và dịch vụ tăng
nhanh. Như vậy, trong sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải có nhiều vốn và
phải sử dụng vốn có hiệu quả trở thành điều kiện không thể thiếu đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l2_01848_9468_2003136.pdf