Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực đội ngũ biên dịch viên tại các
Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng năng lực năng lực đội ngũ biên dịch
viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà
nước, luận văn nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực
năng lực biên dịch viên tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, Cục Văn thư
và Lưu trữ nhà nước
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/02/2022 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Năng lực biên dịch viên tại các trung tâm lưu trữ quốc gia, cục văn thư và lưu trữ nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át triển. Tiêu biểu nhất là ngành Giáo dục,
những tác phẩm văn học, triết học... đa số xuất phát từ những ngôn ngữ
khác nhau ngoài tiếng Việt. Những tác phẩm kinh điển của nhân loại,
những nền văn minh lâu đời cùng với đó là nguồn kiến thức vô tận. Tất cả
đều cần được dịch sang tiếng Việt một cách chính xác và thoát nghĩa. Để
làm được điều này thì cần một đội ngũ chuyên nghiệp về biên dịch. Vì mỗi
tác phẩm đều mang trong mình những ngữ cảnh và văn hóa khác nhau, đòi
hỏi phải có những con người có trình độ chuyên môn cao và am hiểu một
cách tường tận ngôn ngữ đó.
1.1.3. Phân loại biên dịch
Tùy theo văn bản, tài liệu ngôn ngữ có thể chia biên dịch thành nhiều
nhóm khác nhau.
* Xét về ngôn ngữ
- Biên dịch từ ngôn ngữ gốc sang một số ngôn ngữ đích.
- Biên dịch từ ngôn ngữ của các quốc gia khác (ngôn ngữ nguồn) sang
tiếng Việt (ngôn ngữ đích).
* Xét về nội dung văn bản
Xét về nội dung văn bản, có thể phân loại bản dịch theo chuyên ngành.
Có thể đưa ra một vài chuyên ngành phổ biến nhất trong biên dịch như sau:
- Biên dịch tài liệu kỹ thuật
Dịch thuật tài liệu kỹ thuật là một hình thức dịch thuật chuyên ngành
liên quan đến các tài liệu thường được tạo bởi các nhà văn kỹ thuật (hướng
dẫn sử dụng, sổ tay kỹ thuật,.. v.v.), hay cụ thể hơn là các văn bản liên
quan đến lĩnh vực công nghệ hoặc văn bản liên quan đến ứng dụng thực tế
của thông tin khoa học và công nghệ .
- Biên dịch tài liệu kinh tế, thương mại
Những thông tin về lĩnh vực kinh tế, thương mại này luôn hết sức đa
dạng, phong phú từ những bản báo cáo dự báo tăng trưởng của các quốc
gia, khu vực đến những thông tin về kim ngạch thương mại giữa các quốc
gia, từ các thông cáo cho đến các phân tích về kinh tế vĩ mô và thậm chí cả
các trang web chuyên về thương mại điện tử. Những loại tài liệu này đa
phần đều đặt ra yêu cầu là phải phù hợp với những chuẩn mực quốc tế.
- Biên dịch tài liệu về pháp luật
Dịch thuật tài liệu pháp luật là dịch thuật các tài liệu liên quan đến hệ
8
thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù hợp
với lợi ích của giai cấp mình.
- Biên dịch các tài liệu, văn bản nghệ thuật, văn học
Văn học có nhiều thể loại khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,
kịch bản, lý luận phê bình Nền văn học trong và ngoài nước đã có lịch
sử phát triển từ lâu đời tạo nên một kho kiến thức vô cùng rộng lớn. Mỗi
thời khắc trôi qua, thế giới lại được đón nhận thêm những đứa con tinh
thần mới từ các tác giả trên khắp thế giới cập nhật thêm cho nền văn học.
Việc dịch thuật các tài liệu văn học hay sách báo vẫn luôn được mọi người
quan tâm. Ngôn ngữ văn học không nhất thiết theo một trình tự nhất định,
ý văn không chỉ nằm trên ngôn từ trong tác phẩm mà còn được ẩn đi thông
qua các biện pháp nghệ thuật đòi hỏi biên dịch viên phải có vốn từ phong
phú, sự sáng tạo và kết hợp linh hoạt để câu văn trở nên chau chuốt mà
vẫn giữ được ý văn của tác giả.
1.1.4. Cách tiếp cận về biên dịch viên
* Phân loại theo mức độ chuyên môn hóa:
- Biên dịch viên chuyên sâu một ngôn ngữ đích: Những biên dịch viên
có trình độ thông thạo chuyên sâu một ngôn ngữ đích khác, ngoài ngôn
ngữ gốc. Nhiệm vụ của các biên dịch viên này dịch những văn bản có độ
khó cao thuộc những chuyên ngành phức tạp, yêu cầu có sự đa dạng về
ngữ nghĩa để truyền tải trọn vẹn nội dung của văn bản, đưa ra bản dịch có
chất lượng cao nhất.
- Biên dịch viên thông thạo nhiều ngôn ngữ đích: Những biên dịch viên
có khả năng thông thạo từ hai ngôn ngữ đích trở lên, ngoài ngôn ngữ gốc.
Nhiệm vụ của họ là biên dịch những văn bản, bản tin, tài liệu có độ khó
vừa phải, không yêu cầu quá cao bản dịch.
* Phân loại theo mức độ chuyên ngành: việc phân loại này chia biên
dịch viên theo từng chuyên ngành riêng dựa trên nội dung của văn bản. Có
những loại biên dịch viên theo chuyên ngành chính sau:
- Biên dịch viên tài liệu kỹ thuật.
- Biên dịch viên tài liệu kinh tế, thương mại.
- Biên dịch viên tài liệu pháp luật.
- Biên dịch viên tài liệu văn học.
* Phân loại theo chủ thể quản lý
9
- Biên dịch viên làm việc cho các tổ chức tư nhân.
- Biên dịch viên làm việc cho các tổ chức nhà nước.
- Biên dịch viên làm việc độc lập.
* Tiếp cận biên dịch viên dưới góc độ quản lý nhà nước, biên dịch viên
vừa đồng thời là người lao động làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn
vị sự nghiệp công lập đồng thời cũng là đối tượng của quản lý nhà nước.
1.1.5 Những yêu cầu năng lực cần có của biên dịch viên
1.1.5.1 Khái niệm về năng lực
Nói một cách tổng quát thì năng lực của con người là tổng hòa
những điều kiện, những nhân tố chủ quan tiềm năng bên trong con người
cùng tham gia vào công việc giải quyết, để xử lý một tình huống và để
thực hiện một nhiệm vụ cụ thể trong một môi trường xác định. Năng lực
không mang tính chung chung mà khi nói đến năng lực, bao giờ người ta
cũng nói đến năng lực thuộc về một hoạt động cụ thể nào đó như năng lực
chính trị của hoạt động chính trị, năng lực giảng dạy của hoạt động giảng
dạy... Từ những quan niệm trên, theo tác giả: “Năng lực là sự tổng hợp
những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt
động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao’’.
1.1.5.2 Một số mô hình quy định năng lực biên dịch viên
Ở Tây Ban Nha, công việc tập trung rõ ràng nhất vào việc xác định
khái niệm này là do nhóm PACTE thực hiện (1998, 2000, 2003, 2005). Họ
đề xuất một mô hình về năng lực dịch thuật mà họ coi là hệ thống kiến
thức cơ bản cần có để có thể dịch (2000: 100; 2001: 39; 2003: 126). Trên
thực tế, Mô hình năng lực dịch thuật do nhóm nghiên cứu này (2003) đề
xuất bao gồm 5 năng lực và các thành phần tâm sinh lý (2005: 610-611)
chồng chéo lẫn nhau khi chúng hoạt động. Bao gồm
- Năng lực song ngữ.
- Năng lực ngoài ngôn ngữ.
- Kiến thức về biên dịch.
- Năng lực sử dụng công cụ.
- Năng lực lập chiến lược.
- Thành phần tâm sinh lý.
Bên cạnh mô hình của PACTE, có một mô hình khác về năng lực biên
dịch được phát triển bởi nhóm chuyên gia EMT ( European Master’s in
Translator), một tổ chức được thành lập bởi Tổng cục dịch thuật của Ủy
ban châu Âu.
10
Theo mô hình này, có sáu năng lực:
- Năng lực cung cấp dịch vụ dịch thuật.
- Năng lực ngôn ngữ.
- Năng lực liên văn hóa.
- Năng lực khai thác thông tin.
- Năng lực chuyên môn.
- Năng lực công nghệ (làm chủ công cụ).
1.1.5.3 Những năng lực cần có của biên dịch viên
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có tiêu chí cụ thể dành cho năng lực của
đội ngũ biên dịch viên. Tuy nhiên, tham khảo dựa trên hai mô hình năng
lực biên dịch của PACTE và EMT và thực tiễn công việc, có thể thấy rất
nhiều yếu tố cần có đối với một biên dịch viên.
Thứ nhất, khả năng ngoại ngữ.
Thứ hai,có năng lực viết.
Thứ ba, có năng lực tra cứu.
Thứ tư, có mức độ am hiểu về các lĩnh vực khác nhau.
Thứ năm, năng lực sử dụng công nghệ thông tin.
Thứ sáu, nắm vững các kỹ năng mềm.
Thứ bảy, có năng lực đa văn hóa.
1.2. Biên dịch viên làm việc trong các cơ quan nhà nƣớc
Để hiểu được bản chất của biên dịch viên, cần phải làm rõ khái niệm
viên chức
1.2.1 Quy định về Biên dịch viên trong bộ máy nhà nước Việt Nam
Trong văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành, chưa có danh mục nghề
nghiệp và danh mục nghề nghiệp trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, trong
một số văn bản pháp luật (Luật cán bộ, công chức; Luật viên chức và các
văn bản hướng dẫn), chia nhóm người làm việc cho các tổ chức nhà nước
thành một số lĩnh vực khác nhau gọi chung là ngach. Đối với nhóm viên
chức sử dụng cụm từ ngạch viên chức. Ngạch viên chức là sự phân chia
viên chức theo từng nghề nghiệp, chuyên môn và cấp bậc phù hợp của họ.
Các chuyên ngành viên chức có thể kể đến một và ngành như y tế, giáo
dục, giải trí, khí tượng, biên dịch,v.v.
Biên dịch viên làm việc trong bộ máy nhà nước là người làm chuyên về
biên dịch và điều chỉnh theo luật viên chức. Tuy nhiên, do đòi hỏi của
công việc này, họ có thể làm việc mang tính chuyên môn, chuyên nghiệp ở
tất cả các loại cơ quan nhà nước từ trung ương đến chính quyền địa
11
phương các cấp. Tuy nhiên, do ngành nghề, họ được xếp vào nhóm viên
chức.
1.2.2 Viên chức đảm nhận vị trí biên dịch viên
Căn cứ vào Luật Viên chức 2010 cùng với Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTTTT-BNV năm 2016, có thể nhận thấy các khía cạnh
quan trọng của khái niệm viên chức là biên dịch viên. ( Sau đây sẽ gọi là
Biên dịch viên)
Có thể rút ra khái niệm về biên dịch viên như sau: Biên dịch viên là
công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn
vị sự nghiệp công lập, thực hiện hoạt động dịch viết, sưu tầm tài liệu lưu
trữ thuộc phạm vi và quyền hạn được giao. Hoạt động biên dịch bao gồm:
Dịch viết các tài liệu thuộc thẩm quyền; Thu thập, sưu tầm, bổ sung tài
liệu theo phạm vi quản lý; Chỉ dẫn các thuyết minh, các kỹ thuật, mỹ thuật
đối với các loại hình tài liệu được đưa vào tra cứu, triển lãm; Tham gia
chuẩn bị nội dung và dịch cho các hội thảo về nghiệp vụ trong nước và
nước ngoài.
1.3. Năng lực biên dịch viên
1.3.1. Các yếu tố cấu thành năng lực của biên dịch viên
Như đã nói ở trên, năng lực bao giờ cũng được xem xét gắn với một
con người cụ thể và một công việc cụ thể. Trên thực tế, năng lực của một
cá nhân bao giờ cũng cấu thành ít nhất bởi 3 yếu tố:
Thứ nhất, kiến thức là tổng thể tri thức, hiểu biết mà một người lĩnh
hội, tích lũy qua trải nhiệm hoặc học hỏi. Hay kiến thức là những hiểu biết
chung hoặc chuyên ngành của một cá nhân cần thiết để đảm nhiệm một vị
trí lao động nào đó. Nhờ có những kiến thức cơ bản này mà cá nhân có sự
nhìn nhận vấn đề khách quan, khoa học, có khả năng quan sát, nhận xét, tư
duy, xét đoán và quyết định hành động phù hợp, kịp thời và đúng thời
điểm.
Thứ hai, kỹ năng là khả năng của một người (không phân biệt mức độ
kiến thức, học vấn) có thể làm, thực hiện trôi chảy một công việc cụ thể
được trao cho người đó.
Thứ ba, thái độ, cách ứng xử và cách quan hệ, đây là yếu tố thứ ba để
xác định năng lực của một con người được biểu hiện thông qua cách thức,
hành vi quan hệ, ứng xử, giao tiếp, nói và nghe.
Ba nhóm yếu tố cơ bản kể trên được kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên
một chỉnh thể đó là năng lực của cá nhân con người. Có thể hiểu, năng lực của
12
một cá nhân là sự kết hợp và chi phối lẫn nhau giữa ba nhóm yếu tốcơ bản:
kiến thức – kỹ năng – Thái độ ứng xử, quan hệ. Trên thực tế, cũng có thể chi
tiết các nhóm yếu tố trên thành những yếu tố nhỏ hơn hoặc cũng có thể bổ
sung thêm những tiêu chí khác.
Khi cá nhân được giao thực hiện công việc cụ thể, đòi hỏi cá nhân đó phải
có năng lực (cả ba nhóm yếu tố kể trên) phù hợp với yêu cầu của công việc,thì
mới đảm bảo thực thi có hiệu quả công việc được giao.
1.3.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực biên dịch viên
1.3.2.1. Theo tiêu chuẩn pháp luật quy định
Tiêu chuẩn, năng lực của Biên dịch viên được quy định cụ thể theo
Điều 10, Điều 11, Điều 12 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTTL-BTTTT-
BNV.[7]
Biên dịch viên được phân loại với các cấp độ từ cao xuống thấp, tương
ứng với đó là các tiêu chuẩn năng lực khác nhau:
Biên dịch viên hạng I
Biên dịch viên hạng II
Biên dịch viên hạng III
1.3.2.2. Các tiêu chí đánh giá thông qua yếu tố cấu thành năng lực
- Kiến thức của biên dịch viên
* Kiến thức chung :
Biên dịch viên là nguồn lực giúp bộ máy cơ quan, tổ chức có thể vận
hành và hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, biên
dịch viên phải tổng hợp được các kiến thức về trình độ văn hóa, chuyên
môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước, lý luận chính trị. Đó là một trong những
điều kiện tiên quyết bảo đảm cho việc thực hiện công việc đạt kết quả tốt.
* Kiến thức cụ thể gắn liến với vị trí biên dịch viên
Bên cạnh các kiến thức chung mà bất kỳ viên chức nào cũng phải đảm
bảo theo quy định, thì biên dịch viên phải được trang bị kiến thức cụ thể
tương ứng với chức danh công tác. Nó thể hiện tính chất, đặc điểm riêng
của từng ngành, từng lĩnh vực và mang tính chuyên môn, nghiệp vụ cụ
thể. Tại Điều 10,11,12 của Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTTTT-
BNV quy định tiêu chuẩn đối với chức danh Biên dịch viên.
+ Năng lực trong giải quyết công việc của biên dịch viên.
Năng lực là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng viên chức khi
thực hiện công việc. Nói đến năng lực của biên dịch viên là nói đến khả
13
năng thực tế giải quyết công việc, khả năng sử dụng các công cụ, vận dụng
kiến thức, kỹ năng nhằm đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ được cơ quan,
tổ chức giao cho một cách có hiệu quả. Năng lực của biên dịch viên là một
loại năng lực đặc thù, gắn liền với chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm về
ngoại ngữ. Để đánh giá năng lực biên dịch viên có thể sử dụng các tiêu chí
:Năng lực sử dụng công nghệ; Năng lực tra cứu thông tin; Năng lực đa
ngôn ngữ; Năng lực tiếp cận vấn đề; Năng lực lập kế hoạch; Năng lực làm
việc nhóm.
1.3.2.3. Các tiêu chí đánh giá thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ
Đánh giá năng lực viên chức thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ là
hình thức đánh giá hiện đang được áp dụng theo quy định pháp luật hiện
hành về viên chức nói chung, do đó, cũng được áp dụng với biên dịch
viên.
Theo quy định của Luật Viên chức, Nghị định số 56/2015/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 09/6/2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức,
viên chức. Việc đánh giá viên chức được phân loại thành 4 mức: Từ
Không hoàn thành nhiệm vụ đến Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực biên dịch viên
1.3.3.1. Chất lượng và hiệu quả tuyển dụng biên dịch viên
Năng lực của đội ngũ biên dịch viên chịu sự tác động lớn từ chất lượng
và hiệu quả của công tác tuyển dụng. Sự khách quan, minh bạch, công
tâm, nội dung thi tuyển phù hợp với vị trí công việc, chức danh nghề
nghiệp là cơ sở đầu tiên để có được đội ngũ biên dịch viên phù hợp. Công
tác tuyển dụng được thực hiện tốt không chỉ bổ sung năng lực tổng thể cho
biên dịch viên mà còn tạo nền tảng để có đội ngũ biên dịch viên có đủ tâm,
đủ tầm, đủ tài trong tương lai.
1.3.3.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển năng lực của biên dịch viên
Đào tạo, bồi dưỡng chính là công cụ để phát triển năng lực của biên
dịch viên. Yêu cầu đối với kết quả thực thi nhiệm vụ của biên dịch viên
ngày càng cao hơn. Đào tạo, bồi dưỡng cho phép bổ khuyết những thiếu
hụt đó và chuẩn bị những năng lực cần thiết cho biên dịch viên trong giai
đoạn tiếp theo. Chính vì vậy, để nâng cao năng lực của biên dịch viên, vấn
đề đào tạo, bồi dưỡng cần được đặc biệt chú ý.
1.3.3.3. Chế độ, chính sách tạo động lực đối với biên dịch viên
Các chế độ, chính sách đối với biên dịch viên có tác động mạnh mẽ đến
động lực làm việc. Chế độ, chính sách đối với biên dịch viên cần phải quan
tâm để các viên chức này thực sự gắn bó với nghề nghiệp, có sự đam mê,
không ngừng tìm tòi, nâng cao hiệu quả thực hiện công việc.
14
1.3.3.4. Sự quan tâm của người đứng đầu đơn vị đối với việc phát triển
năng lực của biên dịch viên
Đội ngũ biên dịch viên chịu sự tác động rất lớn của người đứng đầu cơ
quan quản lý. Vì thế quan điểm của người lãnh đạo quản lý có tác động
thực sự quan trọng đến sự phát triển của đội ngũ biên dịch viên. Người
lãnh đạo quản lý quan tâm đến công tác dịch thuật, quan tâm đến đội ngũ
biên dịch thì công tác phát triển năng lực đội ngũ biên dịch viên sẽ được
đẩy mạnh
Tiểu kết Chƣơng 1:
Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lực viên chức và năng lực
biên dịch viên sẽ làm rõ vấn đề sau:
Viên chức ngành Lưu trữ là viên chức thực hiện hoạt động lưu trữ nên
được áp dụng các quy định pháp luật về viên chức nói chung nhưng cũng
cần xây dựng thêm quy định về cơ chế riêng để xây dựng lực lượng viên
chức ngành Lưu trữ.
Năng lực biên dịch viên ngành Lưu trữ là tập hợp những thuộc tính tâm lý
của người đó (gồm tri thức, kỹ năng và thái độ, hành vi ứng xử, quan hệ) của
viên chức trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao, được đánh giá dựa trên
các yếu tố cấu thành năng lực (kiến thức, kỹ năng, thái độ) hoặc đánh giá theo
phân loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ.
Có thể nói, nội dung chương 1 là cơ sở khoa học quan trọng và cần
thiết cho việc đánh giá thực trạng về năng lực của biên dịch viên tại các
Trung tâm Lưu trữ quốc gia. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp mang
tính khả thi trong việc nâng cao năng lực của đội ngũ biên dịch viên tại
các Trung tâm Lưu trữ quốc gia trong thời gian tới.
Chƣơng 2:THỰC TRẠNG NĂNG LỰC BIÊN DỊCH VIÊN TẠI
CÁC TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA
2.1. Chức năng nhiệm vụ của các trung tâm Lƣu trữ quốc gia
Hiện nay, có bốn trung tâm trực thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước,
bao gồm: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Trung
tâm Lưu trữ quốc gia III, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.
Các Trung tâm Lưu trữ quốc gia là đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ
công tác lưu trữ tài liệu quốc gia, thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước; là
các đơn vị đầu ngành về công tác lưu trữ tài liệu lịch sử. Trong quá trình hình
15
thành và phát triển, các Trung tâm đã có nhiều đóng góp cho ngành Lưu trữ.
Đây là những đơn vị đi đầu trong ngành lưu trữ, có bề dày truyền thống lịch
sử lâu đời.
2.2. Khái quát về nhiệm vụ biên dịch và đội ngũ biên dịch viên tại bốn
trung tâm lƣu trữ quốc gia
2.2.1. Nhiệm vụ biên dịch
Nhiệm vụ biên dịch viên tại các trung tâm lưu trữ quốc gia được dựa
trên nhiệm vụ chung của Biên dịch viên được quy định tại thông tư liên
tịch Số: 11/2016/TTLT-BTTTT-BNV và chức năng nhiệm vụ của từng
đơn vị. Các biên dịch viên có nhiệm vụ chính như sau:
a) Dịch viết những thể loại thông thường như tin, bài, niên biểu, tường
thuật, tiểu phẩm, sách đảm bảo được nội dung nguyên bản và chịu trách
nhiệm cá nhân đối với bản dịch đó.
b) Dịch phục vụ cho công tác đối ngoại theo yêu cầu của cơ quan.
c) Tập hợp, sưu tầm, trích dẫn, tra cứu phục vụ cho biên dịch.
d) Chuẩn bị nội dung, dịch cho các hội thảo về nghiệp vụ trong nước và
nước ngoài.
2.2.2. Biên dịch viên
Tính đến năm 2019, tổng số viên chức là biên dịch viên của 4 trung
tâm là 63 người trên tổng số 252 người. Với số lượng biến động rất ít.
Cơ cấu theo giới tính
Cơ cấu theo độ tuổi
2.3. Phân tích, đánh giá năng lực biên dịch viên tại các Trung tâm lƣu
trữ quốc gia giai đoạn 2015 - 2019
2.3.1. Mức độ đáp ứng tiêu chuẩn pháp luật quy định
2.3.1.1. Trình độ chuyên môn
2.3.1.2. Trình độ lý luận chính trị
2.3.1.3. Trình độ tin học, ngoại ngữ
2.3.1.4. Chứng chỉ bồi dưỡng tiêu chuẩn Biên dịch viên
2.3.2. Đánh giá năng lực theo kết quả hoạt động hàng năm của biên
dịch viên
2.3.3. Đánh giá năng lực theo nhóm năng lực thực thi hoạt động biên
dịch
Để đánh giá thực trạng về năng lực của biên dịch viên, tác giả đưa ra 6
nhóm tiêu chí nhỏ với thang điểm đánh giá 1,2,3,4,5.
(Mức độ 1: Thể hiện kém, mức độ 2: Thể hiện mức TB, mức độ 3: Thể hiện
mức khá, mức độ 4: Thể hiện tốt, mức độ 5: Thể hiện rất tốt).
2.3.3.1. Năng lực sử dụng công nghệ thông tin
16
2.3.3.2. Năng lực tra cứu thông tin
2.3.3.3. Năng lực ngôn ngữ
2.3.3.4. Năng lực tiếp cận vấn đề
2.3.3.5. Năng lực lập kế hoạch công việc
2.3.3.6. Năng lực làm việc nhóm
2.3.4. Thái độ làm việc và phẩm chất đạo đức của biên dịch viên
Qua kết quả khảo sát cho thấy 78% viên chức được hỏi yên tâm và hoàn
toàn yên tâm trong công tác, 22% chưa yên tâm công tác và 85% yêu thích
công việc hiện tại, có thái độ tốt với tình yêu nghề nghiệp và gắn bó với công
việc đang làm. Thái độ nghề nghiệp được thể hiện cụ thể như: tâm huyết, yêu
nghề và vì sự phát triển của ngành biên dịch.
2.4. Đánh giá chung về năng lực biên dịch viên nhà nƣớc tại các
Trung tâm lƣu trữ
2.4.1. Về mặt tích cực
* Đối với năng lực theo tiêu chuẩn pháp lý
Trung tâm lưu trữ quốc gia đã tạo lập được một đội ngũ biên dịch viên
chính quy và ổn định theo tiêu chuẩn, chức danh cần thiết đáp ứng yêu cầu
thực thi của một nền công vụ mới theo yêu cầu phát triển của ngành lưu
trữ.
* Đối với năng lực thực thi hoạt động biên dịch
Kết quả khảo sát cho thấy, biên dịch viên tại các Trung tâm lưu trữ
quốc gia được đánh giá theo các nhóm năng lực trên đều ở mức trung
bình. Các biên dịch viên đã có sự tự đánh giá công tâm về năng lực thực
thi hoạt động biên dịch của bản thân. Có thể thấy, nhìn chung năng lực
được coi là thế mạnh của biên dịch viên đó là năng lực về chuyên môn
như kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng tra cứu.
2.4.2. Những mặt hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
2.4.2.1. Đối với năng lực theo tiêu chuẩn pháp lý
- Trình độ chuyên môn của biên dịch viên cơ bản đáp ứng theo đúng quy
định của pháp luật đối với vị trí đảm nhiệm song việc nâng cao trình độ
chuyên môn thực hiện còn chậm và không có sự thay đổi đáng kể.
2.4.2.2. Đối với năng lực thực thi hoạt động quản lý
- Đánh giá chung:
Nhìn chung, năng lực của biên dịch viên còn hạn chế, chưa năng động,
nhạy bén trong giải quyết công việc. Kỹ năng mềm là hạn chế lớn của các
biên dịch viên.
Từ thực trạng trên đòi hỏi cần phải có những giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn nữa việc xây dựng một đội ngũ biên dịch viên có đủ năng lực và phầm
17
chất để đảm nhận tốt hơn nữa vai trò, nhiệm vụ của mình.2.4.2.3 Nguyên
nhân của hạn chế
- Nguyên nhân khách quan:
+ Quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra nhanh chóng, dẫn tới sự thay
đổi chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức; thay đổi những tiêu chuẩn
đối với người thực hiện công việc Nguyên nhân này làm cho khoảng cách
giữa yêu cầu của công việc và năng lực hiện có của người thực hiện công việc
có xu hướng ngày càng xa nhau.
- Nguyên nhân chủ quan:
Về phía trung tâm:
+ Trung tâm chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích đối với hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng biên dịch viên nhằm thúc đẩy người được cử đi
có tinh thần học tập, nâng cao trình độ. Sự khó khăn về tài chính, cơ sở vật
chất cũng chưa được các cơ quan cấp trên quan tâm một cách nghiêm túc.
Mặt khác, đa số biên dịch viên đều phản ánh trở ngại của việc đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực do các cấp quản lý chưa có kế hoạch, cơ chế
chính sách thực sự tháo gỡ được khó khăn và khuyến khích đội ngũ biên
dịch viên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, các chương trình chưa
phong phú.
+ Công tác triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng biên dịch viên chưa
kịp thời và hạn chế, thiếu sự kiểm soát chất lượng.
Về phía biên dịch viên:
+ Một bộ phận biên dịch viên chưa nhận thức đầy đủ về đào tạo và phát
triển năng lực bản thân trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao.
+ Một bộ phận biên dịch viên còn duy trì thói quen và phong cách làm
việc theo kinh nghiệm, ngại đổi mới, phong cách làm việc của một số biên
dịch viên còn chậm chạp, chấp hành giờ giấc không nghiêm chỉnh trong
quản lý do đó đã khiến cho bộ phận viên chức này không không nhận thức
được một cách sâu sắc và đầy đủ ảnh hưởng bất lợi của việc chậm đổi mới
tư duy, thiếu tính chủ động, sáng tạo.
Tiểu kết Chƣơng 2:
Từ việc tìm hiểu thực trạng đội ngũ biên dịch viên tại các Trung tâm
Lưu trữ quốc gia, Luận văn đã làm rõ những vấn đề sau:
- Về kỹ năng nghề nghiệp, chuyên môn, nghiệp vụ, các biên dịch viên
đáp ứng tốt yêu cầu của công việc. Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế cần
được khắc phục như: cần cải thiện kỹ năng mềm, kỹ năng lập kế hoạch xử
lý công việc Thái độ làm việc và phẩm chất đạo đức của đội ngũ viên
18
chức được đánh giá tốt, đáp ứng được yêu cầu công việc.
Thực trạng còn tồn tại nhiều khó khăn và hạn chế bởi những nguyên
nhân như: việc phân cấp trong quá trình thực hiện chuyên môn nghiệp vụ
vẫn trong quá trình đổi mới; chưa ban hành quy chế về công tác đào tạo,
bồi dưỡng trên cơ sở các quy định của pháp luật về quản lý công tác đào tạo,
bồi dưỡng; chưa có kế hoạch dài hạn về công tác đào tạo bồi dưỡng; kinh phí
cấp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng còn tương đối thấp so với yêu cầu thực
tế; trang thiết bị làm việc chưa được nâng cấp, thay thế; chế độ tiền lương thu
nhập từ công việc của viên chức nói chung còn khá thấp...
Nhìn chung, nội dung chương 2 đã chỉ ra những năng lực được coi
là thế mạnh và năng lực còn yếu để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm
rèn luyện và nâng cao những nhóm năng lực còn thiếu đó.
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC VIÊN
CHỨC BIÊN DỊCH VIÊN TRUNG TÂM LƢU TRỮ QUỐC GIA,
CỤC VĂN THƢ VÀ LƢU TRỮ NHÀ NƢỚC
3.1. Sự cần thiết khách quan phải nâng cao năng lực biên dịch viên
Để có thể thấy được vai trò của biên dịch viên tại các trung tâm lưu trữ,
trước hết phải thấy được tầm quan trọng của tài liệu lưu trữ đối với xã hội và
quan điểm của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ về tài liệu lưu trữ.
3.1.1. Giá trị của tài liệu lưu trữ
Tài liệu lưu trữ có giá trị rất quan trọng đối với
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_vannang_luc_bien_dich_vien_tai_cac_trung_tam_lu.pdf