Sốnguyên tử79 của vàng khiến nó là một trong những nguyên tốcó số
nguyên tửlớn nhất xảy ra trong tựnhiên. Giống mọi nguyên tốvới các số
nguyên tửlớn hơn sắt, vàng được cho là đã hình thành từmột quá 
trình tổng hợp hạt nhân sao siêu mới. Những vụnổsao siêu mới tung bụi 
có chứa kim loại (gồm cảcác nguyên tốnặngnhưvàng) vào trong vùng 
không gian sau này đặc lại thành hệmặt trờivà Trái đất của chúng ta.
Trên Trái đất, bất kỳkhi nào nguyên tốvàng phát sinh, dường nhưnó sẽ
luôn nhưlà một dung dịch đặccủa vàng và bạc, ví dụmột hợp kim vàng 
bạc. Các hợp kim này thường có hàm lượng bạc 8–10%. Quặng vàng bạc 
là vàng nguyên tốvới hơn 20% bạc. Màu sắc của quặng vàng bạc thay đổi 
từmàu vàng-bạc tới bạc, phụthuộc vào hàm lượng bạc. Càng nhiều bạc, 
nó càng có trọng lượng riêngthấp. 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3145 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng quan về Vàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớn bao quanh các điểm ở vị 
trí của kháng thể.[9] Vàng keo cũng là hình thức vàng được sử 
dụng như sơn vàng trong ngành gốm sứ trước khi nung. 
Vàng, hay các hợp kim của vàng và palladium, được áp dụng làm 
lớp dẫn cho các mẫu sinh học và các vật liệu phi dẫn khác như 
plastics và kính để được quan sát trong một kính hiển vi electron 
quét. Lớp phủ, thường được tạo bởi cách thổi với 
một argon plasma, có ba vai trò theo cách ứng dụng này. Tính dẫn 
điện rất cao của vàng dẫn điện tích xuống đất, và mật độ rất cao 
của nó cung cấp năng lượng chặn cho các electron trong chùm 
electron, giúp hạn chế chiều sâu chùm electron xâm nhập vào 
trong mẫu. Điều này cải thiện độ nét của điểm và địa hình bề mặt 
mẫu và tăng độ phân giải không gian của hình ảnh. Vàng cũng tạo 
ra một hiệu suất cao của các electron thứ hai khi bị bức xạ bởi một 
chùm electron, và các electron năng lượng thấp đó thường được 
dùng làm nguồn tín hiệu trong kính hiển vi quét electron.[10] 
Đồng vị vàng-198, (bán rã 2.7 ngày) được dùng trong một số 
phương pháp điều trị ung thư và để điều trị một số loại bệnh.[11] 
Thực phẩm và đồ uống 
 Vàng có thể được sử dụng trong thực phẩm và có số E 175.[12] 
 Vàng lá, bông hay bụi được dùng trên và trong một số thực 
phẩm cho người sành ăn, đáng chú ý nhất là các đồ bánh kẹo 
và đồ uống như thành phần trang trí.[13] Vàng lá đã được giới 
quý tộc thời châu Âu Trung Cổ sử dụng như một thứ đồ trang trí 
cho thực phẩm và đồ uống, dưới dạng lá, bông hay bụi, hoặc để 
thể hiện sự giàu có của chủ nhà hay với niềm tin rằng một thứ 
có giá trị và hiếm sẽ có lợi cho sức khoẻ con người. Lá vàng và 
bạc thỉnh thoảng được dùng trong các đồ bánh kẹo ở Nam Á 
như barfi.[14] 
 Goldwasser (nước vàng) là một đồ uống thảo mộc truyền thống 
được sản xuất tại Gdańsk, Ba Lan, và Schwabach, Đức, và có 
chứa những bông vàng lá. Cũng có một số loại cocktail đắt giá 
(~$1000) có chứa bông vàng lá.[15] Tuy nhiên, bởi vàng kim loại 
trơ với mọi chất hoá học trong cơ thể, nó không mang lại hương 
vị cũng không có hiệu quả dinh dưỡng nào và không làm thay 
đổi gì cho cơ thể.[16] 
Công nghiệp 
Viên gạch vàng 220 kg được trưng bày tại Bảo tàng Vàng 
Chinkuashi, Đài Loan,Trung Hoa Dân Quốc 
Thanh vàng lớn nhất thế giới nặng 250 kg. Bảo tàng Toi, Nhật Bản. 
Một cục vàng tự nhiên đường kính 5 mm (đáy) có thể được dát 
mỏng bằng búa thành một lá vàng khoảng 0.5 mét vuông. Bảo tàng 
Toi, Nhật Bản. 
 Hàn vàng được dùng để gắn kết các thành phần vàng trang sức 
bằng chất hàn cứng nhiệt độ cao hay đồng thau. Nếu công việc 
đòi hỏi chất lượng chứng nhận, vàng hàn phải có cùng trọng 
lượng carat, và công thức hợp kim được chế tạo theo hầu hết 
tiêu chuẩn trọng lượng carat công nghiệp màu sắc đáp ứng 
vàng vàng và trắng. Hàn vàng thường được thực hiện ở ít nhất 
ba điểm nóng chảy được gọi là Dễ, Trung bình và Khó. Bằng 
cách sử dụng mức khỏ, ban đầu đưa nó tới điểm nóng chảy, 
tiếp đó người hàn sẽ dần hạ thấp điểm nóng chảy, thợ vàng có 
thể lắp ráp các đồ vật phức tạp với nhiều điểm hàn riêng biệt. 
 Vàng có thể được chế tạo thành sợi chỉ và được dùng 
trong thêu thùa. 
 Vàng mềm và có thể uốn, có nghĩa nó có thể được chế tạo 
thành sợi dây rất mỏng và có thể được dát thành tấm rất mỏng 
gọi là lá vàng. 
 Vàng tạo màu đỏ sâu khi được dùng làm tác nhân màu trong 
ngành thuỷ tinh. 
 Trong chụp ảnh, các chất liệu màu bằng vàng được dùng để 
chuyển đổi màu của các điểm trắng và đen trên giấy ảnh thành 
màu xám và xanh, hay để tăng sự ổn định của chúng. Được 
dùng trong in tông nâu đỏ, chất màu vàng tạo ra các tông đỏ. 
Kodak đã công bố các công thức cho nhiều kiểu tông màu từ 
vàng, sử dụng vàng như chloride.[17] 
 Bởi vàng là một chất phản xạ tốt với bức xạ điện từ như hồng 
ngoại và ánh sáng nhìn thấy được cũng như các sóng radio, nó 
được dùng làm lớp phủ bảo vệ cho nhiều vệ tinh nhân tạo, trong 
các tấm bảo vệ nhiệt hồng ngoại và mũ của các nhà du hành vũ 
trụ và trên các máy bay chiến tranh điện tử nhưEA-6B Prowler. 
 Vàng được dùng như lớp phản xạ trên một số đĩa CD công 
nghệ cao. 
 Ô tô có thể sử dụng vàng để tản nhiệt. McLaren sử dụng vàng lá 
trong khoang động cơ model F1 của mình.[18] 
 Vàng có thể được sản xuất mỏng tới mức nó dường như trong 
suốt. Nó được dùng trong một số cửa sổ buồng lái máy bay 
để làm tan băng hay chống đóng băng bằng cách cho một dòng 
điện chạy qua đó. Nhiệt tạo ra bởi kháng trở của vàng đủ để 
khiến băng không thể hình thành.[19] 
Điện tử 
Sự tập trung các electron tự do trong kim loại vàng là 
5.90×1022 cm−3. Vàng có tính dẫn điện rất cao, và đã được dùng 
làm dây dẫn điện trong một số thiết bị tiêu thụ nhiều điện năng (bạc 
thậm chí có độ dẫn điện trên thể tích cao hơn, nhưng vàng có ưu 
điểm chống ăn mòn). Ví dụ, các dây dẫn điện bằng vàng đã được 
sử dụng trong một số thực nghiệm nguyên tử thuộc Dự án 
Manhattan, nhưng những dây dẫn bạc dòng lớn cũng được sử 
dụng trong các nam châm tách đồng vị calutron của dự án này. 
Dù vàng bị chlorine tự do tấn công, tính dẫn điện tốt của nó và khả 
năng chống ôxi hoá và ăn mòn nói chung trong các môi trường 
khác (gồm cả khả năng kháng axít không chlorine) đã khiến nó 
được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp điện tử bởi chỉ một lớp 
phủ vàng mỏng có thể đảm bảo kết nối điện mọi dạng, vì thế đảm 
bảo độ kết nối tốt. Ví dụ, vàng được dùng làm thiết bị nối của các 
dây dẫn điện đắt đỏ, như audio, video và cáp USB. Lợi ích của việc 
sử dụng vàng làm kim loại kết nối so với kim loại khác 
như thiếc đang bị tranh luận dữ dội. Các kết nối vàng thường bị 
các chuyên gia nghe nhìn chỉ trích là không cần thiết với hầu hết 
khách hàng và bị coi chỉ đơn giản là một trò marketing. Tuy nhiên, 
việc sử dụng vàng trong các thiết bị điện tử kiểu trượt khác trong 
các môi trường rất ẩm ướt và ăn mòn, và cho các tiếp xúc với chi 
phí hư hỏng lớn (một số máy tính, thiết bị thông tin, tàu vũ trụ, động 
cơ máy bay phản lực) vẫn rất phổ biến.[20] 
Bên cạnh tiếp xúc điện kiểu trượt, vàng cũng được dùng trong tiếp 
xúc điện bởi nó có khả năng kháng ăn mòn, độ dẫn điện, mềm và 
không độc.[21] Các công tắc kiểu bấm nói chung dễ bị ăn mòn hơn 
công tắc trượt. Các dây dẫn bằng vàng mỏng được dùng để kết nối 
các thiết bị bán dẫn với gói thiết bị của chúng qua một quá trình 
được gọi là kết nối dây. 
[sửa]Hoá học 
Vàng bị tấn công và hoà tan trong các dung dịch kiềm hay 
natri cyanide, và cyanide vàng là chất điện phân được dùng trong 
kỹ thuật mạ điện vàng lên các kim loại cơ sở và kết tủa điện. Các 
dung dịch vàng chloride (chloroauric acid) được dùng để chế tạo 
vàng keo bằng cách khử với citrate hay ascorbate ions. Vàng 
chloride và vàng oxide được dùng để chế tạo thuỷ tinh màu đỏ hay 
thuỷ tinh có giá trị cao, mà, như chất lỏng keo vàng, có chứa 
các phân tử nanovàng với kích cỡ đồng đều.[22] 
Đơn vị đo lường 
Xem thêm Hệ đo lường kim hoàn 
Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, khối lượng của vàng được tính theo 
đơn vị là cây (lượng hay lạng) hoặc chỉ. Một cây vàng nặng 37,50 g. Một 
chỉ bằng 1/10 cây vàng. 
Trên thị trường thế giới, vàng thường được đo lường theo hệ thống khối 
lượng troy, trong đó 1 troy ounce (ozt) tương đương 31,1034768 gram. 
Tuổi (hay hàm lượng) vàng được tính theo thang độ K (Karat). Một Karat 
tương đương 1/24 vàng nguyên chất. Vàng 99,99% tương đương với 24K. 
Khi ta nói tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng trong 
mẫu xấp xỉ 75%. Hiện nay ở Việt Nam người ta thường kinh doanh vàng 
dưới dạng các bánh, thỏi, nhẫn, dây chuyền, vòng, lắc với hàm lượng vàng 
chủ yếu là 99,999% hay 99,99%, 99,9%, 99% hay 98%. Vàng dùng trong 
ngành trang sức thông thường còn gọi là vàng tây có tuổi khoảng 18K. 
[sửa]Lịch sử 
Bản đồ Giấy cói Turin 
Mặt nạ tang lễ của Tutankhamun 
Jason returns with the golden fleece on an Apulian red-
figurecalyx krater, ca. 340–330 BC. 
Vàng đã được biết tới và sử dụng bởi các nghệ nhân từ thời Chalcolithic. 
Các đồ tạo tác bằng vàng ở Balkans xuất hiện từ thiên niên kỷ thứ 4 trước 
Công Nguyên, như những đồ vật được tìm thấy tại Varna Necropolis. Các 
đồ tạo tác bằng vàng như những chiếc mũ vàng và đĩa Nebra xuất hiện ở 
Trung Âu từ thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên trong Thời đồ đồng. 
Egyptian hieroglyph ngay từ năm 2600 BC đã miêu tả vàng, mà 
vua Tushratta của Mitanni tuyên bố là "nhiều hơn cát bụi" tại Ai Cập.[23] Ai 
Cập và đặc biệt là Nubiacó các nguồn tài nguyên để biến họ trở thành các 
trung tâm chế tạo vàng trong hầu hết lịch sử. Bản đồ sớm nhất được biết 
tới là Bản đồ giấy cói Turin và thể hiện sơ đồ của một mỏ vàng tại Nubia 
cùng với những chỉ dẫn địa lý địa phương. Các phương thức chế biến ban 
đầu đã được Strabo miêu tả và gồm cả việc nung chảy. Những mỏ lớn 
cũng hiện diện trên khắp Biển Đỏ ở nơi hiện là Ả Rập Saudi. 
Truyền thuyết về bộ lông cừu vàng có thể để cập tới việc dùng lông cừu để 
khai thác bụi vàng từ trầm tích cát vàng ở thế giới cổ đại. Vàng thường 
được đề cập tới trong Cựu ước, bắt đầu với Khải huyền 2:11 (tại Havilah) 
và gồm trong với các quà tặng của magi trong những chương đầu tiên 
của Tân ước của Matthew. Sách Khải huyền 21:21 đã miêu tả thành 
phố Jerusalem Mới có các đường phố "làm bằng vàng nguyên chất, sáng 
như pha lê". Góc tây nam của Biển Đen nổi tiếng với vàng. Việc khai thác 
được cho là đã bắt đầu từ thời Midas, và vàng ở đây đóng vai trò quan 
trọng trong việc hình thành cái có thể là đồng tiền đúc đầu tiên 
tại Lydiakhoảng năm 610 trước Công Nguyên.[24] Từ thế kỷ thứ 6 hay thứ 5 
trước Công Nguyên, nhà Chu đã cho sử dụng Ying Yuan, một kiểu đồng 
tiền xu vàng. 
Người La Mã đã phát triển các kỹ thuật mới để khai thác vàng ở quy mô 
lớn bằng các phương pháp khai mỏ thuỷ lực, đặc biệt tại Tây Ban Nha từ 
năm 25 trước Công Nguyên trở về sau và tại Romania từ năm 150 sau 
Công Nguyên trở về sau. Một trong những mỏ lớn nhất nằm tại Las 
Medulas ở León (Tây Ban Nha), nơi bảy cống dẫn nước dìa cho phép tháo 
hầu hết trầm tích bồi tích lớn. Các mỏ tại Roşia 
Montană ở Transylvania cũng rất lớn, và cho tới tận gần đây, vẫn được 
khai thác bằng các phương pháp đúc lộ thiên. Các mỏ nhỏ hơn 
tại Anh cũng được khai thác, như các trầm tích cát vàng và đá cứng 
tại Dolaucothi. Nhiều phương pháp họ sử dụng đã được Pliny già miêu tả 
kỹ lưỡng trong bách khoa toàn thư của mình Naturalis Historia được viết 
vào khoảng cuối thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. 
Đế chế Mali tại châu Phi nổi tiếng khắp Cựu thế giới về trữ lượng vàng lớn 
của mình. Mansa Musa, nhà cai trị đế chế (1312–1337) trở nên nổi tiếng 
khắp cựu thế giới về cuộc hành hương của mình tới Mecca năm 1324. 
Ông đã đi qua Cairo tháng 7 năm 1324, ông được tả là đã được tháp tùng 
bởi một đoàn lạc đà với hàng nghìn người và gần một trăm con lạc đà. 
Ông đã cho đi rất nhiều vàng tới mức vàng giảm giá ở Ai Cập trong hơn 
một thập kỷ.[25] Một sử gia Ả Rập đương thời đã bình luận: 
“ Vàng đang có giá cao ở Ai Cập cho tới khi họ tới năm 
ấy. Mithqal không dưới 25 dirhams và nói chung là hơn, 
nhưng từ thời điểm ấy giá trị của nó đã giảm và mức giá 
thấp này vẫn còn tới ngày nay. Mithqal không vượt quá 
22 dirhams hay ít hơn. Đây là mức giá trao đổi trong 
khoảng mười hai năm cho tới hiện tại bởi số lượng vàng 
lớn mà họ đã mang tới Ai Cập và chi tiêu tại đó [...] ” 
—Chihab Al-Umari[26] 
Cuộc thám hiểm châu Mỹ của người châu Âu đã được kích thích một phần 
lớn bởi những báo cáo về các đồ trang sức bằng vàng được trưng bày 
khắp nơi bởingười bản xứ châu Mỹ, đặc biệt tại Trung 
Mỹ, Peru, Ecuador và Colombia. Người Aztec coi vàng theo nghĩa đen là 
sản phẩm của thần thánh, gọi nó là "phân của thánh" 
(teocuitlatl trong Nahuatl).[27] 
Dù giá của một số nhóm kim loại platinum cao hơn nhiều, vàng từ lâu đã 
được coi là kim loại đáng thèm muốn nhất trong các kim loại quý, và giá trị 
của nó đã được sử dụng làm bản vị cho nhiều tiền tệ (được gọi là bản vị 
vàng) trong lịch sử. Vàng đã được sử dụng như một biểu tượng cho sự 
thanh khiết, giá trị, sự vương giả, và đặc biệt các vai trò phối hợp cả ba 
đặc tính đó. Vàng như một dấu hiệu của sự giàu sang và danh vọng đã 
bị Thomas More đem ra chế nhạo trong chuyên luận Utopia. Trên hòn đảo 
tưởng tượng đó, vàng quá dư thừa tới mức nó được dùng làm xiềng xích 
cho nô lệ, đồ ăn và đồ toilet. Khi các đại sứ từ các quốc gia khác tới, đeo 
những bộ đồ trang sức bằng vàng, người dân Utopia tưởng họ là những kẻ 
hầu hạ, và chỉ tỏ lòng kính trọng với những người ăn mặc xoàng xĩnh nhất 
trong đoàn. 
Có một truyền thống từ lâu là việc cắn vàng để thử nó. Dù đây chắc chắn 
không phải là một cách chuyên nghiệp để thử vàng, việc cắn để thử có thể 
để lại dấu vết vì vàng là một kim loại mềm, như được chỉ ra bởi điểm của 
nó trong bảng độ cứng khoáng sản Mohs. Vàng càng nguyên chất thì càng 
dễ tạo dấu. Chì được sơn có thể đánh lừa việc thử này bởi chì mềm hơn 
vàng (và có thể gây ra một nguy cơ ngộ độc chì nhỏ nếu một lượng chì đủ 
lớn bị hấp thụ trong lần cắn). 
Vàng thời cổ đại về mặt địa chất khá dễ để có được; tuy nhiên 75% tổng 
lượng vàng từng được khai thác đã được khai thác từ năm 1910.[28] Ước 
tính rằng tổng lượng vàng từng được khai thác sẽ tạo ra một khối 20 m 
(66 ft) mỗi cạnh (tương đương 8000 m3).[28] 
Một mục đích chính của các nhà giả kim thuật là tạo ra vàng từ các dẫn 
xuất khác, như chì — được cho là qua tương tác với một chất bí ẩn được 
gọi là đá của nhà triết học. Dù họ không bao giờ thành công trong nỗ lực 
này, các nhà giả kim thuật đã khiến người ta quan tâm hơn vào cái có thể 
thực hiện được với các chất, và điều này đã đặt ra nền tảng cho 
ngành hoá học ngày nay. Biểu tượng của họ cho vàng là vòng tròn với một 
điểm ở tâm (☉), cũng là biểu tượng chiêm tinh và chữ cái Trung Quốc cổ 
cho Mặt trời. Với việc tạo ra vàng nhân tạo thời hiện đại bằng cách bắt 
neutron, xem Tổng hợp vàng. 
Trong thế kỷ 19, những cuộc đổ xô đi tùm vàng đã xảy ra bất kỳ khi nào 
những trầm tích vàng lớn được phát hiện. Lần khám phá đầu tiên ra vàng 
tại Hoa Kỳ được ghi lại là tại Mỏ Vàng Reed gần Georgeville, Bắc Carolina 
năm 1803.[29] Cuộc đổ xô đi tìm vàng đầu tiên ở Hoa Kỳ diễn ra tại một thị 
trấn nhỏ phía bắc Georgia tên là Dahlonega.[30] Những cuộc đổ xô đi tìm 
vàng khác diễn ra tạiCalifornia, Colorado, Black 
Hills, Otago, Australia, Witwatersrand, và Klondike. 
Bởi giá trị cao từ trong lịch sử của nó, đa số vàng đã được khai thác trong 
suốt lịch sử vẫn đang được lưu chuyển dưới hình thức này hay hình thức 
khác. 
Occurrence 
Cục vàng tự nhiên 156-ounce (4.85 kg) này được một người 
tìm quặng tìm thấy ở Sa mạc Nam California bằng một máy dò 
kim loại. 
Số nguyên tử 79 của vàng khiến nó là một trong những nguyên tố có số 
nguyên tử lớn nhất xảy ra trong tự nhiên. Giống mọi nguyên tố với các số 
nguyên tử lớn hơn sắt, vàng được cho là đã hình thành từ một quá 
trình tổng hợp hạt nhân sao siêu mới. Những vụ nổ sao siêu mới tung bụi 
có chứa kim loại (gồm cả các nguyên tố nặng như vàng) vào trong vùng 
không gian sau này đặc lại thành hệ mặt trời và Trái đất của chúng ta.[31] 
Trên Trái đất, bất kỳ khi nào nguyên tố vàng phát sinh, dường như nó sẽ 
luôn như là một dung dịch đặc của vàng và bạc, ví dụ một hợp kim vàng 
bạc. Các hợp kim này thường có hàm lượng bạc 8–10%. Quặng vàng bạc 
là vàng nguyên tố với hơn 20% bạc. Màu sắc của quặng vàng bạc thay đổi 
từ màu vàng-bạc tới bạc, phụ thuộc vào hàm lượng bạc. Càng nhiều bạc, 
nó càng có trọng lượng riêng thấp. 
Kích thước so sánh của một khối quặng vàng 860 kg và 30 g 
vàng có thể lấy được từ nó. Mỏ vàng Toi, Nhật Bản. 
Vàng được tìm thấy trong quặng được tạo ra từ đá với các phần từ vàng 
rất nhỏ hay cực nhỏ. Quặng vàng này thường được tìm thấy cùng thạch 
anh hay các khoáng chất sulfide như Fool's Gold, vốn là 
một pyrite.[32] Chúng được gọi là "mạch" trầm tích. Vàng tự nhiên cũng có 
dưới hình thức các bông tự do, các hạt hay những quặng vàng lớn đã bị 
ăn mòn khỏi đá và kết thúc trong các trầm tích phù sa (được gọi là trầm 
tích cát vàng). Những loại vàng tự do đó luôn nhiều hơn tại bề mặt các 
mạch có vàng do ôxi hoá các khoáng chất kèm theo bởi thời tiết, và việc 
rửa trôi bụi vào các con suối và dòng sông, nơi nó tụ tập lại và có thể được 
hoạt động của nước liên kết lại với nhau để hình thành nên các cục vàng. 
Vàng thỉnh thoảng phát sinh cùng với tellurium và các khoáng 
chất calaverite, krennerite, nagyagite, petzite và sylvanite, và như 
bismuthide hiếm maldonite(Au2Bi) and antimonide aurostibite (AuSb2). 
Vàng cũng phát sinh trong các hợp kim hiếm với đồng, chì, và thuỷ ngân: 
các khoáng chất auricupride (Cu3Au), novodneprite (AuPb3) và weishanite 
((Au, Ag)3Hg2). 
Recent research suggests that microbes can sometimes play an important 
role in forming gold deposits, transporting and precipitating gold to form 
grains and nuggets that collect in alluvial deposits.[33] 
Các đại dương trên Trái đất có chứa vàng. Lượng tập trung vàng ước tính 
trong Đại Tây Dương và Đông Bắc Thái Bình Dương là 50–150 fmol/L hay 
10-30 phần trên triệu luỹ thừa bốn. Nói chung, những tập trung vàng trong 
các mẫu của Đại Tây Dương và Thái Bình Dương là tương đương (~50 
fmol/L) nhưng ít chắc chắn. Những vùng nước sâu Địa Trung Hải có lượng 
tập trung vàng lớn hơn (100–150 fmol/L) vì bụi do gió thổi và/hay các con 
sông. Ở mức 10 phần trên triệu luỹ thừa bốn các đại dương của Trái đất sẽ 
chứa 15,000 tấn vàng[34]. Những con số này nhỏ bằng một phần ba số ước 
tính trong tài liệu trước năm 1988, cho thấy các vấn đề với dữ liệu trước 
đó. 
Một số người đã tuyên bố có khả năng khai thác vàng một cách kinh tế 
từ nước biển, nhưng tất cả họ đều hoặc gặp sai lầm hoặc gian lận. Một 
người được gọi là đáng tôn kính là Prescott Jernegan đã cho hoạt động 
một chiếc máy khai thác vàng ở Hoa Kỳ trong những năm 1890. Một 
fraudster người Anh cũng có một chiếc máy tương tự ở Anh đầu những 
năm 1900.[35] Fritz Haber (nhà phát minh người Đức với quy trình Haber) 
đã nghiên cứu việc tách vàng từ nước biển trong một nỗ lực giúp 
nước Đức bồi thường chiến phí sau Thế chiến Dựa trên các giá trị được 
công bố 2 tới 64 ppb vàng trong nước biển một sự tách vàng một cách 
thương mại khỏi nước biển dường như có thể thành công. Sau những 
phân tích 4000 mẫu nước biển với hàm lượng trung bình 0.004 ppb mọi 
việc trở nên rõ ràng rằng việc tách vàng sẽ không thể trở thành hiện thực 
và ông đã ngừng dự án.[37] Không một cơ cấu thương mại thực sự nào cho 
việc tách vàng từ nước biển đã từng được xác nhận. Tổng hợp 
vàng không có tính kinh tế và dường như cũng sẽ luôn như vậy trong 
tương lai 
 Specimens of native gold 
 
"Dây vàng" từ Sông Lena, Cộng hoà Sakha, Nga. Kích thước: 
2.5×1.2×0.7 cm. 
 
Vàng kết tinh từ Mina Zapata, Santa Elena de Uairen, 
Venezuela. Kích thước: 3.7×1.1×0.4 cm. 
 
Vàng lá từ Mỏ Harvard, Jamestown, California, USA. Kích 
thước 9.3×3.2× >0.1 cm. 
Sản xuất 
Bài chi tiết: Tìm kiếm vàng, Khai thác vàng, và Mỏ vàng 
Khuynh hướng khai thác vàng của thế giới 
Sản lượng vàng năm 2005 
Lối vào mỏ vàng ngầm dưới đất tại Victoria, Úc 
Vàng nguyên chất kết tủa được sản xuất bởi quá trình luyện nước cường 
toan 
Khai thác vàng có tính kinh tế nhất khi thực hiện tại các mỏ lớn, có trầm 
tích dễ khai thác. Các cấp quặng thấp ở mức 0.5 mg/kg (0.5 phần trên 
triệu, ppm) có thể có tính kinh tế. Các cấp quặng thông thường tại các 
mỏ lộ thiên là 1–5 mg/kg (1–5 ppm); các cấp quặng ngầm dưới đất hay 
mỏ đá cứngthường ít nhất đạt 3 mg/kg (3 ppm). Bởi phải có các cấp quặng 
30 mg/kg (30 ppm) để vàng có thể được quan sát bằng mắt thường, tại 
hầu hết các mỏ vàng không thể được nhìn thấy. 
Từ những năm 1880, Nam Phi đã là một nguồn chiếm tỷ lệ lớn nguồn cung 
vàng thế giới, với khoảng 50% tất cả lượng vàng từng được sản xuất có 
nguồn gốc từ Nam Phi. Sản lượng năm 1970 chiếm 79% nguồn cung thế 
giới, sản xuất khoảng 1,480 tấn. Sản lượng năm 2008 là 2,260 tấn. Năm 
2007 Trung Quốc (với 276 tấn) đã vượt qua Nam Phi trở thành nước sản 
xuất vàng lớn nhất, lần đầu tiên từ năm 1905 mất ngôi vị số một.[38] 
Thành phố Johannesburg ở Nam Phi đã được thành lập sau Cuộc đổ xô đi 
tìm vàng Witwatersrand dẫn tới sự phát hiện một trong những trầm tích 
vàng lớn nhất thế giới từng có. Các mỏ vàng nằm trong châu thổ các 
tỉnh Free State và Gauteng rộng về strike and dip đòi hỏi một trong những 
mỏ sâu nhất thế giới, với các mỏ Savuka và TauTona hiện là những mỏ 
vàng sâu nhất thế giới với độ sâu 3,777 m. Cuộc chiến tranh Boer lần thứ 
hai giai đoạn 1899–1901 giữa Đế chế Anh và người Boer Afrikaner ít nhất 
một phần vì các quyền khai mỏ và sở hữu các mỏ vàng ở Nam Phi. 
Các nhà sản xuất vàng lớn khác gồm Hoa Kỳ, Australia, Nga và Peru. Các 
mỏ ở Nam Dakota và Nevada cung cấp hai phần ba lượng vàng sử dụng 
tại Hoa Kỳ. Ở Nam Mỹ, dự án Pascua Lama gây tranh cãi có mục tiêu khai 
thác các mỏ vàng giàu trữ lượng tại những dãy núi cao ở Sa mạc 
Atacama, tại biên giới giữa Chile và Argentina. Ngày nay một phần tư sản 
lượng vàng thế giới ước tính có nguồn gốc từ các mỏ vàng khai thác thủ 
công hay mỏ cỡ nhỏ.[39] 
Sau khi sản xuất ban đầu, vàng thường được tinh chế theo cách công 
nghiệp bằng quá trình Wohlwill dựa trên điện phân hay bằng quá trình 
Miller, khử clo cho dung dịch. Quá trình Wohlwill mang lại độ tinh khiết cao 
hơn, nhưng phức tạp hơn và thường áp dụng cho các cơ sở quy mô 
nhỏ.[40][41] Các phương pháp khác để phân tích và tinh luyện vàng gồm thủy 
phân và tách bạc cũng như phương pháp cupell, hay các phương pháp 
tinh luyện dựa trên việc hoà tan vàng trong aqua regia.[42] 
Ở thời điểm cuối năm 2006, ước tính tất cả lượng vàng từng được khai 
thác là 158,000 tấn[43] và trong ấn bản tháng 1 năm 2009 của 
mình, National Geographic viết: "Trong toàn bộ lịch sử, chỉ 161,000 tấn 
vàng đã được khai thác, chỉ đủ để lấp đầy hai bể bơi dùng trong Olympic." 
Nó có thể được thể hiện bằng một khối với chiều dài cạnh khoảng 20.28 
mét. Giá trị của nó rất hạn chế; với giá $1000 trên ounce, 161,000 tấn vàng 
sẽ chỉ có giá trị 5.2 nghìn tỷ dollar. 
Trung bình chi phí để khai thác vàng khoảng US$317/oz năm 2007, nhưng 
nó có thể khác biệt rất lớn phụ thuộc vào kiểu mỏ và chất lượng quặng; 
sản lượng sản xuất tại các mỏ toàn cầu đạt 2,471.1 tấn.[44] 
Vàng rất ổn định và có giá trị tới mức nó luôn được thu lại và tái sử dụng. 
Không có việc tiêu thụ vàng thực sự theo nghĩa kinh tế; việc lưu giữ vàng 
vẫn là điều thiết yếu khi quyền sở hữu chuyển từ bên này qua bên khác.[45] 
Tiêu thụ 
Ấn Độ là nước tiêu thụ vàng nhiều nhất thế giới, người Ấn Độ mua khoảng 
25% lượng vàng của thế giới,[46] xấp xỉ 800 tấn mỗi năm. Ấn Độ cũng là 
nhà nhập khẩu kim loại vàng; năm 2008 Ấn Độ nhập khẩu khoảng 400 tấn 
vàng.[47] 
Hoá học 
Dù vàng là một kim loại quý, nó hình thành nhiều hợp chất. Số oxi hóa của 
vàng trong các hợp chất của nó thay đổi từ −1 đến +5, nhưng Au(I) và 
Au(III) là hoá hợp phổ biến nhất. Au(I), thường được gọi là aurous ion, là 
tình trạng ôxi hoá phổ biến nhất với các ligand mềm như 
các thioether, thiolate, vàphosphine ba. Các hợp chất Au(I) đặc trưng 
linear. Một ví dụ điển hình là Au(CN)2−, là hình thức hoà tan của vàng trong 
khai mỏ. Đáng ngạc nhiên, các phức hợp nước khá hiếm. Các vàng 
halogen hai, như AuCl, tạo nên các dãy polyme zíc zắc, một lần nữa thể 
hiện sự phối hợp dãy tại Au. Đa số thuốc dựa trên vàng là các dẫn xuất 
Au(I).[48] 
Au(III) (auric) là một tình trạng ôxi hoá phổ biến và được thể hiện 
bởi gold(III) chloride, AuCl3. Các nhóm Au(III), như các hợp chất d8 khác, 
nói chungsquare planar. 
Aqua regia, một hỗn hợp 1:3 gồm nitric acid và hydrochloric acid, hoà tan 
vàng. Nitric acid ôxi hoá kim loại tới +3 ions, nhưng chỉ với những khối 
lượng nhỏ, thường không thể phát hiện trong acid tinh khiết bởi trạng thái 
cân bằng hoá học của phản ứng. Tuy nhiên, các ion bị loại bỏ khỏi trạng 
thái cân bằng bởi hydrochloric acid, hình thành các inon AuCl4−, 
hay chloroauric acid, vì thế cho phép sự tiếp tục ôxi hoá. 
Một số halogen tự do phản ứng với vàng.[49] Vàng cũng phản ứng với các 
dung dịch alkaline của potassium cyanide. Với thuỷ ngân, nó hình thành 
mộtamalgam. 
Các tình trạng ôxi hoá ít phổ thông khác 
Các tình trạng ôxi hoá ít phổ thông của vàng gồm −1, +2, và +5. 
Tình trạng ôxi hoá −1 xảy ra trong các hợp chất có chứa Au− anion, được 
gọi là aurides. Ví dụ, Caesium auride (CsAu), kết tinh trong caesium 
chloride motif.[50] Các auride khác gồm các auride củaRb+, K+, và 
tetramethylammonium (CH3)4N+.[51] 
Các hợp chất vàng (II) thường nghịch từ với các liên kết Au–Au như 
[Au(CH2)2P(C6H5)2]2Cl2. Sự bay hơi của một dung 
dịch Au(OH)3 trong H2SO4 cô đặc tạo ra các tinh thể đỏ của vàng(II) 
sulfate,AuSO4. Ban đầu được cho là một hợp chất có hoá trị kết hợp, nó đã 
được chứng minh có chứa một số cation Au24+.[52][53] Một hỗn hợp vàng(II) 
đáng chú ý, và chính thống là tetraxenonogold(II)cation, có 
chứa xenon nh
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 vang_9028.pdf vang_9028.pdf