Trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng kinh tế - Trình bày một vụ tranh chấp hợp đồng kinh tế trước tòa án và trách nhiệm của bên vi phạm

 Khái niệm và việc thực hiện hợp đồng kinh tế .

Khái niệm .

Cách thức thực hiện hợp đồng kinh tế .

1. Thực hiện đúng điều khoản số lượng .

2. Thực hiện đúng điều khoản về chất lượng hàng hóa hoặc công việc .

3. Thực hiện đúng điều khoản về thời gian giao nhận hàng hóa hoặc công việc .

4. Thực hiện đúng điều khoản về địa điểm, phương thức giao nhận hàng hóa .

5. Thực hiện đúng điều khoản về giá cả, thanh toán .

Phần B -

 I.

 

 

 

 

 

 II. Tìm hiểu các vấn đề liên quan đến trách nhiệm vật chất.

Trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế .

1. Khái niệm trách nhiệm vật chất .

2. Phân tích về các điều khoản liên quan đến trách nhiệm vật chất .

3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm vật chất .

4. Các hình thức trách nhiệm vật chất .

5. Một số qui định riêng đối với chế độ trách nhiệm trong hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh .

Trình bày một vụ tranh chấp hợp đồng kinh tế trước tòa án và trách nhiệm của bên vi phạm .

Kết luận .

 

doc17 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1702 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng kinh tế - Trình bày một vụ tranh chấp hợp đồng kinh tế trước tòa án và trách nhiệm của bên vi phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có giá trị lớn và thậm chí rất lớn, cho nên, để tránh tình trạng các chủ thể lợi dụng việc ký kết để chiếm đoạt cho bản thân nên chúng ta phải quy định hợp đồng kinh tế được ký kết bằng các văn bản. Hơn nữa, một hợp đồng kinh tế thường tương đối dài về mặt thực tế mà nói nếu không được thực hiện bằng các loại hình văn bản thì các chủ thể cũng có thể sẽ quên mất một trong một số những chi tiết nhỏ hay những điều khoản nếu có trong hợp đồng, gây thiệt hại cho các bên gặp khó khăn do việc thực hiện hợp đồng dẫn đến những tranh chấp đáng tiếc. II. Cách thức thực hiện hợp đồng kinh tế Thực hiện hợp đồng kinh tế là hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng nhằm làm cho các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng trở thành hiện thực. Thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết là nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế. Các đơn vị phải thực hiện nghiêm chỉnh những điều đã cam kết trong hợp đồng. Hợp đồng kinh tế được coi là thực hiện xong khi các bên hoàn thành đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Pháp luật hợp đồng kinh tế đã qui định nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện đúng các điều khoản của hợp đồng kinh tế: 1. Thực hiện đúng điều khoản số lượng Điều khoản về số lượng là một trong những điều khoản chủ yếu trong nội dung của hợp đồng kinh tế. Thực hiện đúng về số lượng tức là giao đầy đủ số lượng, trọng lượng hàng hóa, khối lượng công việc như đã thỏa thuận. Trong khi giao nhận, các bên phải tiến hành kiểm tra số lượng hoặc trọng lượng hành hóa bằng các phương pháp cân, đo, đong, đếm chính xác và lập biên bản giao hàng. Trong quá trình kiểm tra khi giao nhận, nếu các bên phát hiện ra sự thiếu hụt hàng hóa thì phải tìm nguyên nhân của sự thiếu hụt để quy trách nhiệm vật chất. Sản phẩm giao không đúng số lượng thì bên nhận chỉ được nhận và thanh toán theo số thực nhận, còn số sản phẩm thiếu thì bên giao phải giao tiếp sau đó. Đối với số sản phẩm được giao không đồng bộ và không sử dụng được thì bên nhận có quyền từ chối nhận và từ chối thanh toán sản phẩm hàng hóa, công việc cho đến khi hoàn thành đồng bộ. Trong trường hợp giao hàng hóa không đồng bộ, bên nhận được lựa chọn một trong hai cách xử lý sau: - Yêu cầu bên vi phạm phải hoàn thành đồng bộ sản phẩm, hàng hóa, công việc rồi mới nhận. Nếu phải chờ hoàn thành đồng bộ mà hợp đồng không được thực hiện đúng hạn thì bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại giống như trường hợp vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng. - Nhận sản phẩm hàng hóa chưa hoàn thành đồng bộ với điều kiện bên vi phạm chịu phạt vi phạm hợp đồng vì không hoàn thành đồng bộ và trả các chi phí cần thiết để hoàn thành đồng bộ. Các trường hợp giao hàng thiếu đều bị coi là vi phạm hợp đồng ở điều khoản số lượng và phải chịu trách nhiệm vật chất như qui định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. 2. Thực hiện đúng điều khoản về chất lượng hàng hóa hoặc công việc Điều khoản chất lượng cũng là một điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế. Điều khoản này được thỏa thuận dựa trên cơ sở các qui định về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước hoặc tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của các đơn vị đã đăng ký tại cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng Nhà nước có thẩm quyền. Các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng chất lượng hàng hóa công việc như đã thỏa thuận. Giao hàng đúng chất lượng có nghĩa là hàng được giao phải đảm bảo khả năng sử dụng (theo tiêu chuẩn chất lượng), đảm bảo đúng phẩm chất, bao bì, đóng gói, quy cách, chủng loại của sản phẩm của Nhà nước, của ngành, của đơn vị cơ sở hoặc theo sự thỏa thuận của các bên. Khi giao nhận, các bên phải tiến hành kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa, công việc. Trong trường hợp có sự vi phạm điều khoản này, bên bị vi phạm có quyền: - Hoặc không nhận sản phẩm hàng hóa, công việc không đúng chất lượng thỏa thuận, phạt vi phạm và đòi bồi thường thiệt hại giống như trường hợp không thực hiện hợp đồng. - Hoặc nhận sản phẩm hàng hóa công việc với điều kiện bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm về chất lượg hoặc phải giảm giá. - Yêu cầu sửa chữa sai sót về chất lượng trước khi nhận. Nếu trong thời gian bảo hành, bên nhận sản phẩm hàng hóa phát hiện ra hư hỏng của hàng hóa do lỗi của bên bảo hành thì bên bảo hành có nghĩa vụ phải sửa chữa các sai sót về chất lượng. Các bên có quyền thỏa thuận thay thế việc sửa chữa sai sót bằng cách giảm giá hoặc đổi lấy sản phẩm hàng hóa khác. 3. Thực hiện đúng điều khoản về thời gian giao nhận hàng hóa hoặc công việc Giao nhận hàng hóa hoặc công việc đúng thời gian là yếu tố quan trọng giúp các bên thực hiện đúng tiến độ kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Thời gian giao nhận hàng hóa có thể là thời hạn hoặc thời điểm nhất định do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng. Thời hạn giao hàng hóa hoặc công việc là khoảng thời gian nhất định mà trong khoảng thời gian đó, hàng hóa hoặc công việc phải được hoàn thành bàn giao, còn thời điểm là điểm thời gian cụ thể mà việc giao nhận được thực hiện. Khi có vi phạm điều khoản về thời gian thực hiện hợp đồng (trường hợp giao chậm) bên bị vi phạm hợp đồng có quyền: - Hoặc không nhận sản phẩm hàng hóa, công việc hoàn thành chậm trễ, bắt phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại như trường hợp không thực hiện hợp đồng. - Hoặc nhận sản phẩm hàng hóa, công việc hoàn thành chậm trễ và bắt phạt vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Trường hợp hoàn thành trước thời hạn, nếu trong hợp đồng không qui định bên nhận phải tiếp nhận trước thời hạn thì bên tiếp nhận có quyền chưa tiếp nhận hoặc tiếp nhận với điều kiện bên giao phải chịu các phí tổn bảo quản trong thời gian chưa đến thời điểm giao nhận qui định. Trường hợp bên giao thực hiện đúng thời hạn như thỏa thuận trong hợp đồng, bên nhận phải có nghĩa vụ tiếp nhận. Nếu không tiếp nhận sản phẩm hàng hóa, công việc đã hoàn thành đúng chất lượng và thời hạn theo hợp đồng kinh tế thì coi như đã vi phạm điều khoản về thời gian giao nhận. Trường hợp nhận chậm, bên bị vi phạm có quyền: - Bắt bên vi phạm chịu phạt vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận sản phẩm, hàng hóa, công việc đã hoàn thành theo đúng hợp đồng kinh tế. - Đòi bên vi phạm phải trả các chi phí chuyên chở, bảo quản và các thiệt hại khác do vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận. - Yêu cầu Tòa án kinh tế hoặc tổ chức trọng tài giải quyết để tránh các thiệt hại khác do vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận. 4. Thực hiện đúng điều khoản về địa điểm, phương thức giao nhận hàng hóa Địa điểm giao nhận hàng hóa hoặc lao vụ là nơi mà tại đó bên giao hàng thực hiện nghĩa vụ giao hàng của mình cho bên đặt hàng. Phương thức giao nhận là cách thức mà các bên tiến hành giao nhận hàng hóa. Địa điểm và phương thức giao nhận có thể do hai bên thỏa thuận phù hợp với điều kiện thực tế, thuận tiện và có lợi cho các bên. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau thì địa điểm và phương thức giao nhận phải theo các qui định của pháp luật đối với từng loại hợp đồng kinh tế. Nếu trong hợp đồng kinh tế không có sự thỏa thuận và không có qui định của pháp luật đối với loại hợp đồng kinh tế đó thì địa điểm giao nhận là kho chính của bên giao hàng, bán hàng và giao trên phương tiện vận chuyển của bên đặt hàng, mua hàng. Các bên có nghĩa vụ giao nhận hàng hóa hoặc lao vụ đúng địa điểm dù địa điểm đó do hai bên thỏa thuận hay do pháp luật qui định trước. Trường hợp giao hàng hóa không đúng địa điểm, bên vi phạm phải chịu những hình thức trách nhiệm vật chất theo qui định của pháp luật. 5. Thực hiện đúng điều khoản giá cả, thanh toán Các bên có quyền thỏa thuận về giá cả của hàng hóa hoặc lao vụ và ghi cụ thể vào hợp đồng kinh tế, thỏa thuận về nguyên tắc, thủ tục để thực hiện việc thay đổi giá khi có sự biến động giá cả thị trường trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế. Đối với sản phẩm hàng hóa do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã qui định giá thì thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với sự qui định đó, không bên nào có quyền gò ép giá hoặc nâng giá quá mức qui định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các bên có nghĩa vụ thanh toán cho nhau đúng giá cả qui định. Thanh toán theo hợp đồng là khâu cuối cùng kết thúc quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế. Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện theo phương thức và thời hạn thanh toán đã thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế. Nếu trong hợp đồng không ghi thời hạn trả tiền thì thời hạn đó là 15 ngày, kể từ ngày nhận được hóa đơn đòi tiền (chỉ được lập hóa đơn, giấy đòi tiền phù hợp với việc thực hiện từng phần hay toàn bộ hợp đồng kinh tế). Nghĩa vụ trả tiền được coi là hoàn thành từ khi chuyển đủ tiền trên tài khoản của mình tại ngân hàng cho bên đòi hoặc khi bên đòi tiền trực tiếp nhận được số tiền mặt theo hóa đơn. Ngoài ra, nghĩa vụ trả tiền cũng được coi là hoàn thành nếu bên trả tiền đề nghị và được bên đòi tiền chấp nhận trả bằng hiện vật hoặc tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, có giá trị tương đương với số tiền phải trả và việc trả hiện vật hoặc các tài sản đó đã thực hiện xong. Bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán bị phạt vi phạm hợp đồng. Mức phạt có thể bằng mức lãi suất tín dụng quá hạn theo qui định của pháp luật và phải chịu bồi thường thiệt hại cho bên kia số tiền lãi mà họ phải trả cho ngân hàng trên số tiền chưa được thanh toán. Trong trường hợp này số tiền phạt được tính căn cứ vào mức lãi suất tín dụng quá hạn nhân với thời gian chậm thanh toán, không giới hạn mức tối đa. Phần II Tìm hiểu các vấn đề liên quan đến trách nhiệm vật chất I. Trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế 1. Khái niệm trách nhiệm vật chất Khi hợp đồng kinh tế đã được ký kết và quan hệ hợp đồng kinh tế được thiết lập đúng pháp luật, các bên có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản đã cam kết. Nếu một bên nào có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia thì bên gây thiệt hại phải gánh chịu những hậu quả vật chất bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra. Việc gánh chịu này phải tuân theo các qui định của pháp luật về hợp đồng kinh tế. Về mặt khách quan, trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội giữa các chủ thể của hợp đồng kinh tế phát sinh do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế (theo nghĩa vụ này, người ta còn gọi là chế định trách nhiệm vật chất trong pháp luật hợp đồng kinh tế). Nội dung của trách nhiệm vật chất thể hiện ở hậu quả bất lợi mà pháp luật qui định cho bên vi phạm phải gánh chịu. Về mặt chủ quan, trách nhiệm vật chất được hiểu là sự gánh chịu hậu quả vật chất bất lợi của bên có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế. 2. Phân tích về các điều khoản liên quan đến trách nhiệm vật chất a. Các điều khoản liên quan đến phạm vi trách nhiệm vật chất - Quy định về phạm vi của trách nhiệm vật chất - Qui định về giới hạn của trách nhiệm vật chất - Qui định rõ về trách nhiệm b. Điều khoản liên quan đến bản chất của trách nhiệm vật chất Trách nhiệm có thể phát sinh khi một bên không làm tròn trách nhiệm của mình làm phá vỡ hợp đồng, hoặc phát sinh từ một sự kiện mà có thể kéo dài theo trách nhiệm ngoài hợp đồng. c. Điều khoản liên quan đến bản chất hay nguồn gốc của thiệt hại vật chất Nguyên nhân của thiệt hại có thể là: - Thiệt hại là kết quả của việc thực hiện chậm, thực hiện sai hay thực hiện không đầy đủ - Thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành vi vi phạm hợp đồng - Thiệt hại có thể thấy trước và thiệt hại không thể thấy trước - Thiệt hại do việc trì hoãn thực hiện - Thiệt hại do sai lầm trong việc thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ d. Điều khoản liên quan đến việc thay đổi điều khoản trách nhiệm - Điều khoản liên quan đến điều kiện khiếu nại gồm: + Nghĩa vụ kiểm tra hàng hóa trong một thời hạn nào đó, nếu sau thời hạn này thì không được khiếu nại + Nghĩa vụ thông báo những sai sót có thể thấy rõ được khi giao nhận hàng hay trong một thời hạn nào đó + Nghĩa vụ thông báo những sai sót không thấy rõ ngay và, hoặc thiệt hại phát sinh từ đó trong một thời hạn nhất định + Thời hạn đảm bảo hợp đồng + Nghĩa vụ gửi khiếu nại theo cách nhất định + Nghĩa vụ cung cấp những chứng cứ về các thiệt hại hay các khoản đền bù khác - Điều khoản liên quan đến việc thông báo trước: Các bên cũng cần qui định nghĩa vụ thông báo trước về những khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng, khả năng khắc phục những khó khăn đó cũng như yêu cầu đối tác cùng cộng tác khắc phục. Bên bị vi phạm cũng cần thông báo cho bên vi phạm biết về hành vi vi phạm của họ, yêu cầu giải quyết trong một thời hạn nhất định, trước khi áp dụng các chế tài qui định trong hợp đồng. - Điều khoản báo trước và việc sử dụng có giới hạn: Trong hợp đồng cần thiết phải qui định về cách sử dụng, vận chuyển hàng hóa một cách thích hợp để đề phòng những rủi ro có thể xảy ra. Trong trường hợp đặc biệt thì cũng cần phải có 1 điều khoản riêng qui định về điều này, cũng như qui định về loại trừ trách nhiệm trong trường hợp sử dụng hàng hóa sai quy cách. 3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm vật chất Trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế được áp dụng khi có những căn cứ nhất định. Giống như căn cứ phát sinh trách nhiệm vật chất trong một số quan hệ pháp luật khác, căn cứ phát sinh trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế bao gồm bốn căn cứ sau: - Có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế; - Có thiệt hại thực tế xảy ra; - Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế; - Có lỗi của bên vi phạm. Hành vi vi phạm là hành vi của một bên đã xử sự trái với những qui định của pháp luật hoặc trái với nội dung đã cam kết. Đó là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ những nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Có những hành vi vi phạm như vi phạm về số lượng hàng hóa (giao hàng thiếu, không đồng bộ), vi phạm về chất lượng (giao hàng không đúng chất lượng) vi phạm về thời gian (giao hàng chậm, nhận hàng chậm, thanh toán chậm), có những hành vi như trì hoãn ký kết hợp đồng, từ chối ký kết hợp đồng cũng được coi là những hành vi vi phạm (đối với trường hợp các bên ký kết hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh). Thiệt hại thực tế là những thiệt hại vật chất có thể tính toán được, không phải là những thiệt hại phi vật chất. Bên vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường cho bên bị vi phạm nếu hành vi vi phạm hợp đồng của mình có gây ra thiệt hại thực tế và chỉ phải bồi thường phần thiệt hại thực tế đó. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế được hiểu là giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra có mối quan hệ nội tại, tất yếu. Thiệt hại phát sinh là do kết quả tất nhiên của sự vi phạm, không có vi phạm thì không phát sinh thiệt hại. Trường hợp có hành vi vi phạm của một bên và bên kia có bị thiệt hại, nhưng thiệt hại này không phải do hành vi của bên vi phạm gây ra thì ở đây không có mối quan hệ nhân quả, bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với phần thiệt hại nói trên. Muốn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với bên vi phạm, bên bị vi phạm phải chứng minh được có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm của bên kia với thiệt hại thực tế xảy ra. Yếu tố lỗi là một căn cứ để áp dụng trách nhiệm pháp lý trong mọi trường hợp. Lỗi để áp dụng chế độ trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng kinh tế là lỗi suy đoán, nghĩa là khi một bên không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ hợp đồng trong khi có điều kiện để thực hiện được, thì đương nhiên bị coi là có lỗi. Như vậy phía bên kia không cần phải chứng minh lỗi mà chỉ cần chứng minh là bên đương sự đã không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ hợp đồng mà thôi (tức là co hành vi vi phạm). Khi có đầy đủ những căn cứ nói trên, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm vật chất. Tuy nhiên, trong trường hợp các bên ký kết hợp đồng chưa cần có thiệt hại thực tế xảy ra, bên có hành vi vi phạm đã phải gánh chịu trách nhiệm dưới hình thức phạt hợp đồng. Nói cách khác, không phải bất cứ hình thức trách nhiệm tài sản nào cũng cần phải có đủ bốn điều kiện trên. Để áp dụng chế tài phạt hợp đồng thì chỉ cần có hai điều kiện là đủ: có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm. Bên vi phạm hợp đồng được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong các trường hợp sau đây: a- Gặp thiên tai, địch họa và các trở lực khách quan khác không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp để khắc phục. b- Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền do Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban chống lụt bão Trung ương, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương ký. c- Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm, nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản trong các trường hợp a, b nói trên. d- Do vi phạm hợp đồng kinh tế của một bên là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự vi phạm hợp đồng kinh tế của bên kia. 4. Các hình thức trách nhiệm vật chất Khi vi phạm hợp đồng kinh tế, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm vật chất. Có hai hình thức trách nhiệm vật chất là phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Tiền phạt hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại là số tiền mà bên vi phạm phải lấy từ tài sản của mình trả cho bên bị vi phạm hợp đồng kinh tế. Đối với những hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh thì một khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng phải nộp vào ngân sách nhà nước. a. Phạt hợp đồng Phạt hợp đồng là một chế tài tiền tệ được áp dụng nhằm củng cố quan hệ hợp đồng kinh tế, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật hợp đồng kinh tế nói riêng, pháp luật quản lý kinh tế nói chung, đồng thời phòng ngừa vi phạm hợp đồng kinh tế. Chế tài phạt hợp đồng là một chế tài được áp dụng phổ biến đối với tất cả mọi trường hợp có hành vi vi phạm, bất kể đó là hành vi vi phạm điều khoản nào. Việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng không cần tính đến là hành vi vi phạm hợp đồng đã gây ra thiệt hại hay chưa. Tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế là số tiền mà bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm. Mức phạt vi phạm hợp đồng kinh tế do các bên thỏa thuận trong khung phạt đối với từng loại hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế theo qui định của pháp luật. Khung phạt được qui định chung đối với các loại hợp đồng kinh tế là từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm. Theo pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng, việc thỏa thuận về mức tiền phạt trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với khung phạt của từng loại hợp đồng kinh tế và từng loại vi phạm hợp đồng kinh tế. - Vi phạm về chất lượng: Phạt từ 3% - 12% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm về chất lượng. - Vi phạm về thời hạn thực hiện hợp đồng: Phạt 2% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm thời hạn thực hiện cho 10 ngày lịch đầu tiên, phạt thêm từ 0,5% đến 1% cho mỗi đợt 10 ngày tiếp theo cho đến mức tổng số các lần phạt không quá 8% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên. Nếu hoàn toàn không thực hiện hợp đồng đã ký thì bị phạt đến mức 12% giá trị hợp đồng. - Vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận sản phẩm, hàng hóa, công việc đã hoàn thành theo hợp đồng: Phạt 4% giá trị hợp đồng kinh tế đã hoàn thành mà không được tiếp nhận cho 10 ngày lịch đầu tiên và phạt thêm 1% cho mỗi đợt 10 ngày tiếp theo, cho đến khi tổng số các lần phạt không quá 12% giá trị phần hợp đồng đã hoàn thành và không được tiếp nhận ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên. - Vi phạm nghĩa vụ thanh toán: áp dụng mức phạt bằng mức lãi suất tín dụng quá hạn của ngân hàng nhà nước Việt Nam tính từ ngày hết hạn thanh toán. Số tiền phạt bằng mức lãi suất tín dụng quá hạn nhân với số tiền chậm trả nhưng với thời gian chậm trả, không giới hạn mức tối đa. Trong trường hợp pháp luật chưa có qui định mức phạt, các bên có quyền thỏa thuận về mức tiền phạt bằng tỷ lệ phần trăm giá trị phần hợp đồng bị vi phạm hoặc bằng một số tiền tuyệt đối. Riêng tiền phạt đối với trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh, pháp luật có qui định khác. b. Bồi thường thiệt hại Bồi thường thiệt hại cũng là một chế tài tiền tệ dùng để bù đắp những thiệt hại thực tế cho bên bị thiệt hại. Nếu như hình thức phạt hợp đồng với chức năng chủ yếu là trừng phạt, giáo dục và phòng ngừa thì bồi thường thiệt hại với chức năng chủ yếu là bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên bị vi phạm. Căn cứ phát sinh chế tài này là có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế và thiệt hại thực tế đó, có lỗi của bên vi phạm. Theo qui định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế, bên có hành vi vi phạm, chỉ phải bồi thường thiệt hại thực tế đã xảy ra, đó là những thiệt hại có thể tính toán được bao gồm: - Giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng bao gồm cả số tiền lãi phải trả cho ngân hàng (trong trường hợp bị vi phạm nghĩa vụ thanh toán), khoản thu nhập mà lẽ ra trong điều kiện bình thường (hợp đồng không bị vi phạm) thì bên bị vi phạm cũng sẽ thu được. - Các chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra (chi phí hợp lý và cần thiết) mà bên bị vi phạm đã phải chi. Bên bị vi phạm có nghĩa vụ phải chứng minh đã áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế thiệt hại ngay sau khi được biết có vi phạm. - Tiền phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm phải trả cho người khác do hậu quả trực tiếp của sự vi phạm hợp đồng gây ra. (Chỉ kể những hậu quả trực tiếp do vi phạm hợp đồng này dẫn đến sự vi phạm hợp đồng với người khác). Trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế và xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế, tòa án kinh tế và các bên có tranh chấp áp dụng các hình thức trách nhiệm vật chất nói trên tùy theo từng trường hợp cụ thể. 5. Một số qui định riêng đối với chế độ trách nhiệm vật chất trong hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh Việc áp dụng chế độ trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh cũng được thực hiện theo các hình thức trách nhiệm vật chất, bao gồm phạt hợp đồng và phạt bồi thường thiệt hại như đối với những hợp đồng kinh tế khác theo qui định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Bên bị vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, nếu không có sự thay đổi, đình chỉ thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp xảy ra vi phạm tiếp theo, bên vi phạm hợp đồng bị phạt hợp đồng như có sự vi phạm mới. Ngoài những qui định nói trên, bên vi phạm nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh còn phải nộp một khoản tiền vào ngân sách nhà nước. Việc ký kết hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh không chỉ là quyền của các bên mà còn là nghĩa vụ bắt buộc đối với Nhà nước, do đó Tòa án kinh tế có quyền phạt tiền đối với các đơn vị kinh tế khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh: - Trường hợp từ chối, trì hoãn ký kết hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh mà không có lý do chính đáng: Phạt 1% giá trị hợp đồng kinh tế. - Trường hợp ký hợp đồng kinh tế không đúng theo chỉ tiêu pháp lệnh mà không có lý do chính đáng: Phạt 1% giá trị phần hợp đồng kinh tế ký không đúng theo chỉ tiêu pháp lệnh. Số tiền phạt này nộp vào ngân sách nhà nước. II. Trình bày một vụ tranh chấp hợp đồng kinh tế trước tòa án và trách nhiệm của bên vi phạm Năm 1995 - 1996, Công ty liên doanh ô tô Việt Nam - Daewoo nay là Công ty ô tô Daewoo Việt Nam (VIDAMCO) có ký hợp đồng bán cho công ty TNHH Xây dựng - Giao thông Tân á (TANACO) 150 xe ô tô hiệu Daewoo theo phương thức trả chậm, với tổng số tiền là 2.695.000 USD (chưa tính tiền trả lãi góp). Cụ thể : Theo hợp đồng VID-TNC/95720 năm 1995, VIDAMCO bán cho TANACO 100 xe ô tô du lịch tổng trị giá 1.820.000 USD, thanh toán ngay 10%, số còn lại 1.683.000 USD được chia làm 6 tháng 1 lần trả chậm, bắt đầu từ ngày 17/10/1996 và hoàn thành việc thanh toán vào ngày 10/10/1998 ; Hợp đồng VID-TNC 961146 năm 1996, VIDAMCO bán cho TANACO 50 ô tô du lịch trị giá 825.000 USD, thanh toán trước 123.000 USD vào ngày 14/11/1996, số còn lại được chia làm 6 tháng 1 lần trả chậm và hoàn thành trước ngày 30/11/1999. Để đảm bảo việc trả nợ, Ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh (VP Bank) đã ký giấy bảo lãnh thanh toán. Thực hiện hợp đồng, VIDAMCO đã giao hàng đúng chủng loại, số lượng, chất lượng, thời gian và địa điểm. Nhưng ngược lại, TANACO lại cố tình chây ỳ, vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nợ VIDAMCO 1.795.972 USD (bao gồm cả tiền hàng và tiền phạt do chậm thanh toán). Theo ông tổng giám đốc VIDAMCO Jung In Kim, công ty đã nhiều lần yêu cầu TANACO thực hiện nghĩa vụ thanh toán dứt điểm các khoản nợ và VP Banhk thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán của mình. Nhưng cuối cùng mọi thiện chí giải quyết nợ nần bằng con đường hòa giải đều bị các đối tác khước từ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi và lợi ích chính đáng của mình, ngày 7/10/1998, VIDAMCO đã làm đơn khởi kiện ra Tòa Kinh tế, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu TANACO và VP Bank thực hiện nghĩa vụ của mình. Sau gần 2 năm nghiên cứu, xem xét tất cả các chứng cứ, cuối năm 2001, Tòa kinh tế Tòa án Nhân dân TP HCM đã ra bản án chấp nhận yêu cầu đòi nợ của VIDAMCO, buộc TANACO phải thanh toán cả tiền hàng và tiền lãi quá hạn do chậm thanh toán hai hợp đồng là 1.796.061 USD. Tuy phán quyết này chưa phù hợp với các tình tiết thực tế của vụ án, còn nhiều thiệt thòi cho công ty, nhưng VIDAMCO cũng cảm thấy tự t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0075.doc
Tài liệu liên quan