MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 2
I. Lý luận chung. 2
1. Khái niệm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong luật Dân sự. 2
2. Lý luận về xác định thiệt hại. 2
II. Xác định thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm. 3
1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. 3
2. Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. 11
III. Thực trạng giải quyết các vụ án về bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm. 19
IV. Giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng những giải pháp khác để nâng cao chất lượng xét xử về bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm. 20
KẾT LUẬN 21
Danh mục tài liệu tham khảo .22
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3662 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật đã quy định người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền nhất định gọi là tiền bồi dưỡng cho nạn nhân.
Về mức bồi thường: Luật không quy định cụ thể nhưng trên thực tiễn xét xử nhiều vụ án thì việc xác định mức bồi dưỡng căn cứ vào mức độ, tính chất của thương tích cũng như dựa trên mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi nạn nhân đang điều trị thương tích. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xác định khoản tiền bồi dưỡng phù hợp với tính chất của việc nhằm đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ.
Theo quy định tại Điều 612 BLDS, thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được xác định: “Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến khi chết”. Như vậy, người mất khả năng lao động do bị gây thiệt hại về sức khỏe được nuôi dưỡng suốt đời.
Khoản chi phí hợp lý cho việc phục hồi chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị hại. Trong trường hợp người bị hại do xâm phạm sức khỏe mà dẫn đến thương tật thì người gây thiệt hại phải bồi thường khoản chi phí cho việc phục hồi, trợ giúp chức năng như chân giả máy trợ nghe...
Tuy nhiên, những chi phí này cũng chỉ được xác định ở mức hợp lý tức là dựa trên cơ sở giá thị trường của công cụ có chất lượng trung bình đủ đảm bảo cho việc sử dụng khôi phục chức năng của nạn nhân.
Như vậy, việc xác định thiệt hại kể trên cần đảm bảo tính khách quan và hợp lý. Mọi thiệt hại đưa ra đều phải có cơ sở thực tế và chứng từ, hóa đơn hợp lệ thì mới chấp nhận bồi thường.
1.2 Thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại.
Thu nhập thực tế được hiểu là khoản thu nhập chính đáng có thể biết chắc chắn thu được nhưng không thu được do sức khỏe bị xâm hại bao gồm: thu nhập chính và thu nhập phụ thường xuyên.
Trên thực tế phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút do sức khỏe bị xâm phạm thường là những thu nhập có được là do lao động như: tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp.
Đây được coi là một phần thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bởi chính việc gây thiệt hại cho sức khỏe nạn nhân dẫn tới hậu quả người đó mất đi khoản thu nhập mà đáng lẽ họ được hưởng nếu không có sự kiện gây thiệt hại Theo Nghị quyết số 03/2006/NĐ-HĐTP ngày 8 tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chúng ta thấy rằng:
Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.
- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS.
Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau:
Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.
Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định như đã trình bày ở phần trên. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.
1.3 Xác định chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
Đây cũng được coi là thiệt hại phát sinh gián tiếp từ sự kiện gây thiệt hại. Vì vậy cần phải xác định để tính vào thiệt hại được bồi thường nhằm đảm bảo quyền lợi cho gia đình người bị hại.
Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.
Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.
- Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.
- Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.
1.4 Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ngoài những thiệt hại nêu trên, trong trường hợp: “Người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lí cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng”.
BLDS và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định cụ thể thế nào là mất khả năng lao động. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định trong Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề tai nạn lao động thì có thể hiểu mất khả năng lao động là trường hợp người bị thiệt hại có tỷ lệ thương tật từ 81% trở lên. Với tỷ lệ thương tật như vậy thì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt hàng ngày và thậm chí nạn nhân không thể tự mình phục vụ những nhu cầu thiết yếu cho bản thân. Vì vậy, trong trường hợp cần có người thường xuyên chăm sóc thì người gây thiệt hại phải bồi thường những chi phí hợp lí cho việc chăm sóc đó như tiền công chăm sóc cho người chăm sóc nạn nhân.
Ngoài ra, do những tổn hại về sức khỏe mà nạn nhân không còn khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân, gia đình. Đây là một khó khăn và thiệt thòi rất lớn không chỉ đối với bản thân nạn nhân mà còn cho cả những người đang được nạn nhân cấp dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo cho cuộc sống bình thường của những người này, bên cạnh việc bồi thường cho những thiệt hại khác thì người gây thiệt hại còn phải thực hiện cấp dưỡng hàng tháng cho họ.
1.5 Xác định thiệt hại về tinh thần.
Khoản 2 Điều 609 BLDS quy định: “Người xâm phạm sức khỏe của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.
Tổn thất về tinh thần trong trường hợp sức khỏe bị xâm phạm được hiểu là sự đau đớn về thể xác, sự lo lắng suy sụp về tinh thần của người bị hại đối với tình trạng sức khỏe của mình. Khác với những thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần là những tổn thất trừu tượng không thể xác định được một cách chính xác. Vì vậy, luật không quy định một khoản bồi thường cố định mà tùy vào từng trường hợp cụ thể Tòa án xác đinh mức bồi thường cho phù hợp, căn cứ vào một số yếu tố sau đây:
- Dựa vào mức độ, tính chất thương tích của nạn nhân. Thông thường sự thiệt hại về sức khỏe càng nghiêm trọng thì mức độ tổn thất về tinh thần càng lớn. Ngược lại đối với những thương tích nhỏ, ảnh hưởng không lớn đến sức khỏe cũng như khả năng lao động….thì sự tổn thất về tinh thần thường không đáng kể hoặc khồng cần đặt ra.
- Dựa vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế cũng như vai trò của người bị hại trong gia đình. Trường hợp gia đình nạn nhân rất khó khăn về kinh tế mà nạn nhân lại đóng vai trò trụ cột trong gia đình, là người có thu nhập củ yếu thì thiệt hại xảy ra sẽ gây áp lực lớn về tinh thần đối với nạn nhân hơn là trường hợp nạn nhân không có nghề nghiệp và sống dựa vào gia đình.
- Việc xác định tổn thất về tinh thần còn phải dựa vào mối quan hệ giữa tính chất của những thương tích và đặc điểm nhân thân của người bị thiệt hại như: độ tuổi, giới tính, vị trí xã hội, nghề nghiệp…Bởi những yếu tố này sẽ phản ánh sự tác động tích cực trực tiếp của những thiệt hại về vật chất đối với đời sống tinh thần nội tâm của họ.
Ví dụ: như một cầu thủ bóng đá bị gây thương tích ở chân và làm cho đôi chân bị tật và không đá bóng được nữa thì sự đau đớn sẽ lớn hơn trường hợp người bình thường cùng tình huống.
Nhìn chung, những tổn thất về tinh thần là hoàn toàn trừu tượng và việc xác định nó chỉ mang tính chất tương đối trên cơ sở xem xét một cách toàn diện vấn đề và ra quyết định cho hợp lý. Như vậy, sức khỏe con người là vốn quý và thiệt hại về sức khỏe, thể chất là không thể bồi thường được. Tuy nhiên, những thiệt hại phát sinh từ việc sức khỏe bị xâm phạm chỉ có thể xác định được và người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bù đắp những tổn thất, mất mát đó.
2. Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm.
Tính mạng là thứ quý giá nhất của mỗi con người. Khi tính mạng của một người bị xâm phạm sẽ để lại mất mát rất lớn đối với chính họ và những người thân của họ nên khó có thể định giá được thành tiền để bồi thường. Thế nhưng, việc bồi thường bằng tiền cũng là một biện pháp để khắc phục hậu quả và bù đắp những tổn thất về vật chất cũng như tinh thần cho người bị thiệt hại và gia đình họ.
Về mặt dân sự, người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân và những tổn thất về tinh thần và vật chất phát sinh từ những hành vi gây thiệt hại. Tuy nhiên, việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm để quyết định mức bồi thường là không đơn giản.
Theo quy định tại Điều 610 BLDS thì thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
● Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;
● Chi phí hợp lý cho viêc mai táng;
● Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
● Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại …
2.1 Chí phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết.
2.1.1 Chi phí cho việc cứu chữa.
Cũng giống như trường hợp sức khỏe bị xâm phạm, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa người bị hại trước khi chết là những khoản mà người gây thiệt hại phải bỏ ra để cứu chữa bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết.
Theo đó, chi phí phù hợp và cần thiết để cứu chữa cho nạn nhân bao gồm:
- Chi phí cấp cứu, phẫu thuật, xét nghiệm;
- Tiền viện phí, thuốc men trong thời gian điều trị.
- Tiền khám bệnh, chăm sóc sức khỏe trước khi người bị thiệt hại chết.
- Chi phí cho việc đi lại, cứu chữa và khám bệnh của nạn nhân.
Tất cả những chi phí trên được xác định dựa trên cơ sở hóa đơn, chứng từ hợp lệ theo chỉ dẫn của bác sỹ hoặc yêu cầu của bệnh viện, cơ quan trực tiếp cứu chữa cho nạn nhân. Ngoài ra, những trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan bên ngoài, việc cứu chữa nạn nhân cần nhanh chóng mà phải điều trị tại chỗ thì mọi chi phí cũng cần có sự xác nhận trực tiếp của người trực tiếp cứu chữa.
Những yêu cầu trên nhằm giúp cho việc xác định thiệt hại được thực hiện một cách khách quan và hợp lý. Tránh trường hợp gia đình người bị hại lợi dụng việc cứu chữa mà gây khó khăn.
2.1.2 Chi phí hợp lý cho việc bồi dưỡng, chăm sóc sức khỏe người bị thiệt hại trước khi chết.
Chi phí hợp lý cho việc bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm chi phí hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.
Mức tiền bồi dưỡng, chăm sóc cho người bị hại trước khi chết được xác định căn cứ vào mức độ, tính chất của thương tích cũng như dựa trên mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi nạn nhân đang điều trị thương tích. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xác định khoản tiền bồi dưỡng phù hợp với tính chất của các bên trong quan hệ về thời gian, khoản tiền bồi dưỡng được xác định phù hợp với thời gian nạn nhân điều trị trước khi chết.
Tóm lại, chi phí hợp lí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm:
- Chi phí cấp cứu, xét nghiệm, phẫu thuật thương tích.
- Chi phí thuốc men, tiền viện phí,
- Chi phí đi lại để cứu chữa cho nạn nhân.
- Tiền bồi dưỡng cho nạn nhân trong thời gian điều trị.
- Tiền công chăm sóc (nếu có) cũng như những khoản thu nhập thực tế bị mất của người nhà nạn nhân do phải nghỉ việc chăm sóc nạn nhân trước khi chết.
Việc xác định các thiệt hại kể trên cần phải đảm bảo được tính khách quan và hợp lý. Mọi thiệt hại đưa ra đều phải có cơ sở thực tế và chứng từ, hóa đơn hợp lệ thì mới được chấp nhận bồi thường.
2.2 Chi phí hợp lý cho việc mai táng người bị thiệt hai.
Chi phí hợp lý cho việc mai táng nạn nhân là khoản chi phí tương đối phức tạp. Nó phụ thuộc vào phong tục tập quán của từng địa phương. Vậy, như thế nào được gọi là hợp lý? Vấn đề này rất khó xác định bởi mỗi địa phương, mỗi vùng miền trên đất nước ta đều có những phong tục tập quán riêng cho người chết không chỉ vậy nó còn liên quan đến truyền thống đạo đức, tâm linh của dân tộc ta do đó khó có thể đưa ra một mức cố định. Mặt khác, tùy từng địa phương mà những chi phí cho việc mai táng là khác nhau. Trước kia Nghị quyết số 01/NQ- HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định như sau:
Việc xác định những chi phí hợp lý dựa trên từng trường hợp cụ thể để đảm bảo 2 yếu tố là chi phí cần thiết và chi phí phù hợp.
+ Chi phí cần thiết được nêu là những chi phí không thể thiếu trong một đám tang thông thường bao gồm:
- Tiền mua quan tài, khăn xô, vải liệm, hương hoa đèn nến, chi phí lập bàn thờ.
- Tiền thuê xe tang, chi phí cho việc chôn cất hay hỏa táng cho người chết.
- Tiền chè, thuốc tiếp khách…(với mức chi phí hợp lý và vừa phải)
+ Ngoài ra, tùy vào phong tục ở từng nơi mà xác định những khoản chi phí thực tế khác cho phù hợp với tục lệ mai táng ở nơi đó hay phù hợp với điều kiện cụ thể như:
- Chi phí cho việc xây mộ đối với việc mai táng ở nơi có phong tục cải táng.
- Chi phí thuê kèn, trống… cho đám tang.
- Tiền thuê nhà tang lễ, chi phí phục vụ tang lễ …nếu vì lý do nào đó mà phải cử hành tang lễ tại nhà tang lễ.
- Chi phí bảo quản xác, quần áo mới cho người chết. Tuy nhiên để đảm bảo tính hợp lý của những chi phí trên trong việc xác định phải dựa vào cơ sở thực tế như hóa đơn, chứng từ hợp lệ hay sự xác nhận của cơ quan nơi mai táng hoặc chính quyền địa phương. Đồng thời cũng không chấp nhận đối với những chi phí do việc tổ chức linh đình, vượt quá mức thông thường của địa phương đó.
Hiện nay theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-.HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có quy định về chi phí hợp lý cho việc mai táng người bị thiệt hại cụ thể như sau:
Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...
2.3 Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Tiền cấp dưỡng cho những người mà người người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng khi họ còn sống là khoản tiền mà người gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ thay nạn nhân để nuôi dưỡng người mà khi còn sống nạn nhân có nghĩa vụ phải cấp tiền nuôi dưỡng.
Khoản tiền cấp dưỡng này nhằm mục đích đảm bảo cho những người được cấp dưỡng có một cuộc sống tối thiểu như lúc nạn nhân còn sống cho đến khi họ trưởng thành hoặc có thu nhập tự nuôi sống bản thân đến khi họ chết…Mức bồi thường khoản tiền này có thể thay đổi theo yêu cầu của người gây thiệt hại hoặc người được hưởng khoản tiền cấp dưỡng này tùy thuộc vào sự thay đổi số lượng người được hưởng tiền cấp dưỡng. Như vậy, không phải mọi trường hợp xâm phạm đến tính mạng thì người gây thiệt hại đều phải bồi thường khoản tiền cấp dưỡng. Trong một số trường hợp sau khi nạn nhân chết một thời gian thì trách nhiệm này mới phát sinh.
Ví dụ: Trước khi nạn nhân chết thì người vợ nạn nhân đang mang thai được sáu tháng, ba tháng sau đứa trẻ mới ra đời. Như vậy, khi con nạn nhân ra đời thì người gây thiệt hại mới có trách nhiệm cấp dưỡng cho đứa trẻ.
Vấn đề đặt ra ở đây là đối tượng được hưởng tiền cấp dưỡng là ai? Việc xác định các đối tượng này trong nhiều trường hợp cũng rất phức tạp, bởi nhiều khi nó không phụ thuộc vào quan hệ huyết thống, ruột thịt cũng như thời hạn họ được người bị thiệt hại cấp dưỡng khi còn sống.
Đối tượng cấp dưỡng:
Theo pháp luật quy định thì người được hưởng tiền cấp dưỡng trong trường hợp nạn nhân chết là những người không có khả năng lao động và không có thu nhập hoặc thu nhập nhưng không đủ nuôi sống bản thân; được nạn nhân cấp dưỡng thường xuyên khi còn sống. Từ những quy định này có thể xác định đối tượng được hưởng khoản tiền cấp dưỡng là những người sau:
-Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng
- Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Về mức cấp dưỡng.
Có thể nói việc xác định mức cấp dưỡng là một vấn đề khó khăn và phức tạp nhất trong quá trình giải quyết vụ án về bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm song đây là một vấn đề quan trọng ảnh hướng lớn đến quyền lợi của những người liên quan.
Hiên nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn thống nhất về việc xác định mức cấp dưỡng. Tuy nhiên, qua tìm hiểu về lý luận cũng như thực tiễn xét xử các vụ án cụ thể của Tòa án thì việc xác định mức cấp dưỡng thông thường được thực hiện như sau:
Khoản 1 Điều 605 BLDS có quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại là thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ. Toàn bộ ở đây có nghĩa là thiệt hại đến đâu bồi thường đến đó. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi của thân nhân người bị hại thì việc xác định mức cấp dưỡng phải dựa trên mức thực tế mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng đang được hưởng trước khi người bị thiệt hại chết.
Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào Tòa án cũng giải quyết mức cấp dưỡng trên cơ sở mức cấp dưỡng thực tế của người bị thiệt hại vì những lý do khác nhau. Nhiều trường hợp trên thực tế, thu nhập của người bị thiệt hại khi còn sống là rất cao và mức cấp dưỡng cho người mà họ có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng cao. Vì vậy, nếu xác định thiệt hại dựa trên mức cấp dưỡng đó dẫn tới một hậu quả là trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người gây thiệt hại sẽ quá lớn, trong khi thời gian phải cấp dưỡng thường kéo dài. Do đó, bản án, quyết định dân sự khó đảm bảo tính khả thi trên thực tế.
Trong trường hợp này Tòa án cũng cần phải xem xét đến các quy định về bồi thường thiệt hại trong các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội để xác định mức bồi thường phù hợp. Việc xác định mức cấp dưỡng dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tuy ít nhiều có ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình người bị hại vì vậy việc bồi thường có thể không bù đắp được toàn bộ những thiệt hại thực tế mà họ phải gánh chịu nhưng nó đảm bảo được tính khả thi của bản án cũng như phù hợp với bản chất của nghĩa vụ cấp dưỡng.
Về thời gian hưởng cấp dưỡng.
Khoản 2 Điều 612 BLDS quy định: “Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây:
- Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi; trừ trường hợp người đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;
- Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết”.
Theo quy định BLDS thì người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa có hoặc chưa đủ năng lực hành vi. Chính vì vậy, họ chưa có đủ khả năng tự nuôi sống bản thân mình và bố mẹ là người phải nuôi dưỡng con cái cho đến khi trưởng thành. Trong trường hợp tính mạng của bố mẹ bị xâm phạm thì người gây thiệt hại có trách nhiệm thực hiện việc cấp dưỡng cho đến khi họ có đủ khả năng tự nuôi sống bản thân mình.
Riêng đối với những người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động như người bị liệt toàn thân hoặc người bị tàn tật bẩm sinh thì được hưởng cấp dưỡng cho đến khi chết.
Tuy nhiên, việc xác định đối tượng áp dụng, thời gian áp dụng cũng như mức cấp dưỡng của Tòa án không phải luôn cố định nhưng trên thực tế nếu có sự thay đổi nào khiến cho việc xác định đó không còn phù hợp nữa thì người gây thiệt hại cũng như người được hưởng áp dụng có thể đề nghị với Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền xem xét và thay đổi cho phù hợp.
2.4. Xác định tổn thất về tinh thần.
Khác với trường hợp sức khỏe bị thiệt hại, trong trường hợp thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm người phải gánh chịu những mất mát về tình cảm, tổn thất về tinh thần không phải là người bị thiệt hại mà là những người “thân thích, gần gũi của nạn nhân.
Tổn thất về tinh thần là một khái niệm mới chỉ được sử dụng từ khi BLDS 1995 ra đời và hiện nay tiếp tục được BLDS 2005 kế thừa. Khái niệm nay trừu tượng và khó xác định về mức bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể. Bởi vậy, nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại không thể áp dụng đối với khoản tổn thất này mà việc xác định chỉ ở mức tương đối. Vấn đề đặt ra trong trường hợp này thì Tòa án buộc người gây thiệt hại phải bồi thường, và mức bồi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.doc