Trong khi dự đoán các dòng tiền chuyển vào các nước đang phát triển giảm vì tỉ lệ
GDP của nước nhận tiền sẽ giảm từ 1,8 xuống 1,6% trong năm 2009, mức độ suy giảm
của nước đó phụ thuộc đáng kể vào sự tiến triển của tỉ giá hối đoái. Sự chao đảo hiện
nay trong tỉ giá hối đoái song phương có ảnh hưởng lớn tới sự thay đổi dự tính trong
số tiền chuyển vào nước đó tính theo đồng nội tệ. Các động thái về tỉ giá hối đoái
trong tương lai cũng sẽ đóng một vai trò quan trọng.
Tình trạng suy thoái toàn cầu, suy giảm trong các hoạt động thương mại thế giới và
trong giá cả hàng hóa sẽ có một tác động to lớn đối với cán cân t ài khoản vãng lai.
Thặng dư ở Nhật và châu Âulần lượt tăng lên 240 tỉ USD và 180 tỉ USD trong năm
2009 do giá cả hàng hóa giảm và khối lượng thương mại thu hẹp dần. Mặc dù các điều
khoản thương mại của Mỹ có cải thiện, thâm hụt trong t ài khoản vãng lai dự đoán sẽ
tăng từ 770 tỉ USD năm2008 (5,4% GDP) lên 830 tỉ USD (chiếm 5,8% GDP) v ào
năm 2009. Sự suy giảm nhanh của thương mại thế giới tác động rất mạnh tới Mỹ: khối
lượng xuất khẩu dự tính sẽ giảm 2,6% vào năm 2009 trong khi khối lượng nhập khẩu
giảm 1,1%. Nói chung, thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước OECD có thu nhập
cao dự đoán sẽ thu hẹp lại từ 185 tỉ USD tới 375 tỉ USD.
40 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Triển vọng kinh tế , phát triển khoa học và công nghệ thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vào
năm 2008, so với 5% của 2 năm trước. Sự suy giảm tổng thể của Nhật Bản và Trung
Quốc làm giảm mức tăng trưởng xuất khẩu, tỷ lệ này đối với các nước Đông Á không
kể Trung Quốc giảm từ 10,5% trong năm 2006 xuống còn 4% trong năm 2008. Theo
đó, sản lượng chế tạo giảm từ 5% mức tăng trưởng năm 2007 xuống mức giảm như
vậy trong năm 2008. Tổng các luồng vốn giảm tới 1/3, xuống còn 64 tỷ$US cả năm tới
tháng 9/2008.
Triển vọng cho giai đoạn 2009 và 2010 vẫn rất mờ nhạt với tình trạng tồi tệ của môi
trường bên ngoài. Cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn cầu đã có ít tác động trực tiếp tới
khu vực, nhưng một số nước lại quá yếu để chống lại các hiệu ứng lan toả dưới dạng
các tác động lan truyền từ các công ty cao cấp, các luồng vốn giảm sút và các thị
trường cổ phiếu nội địa bị tuột dốc. Đặc biệt, đầu tư khu vực tư nhân đứng bên bờ rủi
15
ro. Mặc dù Trung Quốc chống đỡ các tác động của cuộc khủng hoảng khá tốt, nhưng
một số nước vẫn phải chịu sự suy giảm mạnh trong thương mại thế giới và có tình
trạng tài chính khó khăn hơn. Mặc dù xu hướng giảm của giá dầu và lương thực sẽ hỗ
trợ cho các vị trí đối ngoại và tạo ra một số cứu cánh để chống chọi với lạm phát, thì
chi tiêu đầu tư giảm sút sẽ góp phần làm giảm mạnh mức tăng trưởng của khu vực này
xuống 6,7% trong năm 2009. Quá trình hồi phục dần dần ở các thị trường nước ngoài
chính sẽ mang lại những động lực mới cho xuất khẩu và sản xuất và sẽ góp phần làm
phục hồi lại mức tăng trưởng ở khu vực này lên tốc độ 7,8% tới năm 2010.
Ở châu Âu và Trung Á, tăng trưởng sản xuất đạt mức 5,3% vào năm 2008, giảm
từ 7,1% năm 2007, mặc dù mức tăng trưởng vẫn duy trì được khá tốt trong nửa đầu
của năm. Mức tăng trưởng GDP nửa đầu năm ở Nga (7,8%), Ba Lan (6%), Thổ Nhĩ
Kỳ (5,8%),và Rumani (8,8%) là nhờ nhu cầu nội địa mạnh, đi đôi với giá dầu tăng cao
và doanh thu tài chính của các nước xuất khẩu hyđrôcácbon trong khu vực. Nhưng
trong năm 2009, các vị trí đối ngoại suy yếu và các rủi ro mới từ cuộc khủng hoảng
ngân hàng toàn cầu sẽ làm giảm triển vọng phát triển của các nước yếu và các rủi ro
sụt giá rất dễ sảy ra. Những sự lan truyền không có giới hạn đã diễn ra vào tháng
10/2008, đáng lưu ý ở Liên bang Nga và Thổ Nhĩ Kỳ, và đặc biệt ở Ucraina và
Cazaxtan.
Trong khi hầu hết các nước đều duy trì được động lực phát triển, đã xuất hiện sự
phân kỳ ở hiệu suất tăng trưởng: Latvia đang trong quá trình suy thoái, kinh tế Rumani
đang quá nóng, còn cộng hoà Kirgizia, Tajikistan và Mônđôva, là những nước nhận
được hỗ trợ của Ngân hàng thế giới, đang phải đối mặt với tác động của giá lương thực
tăng cao. Tình trạng này ở Nga chuyển dịch mạnh từ các quan ngại về tình trạng quá
nóng nội địa sang những lo ngại về khủng hoảng tài chính, vì giá cổ phiếu chao đảo
với những bất ổn ở các thị trường toàn cầu và giá dầu mỏ giảm.
Hầu hết các nước đều có mức tăng trưởng cầu nội địa mạnh, nhưng thương mại
ròng vẫn cản trở mức tăng trưởng. Đồng thời, mức tăng trưởng tín dụng nhanh chóng
và tăng lương đã khiến cho khu vực này trở nên yếu hơn đối với những tác động xấu ở
môi trường tài chính bên ngoài. Tổng quan trung hạn cho thấy một mức giảm mạnh
trong tăng trưởng khu vực xuống 2,7% vào năm 2009, bị chi phối bởi sự suy giảm đầu
tư do môi trường tài chính khó khăn và sự suy yếu rõ rệt ở cầu của thị trường xuất
khẩu. Tăng trưởng dự kiến đạt 5,0% vào năm 2010, khi các thị trường tín dụng ổn
đinh, áp lực lạm phát giảm và tăng trưởng của các thị trường bên ngoài phục hồi, mở
đường cho sự phục hồi của chi tiêu và xuất khẩu.
Các nước châu Mỹ La tinh và Caribê đã có 4 năm đạt mức tăng trưởng vững
mạnh, khi thặng dư tài khoản vãng lai, tích lũy dự trữ, và các chính sách cải tiến đã
hoạt động để kìm giữ các tỷ lệ lạm phát cơ bản, cải thiện chất lượng các hệ thống ngân
hàng, và tạo dựng các công cụ đệm để chống lại khủng hoảng tài chính dây truyền.
Tuy nhiên, trong năm 2008, lạm phát toàn phần tăng lên tương ứng với giá dầu mỏ và
lương thực tăng, và các nhà hoạch định chính sách ở các nước như Braxin và Chilê đã
16
tăng các tỷ lệ lãi suất. Các luồng vốn vào khu vực này bị giảm tới 45% trong khoảng
giữa tháng 1 và tháng 9/2008, so với cùng kỳ năm 2007. Sự suy giảm ở cầu bên ngoài
và ở các thị trường tài chính quốc tế, kết hợp với mức giảm gần đây của giá cả hàng
hoá, làm giảm mức tăng trưởng GDP từ 5,7% vào năm 2007 xuống 4,4% vào năm
2008.
Tốc độ phát triển chậm lại toàn cầu và thâm hụt ở các luồng vốn thể hiện các rủi ro
rõ ràng đối với mức tăng trưởng bền vững, đặc biệt là tạo áp lực lên đầu tư khu vực tư
nhân. Do giá hàng hoá tiếp tục giảm đi, một số nước xuất khẩu chính, đặc biệt là
Achentina, sẽ có thể có các thặng dư tài khoản vãng lai chuyển sang thâm hụt. Đối với
các nước khác, bao gồm Braxin và Mêxicô, độ sâu của sự suy thoái ở Mỹ và châu Âu
sẽ khiến xuất khẩu có tăng trưởng âm, còn nhập khẩu thu hẹp dần sẽ dẫn tới sự quay
trở lại của vị trí thặng dư.
Mức tăng trưởng GDP ở khu vực được cho là giảm xuống 2.1% trong năm 2009
trước khi tăng lại lên 4% vào năm 2010. Các sự kiện xảy ra ở từng nước cũng sẽ tạo ra
một thách thức: tình trạng ở một số nước Andean có xu hướng kém ổn định: Cộng hoà
Vênêzuêla vừa trải qua một đợt quốc hữu hoá nữa và mức tăng trưởng của nước này
có thể sẽ giảm từ 8,4% trong năm 2007 xuống 3,2% vào năm 2010; còn GDP của
Achentina có thể sẽ giảm từ 8,7% trong năm 2007 xuống 4% trong năm 2010, với mức
tăng trưởng 1,5% ở đáy khe năm 2009.
Các nước đang phát triển của vùng Trung Đông và Bắc Phi đã cho thấy một ví dụ
thú vị về sự phân hoá của các hiệu ứng do mức leo thang ở giá lương thực và dầu mỏ
toàn cầu gây ra. Ở các nền kinh tế xuất khẩu dầu lửa, mức tăng doanh thu của dầu lửa
và khí tự nhiên lên tới 200 tỷ USD đã củng cố cho mức tăng trưởng 5,8% trong năm
2008, giảm xuống từ 6,4% trong năm 2007. Mức tăng trưởng cầu nội địa chậm lại ở
nước Cộng hoà Hồi giáo Iran (nơi có mức tăng trưởng GDP giảm từ 7,8% xuống
5,6%) là yếu tố chủ chốt đối với diễn biến này. Ngoại trừ Iran, mức tăng trưởng giữa
các nước xuất khẩu dầu giảm xuống 5,9%.
Ở các nền kinh tế phân hoá hơn vốn phụ thuộc chặt chẽ vào nhập khẩu dầu lửa và
thực phẩm, xuất khẩu chậm lại trong năm 2008 do mức tăng trưởng trở nên chậm chạp
trong số các mô hình thương mại chủ chốt ở châu Âu và Mỹ. Nhưng sự phục hồi mạnh
mẽ ở Marốc sau trận hạn hán năm 2007 và hiệu suất kinh tế vững chắc tiếp diễn ở
Tuynidi và Jordan đã nâng mức tăng trưởng từ 3,8% lên 5,7%.
Các nước xuất khẩu dầu lửa của khu vực sẽ đối mặt với thách thức về thu nhập sụt
giảm trong năm 2009. Giá dầu lửa toàn cầu được dự đoán là giảm từ đỉnh trong tháng
7/2008 (đạt 145$/thùng) xuống dưới 80$ trong năm 2009. Tăng trưởng của các nước
xuất khẩu dầu lửa dự kiến giảm xuống 3,9% trong năm 2009. Mặc dù các nền kinh tế
của những nước này không dễ bị tác động mạnh bởi những tiến triển ở các thị trường
tài chính, nhưng một số nước phần nào cũng chịu những hiệu ứng lan toả từ những sự
phát triển này, bao gồm Libăng, Jordan và Cộng hoà Arập Ai cập. Hơn nữa, các thành
viên xuất khẩu dầu của Uỷ ban Hợp tác Vùng Vịnh có nguy cơ chịu tổn thất ở các vị
17
trí đầu tư quốc tế, làm tăng gián đoạn ở các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài gần đây
vào khu vực. Đối với các nền kinh tế nhập khẩu dầu lửa trong khu vực, giá năng lượng
giảm sẽ làm giảm chi phí nhập khẩu và mang lại một không gian dễ thở ở khía cạnh
lạm phát theo sau sự tăng ở giá trong nửa đầu năm 2008. Mức tăng trưởng đối với khu
vực sẽ khôi phục lên tốc độ 5,2% tới năm 2010 khi cầu nước ngoài phục hồi và giá
hyđrocácbon giảm tạo điều cho một giai đoạn ổn định hơn.
Mức tăng trưởng GDP của Nam Á giảm xuống mức dự đoán 6,3% vào năm 2008,
từ 8,4% vào năm 2007 và từ mức cao 9% kéo dài trong 25 năm cho tới năm 2006. Giá
lương thực và nhiên liệu cao, môi trường tín dụng quốc tế ngặt nghèo, cầu nước ngoài
giảm đã dẫn tới các tài khoản ngoài giảm đi và góp phần làm mức tăng trưởng đầu tư
chậm lại. Tuy nhiên, những dấu hiệu xấu ở các cán cân thương mại đã được bù đắp
phần lớn là nhờ luồng chuyển tiền về nước lớn, đặc biệt là đối với Băngladet, Nêpan
và Sri Lanka, nơi tiền chuyển từ nước ngoài về chiếm tới 8% GDP hoặc hơn. Các nhà
hoạch định chính sách phản ứng lại với giá hàng hoá cao và áp lực lạm phát tăng bằng
cách điều chỉnh từng phần giá nhiên liệu nội địa, cắt giảm chi tiêu phát triển, và (bước
đầu) thắt chặt chính sách tiền tệ.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang đặt áp lực giảm hơn nữa lên mức tăng
trưởng. Các luồng vốn vào giảm sút (xuống tới 40%, trong giai đoạn tháng 1-9/2008
so với cùng kỳ năm 2007, và các kỳ hạn tín dụng khắc nghiệt sẽ làm giảm đầu tư khu
vực tư nhân, trong khi các luồng chuyển tiền về giảm sút sẽ bổ sung áp lực lên mức
tăng trưởng. Trợ giá lương thực và nhiên liệu đã thúc đẩy phí tổn tài chính tăng cao,
làm đảo ngược tiến độ gần đây trong việc củng cố tài chính. Và những mức thâm hụt
ngày càng tăng đang thu hẹp phạm vi hỗ trợ cho các chương trình nhà nước khẩn cấp
khác, bao gồm cơ sở hạ tầng quá tải của khu vực. Mức tăng trưởng chậm lại rõ nhất ở
Ấn Độ và Pakistan, là những nước có sản xuất công nghiệp giảm mạnh còn xung
lượng sản xuất của Nam Á gần đây đã giảm từ mức đỉnh là 12% trong tháng 4/2008
xuống mức giảm 2% vào tháng 8.
GDP của Nam Á cũng được cho là giảm xuống 5,4% trong năm 2009 nhưng sẽ
phục hồi lên 7,2% vào năm 2010. Mức tăng trưởng vững chắc sẽ được hỗ trợ bởi cầu
nước ngoài cải thiện và giá hàng hoá thấp hơn.
Tăng trưởng của khu vực châu Phi cận Sahara, ngoại trừ Nam Phi, tăng một mức
đáng kể là 7% trong năm 2007, mức tăng cao nhất trong 35 năm qua, nhờ hiệu suất
vững chắc của cả các nước nhập khẩu lẫn xuất khẩu dầu lửa. Tăng trưởng của các
nước xuất khẩu dầu lửa tăng lên 8,2% trong năm 2007, vượt mức 5,5% đạt trong 5
năm qua; tăng trưởng của các nước nhập khẩu dầu lửa đã phá vỡ kỷ lục trong suốt 25
năm, đạt mức 5,4%. Những tiến bộ của GDP đã trở nên rộng hơn và ổn định hơn trong
những năm gần đây, đặc biệt là giữa các nước nhập khẩu dầu. Và một đặc điểm đáng
lưu ý và khuyến khích đối với hiệu suất gần đây của châu Phi là mức đóng góp ổn định
của đầu tư vào tăng trưởng chung của GDP.
Trong năm 2008, hoạt động kinh tế ngoài Nam Phi vẫn mạnh ở mức 6,6% khi các
mức tăng trưởng GDP giữa các nước sản xuất dầu giảm nhẹ xuống 7,8%, do kết hợp
với nhóm lớn hơn gồm các nước nhập khẩu dầu có mức tăng trưởng GDP giảm xuống
18
4,2% trong năm. Đầu tư tiếp tục hỗ trợ cho tăng trưởng GDP, trong khi xuất khẩu ròng
đang đóng góp vào mức tăng trưởng bất chấp mức suy giảm mạnh của thương mại
toàn cầu (hình1.20).
Mức tăng trưởng của khu vực được cho là giảm xuống 4,6% trong năm 2009, trước
khi đạt mức vững chắc ở 5,8% tới năm 2010 nhờ kết quả phục hồi của cầu nước ngoài.
Ngoại trừ Nam Phi, mức tăng trưởng được dự kiến giảm xuống 5,7% trong năm 2009
và tăng lên 6,6% trong năm 2010. Nhưng kịch bản này dự kiến chứa đựng những rủi
ro sụt giá mạnh. Nếu suy giảm toàn cầu chứng tỏ sâu hơn dự đoán, làm tăng thêm sự
suy giảm mạnh của mức tăng trưởng thương mại thế giới, thì phần đóng góp của xuất
khẩu ròng vào mức tăng trưởng GDP của châu Phi sẽ sụt giảm. Nhiều nước trong khu
vực đang trở nên yếu ớt hơn trong các giai đoạn biến động mạnh về thương mại, do giá
nhiên liệu và lương thực cao dẫn tới sự suy giảm vị trí đối ngoại trong những năm qua.
Giá nhiên liệu và lương thực cao cũng làm rộng thêm hố nghèo đói, làm tăng nguy cơ
bất ổn xã hội.
1.5. Thương mại thế giới
Khối lượng thương mại thế giới sẽ lần đầu tiên giảm trong năm 2009 kể từ năm
1982. Sự sụt giảm này phần lớn là do sự giảm mạnh về cầu, khi khủng hoảng kinh tế
toàn cầu tạo ra tình trạng suy thoái hiếm thấy xảy ra cùng một lúc ở các nước có thu
nhập cao và suy giảm mạnh ở các nước đang phát triển. Sự đổ vỡ tín dụng toàn cầu
đặc biệt có tác động tới đầu tư tư nhân, đây là yếu tố mang tính tuần hoàn nhất và là
yếu tố thương mại quốc tế lớn nhất trong GDP. Đồng thời đổ vỡ tín dụng làm hạn chế
nguồn vốn dành cho xuất khẩu. Một số bằng chứng đã cho thấy tín dụng của các ngân
hàng thương mại đang cạn kiệt dần và các khoản thu từ xuất khẩu ngày càng trở nên
khó đảm bảo hơn. Tương tự như vậy, các công ty xuất khẩu có thể cắt giảm việc xuất
hàng đi nếu khả năng tiếp cận với các dòng tín dụng bị hạn chế. Cuối cùng, cuộc
khủng hoảng này liên quan tới sự chao đảo mạnh và khó dự đoán trước của tỉ giá hối
đoái – một yếu tố làm cản trở hoạt động thương mại.
Các dấu hiệu suy giảm kinh tế trở nên rất rõ rệt ở một số thời điểm (tăng trưởng
trong nhu cầu nhập khẩu của Mỹ đã giảm vào năm 2005), tuy nhiên các dấu hiệu này
đang diễn biến với tốc độ chậm hơn so với trước đây, ví dụ như trong thời kỳ tuột dốc
vào năm 2001, khi tốc độ phát triển nhập khẩu giảm từ 15% xuống còn -5% trong
vòng một năm. Sự suy giảm từ từ hiện nay trong phát triển toàn cầu có nghĩa là một số
nước xuất khẩu đã có thời gian chuyển đổi sang các thị trường phát triển mạnh hơn so
ở các nước đang phát triển. Ví dụ như trong khi tỉ lệ của Mỹ trong khối lượng hàng
xuất khẩu của Ấn Độ giảm 17,1% năm 2004 xuống 15,3% năm 2007, tỉ lệ của Trung
Quốc trong hàng nhập khẩu của Ấn Độ tăng từ 5,5% lên 8,4%.
Ngoài ra, nhiều nước (trong đó có một số nước Mỹ Latinh) đã giảm lượng hàng
xuất khẩu bởi cầu của Mỹ thấp làm cho giá cả hàng hóa cao hơn. Hơn nữa, tác động
đối với khối lượng thương mại thế giới giảm nhẹ do tăng trưởng thương mại mạnh mẽ
19
giữa các khu vực ở Đông Á, phần lớn là do sự tiếp tục hội nhập của Trung Quốc vào
các thị trường toàn cầu. Tăng trưởng trong xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc
tiếp tục vượt mức 20% trong suốt hai năm qua, trong khi ngoài Trung Quốc, tăng
trưởng xuất khẩu vẫn mạnh.
Các nhân tố làm lắng dịu tình hình có vẻ như sẽ chưa được kích hoạt trong năm
2009. Sự suy giảm trong nhu cầu nhập khẩu ở những nước có thu nhập cao tăng lên,
chỉ một số ít các trung tâm phát triển có thể xuất hàng hóa trở lại, và giá cả hàng hóa
đang giảm dần. Do đó, các nước đang phát triển đang rơi vào trình trạng doanh thu từ
xuất khẩu giảm mạnh, tuy nhiên tình trạng này có thể chỉ mang tính tạm thời. Những
nước này với nguồn dự trữ không đủ duy trì nhập khẩu sẽ cần phải dựa vào sự kết hợp
giữa giảm giá tỉ giá hối đoái và phát triển chậm hơn để hạn chế lượng hàng nhập khẩu.
Các dòng tiền chuyển vào các nước đang phát triển, đạt khoảng 283 tỉ USD năm
2008, bắt đầu giảm nhẹ trong nửa cuối năm và dự đoán sẽ giảm mạnh vào năm 2009.
Khoản tiền thu được từ nước ngoài theo đồng nội tệ dự đoán sẽ giảm do tình hình suy
thoái ở các nền kinh tế công nghiệp, thu nhập thấp hơn ở các nước xuất khẩu dầu có
thu nhập cao và tăng trưởng chậm lại ở nhiều nước đang phát triển hiện đang là điểm
đến của những người nhập cư.
Trong khi dự đoán các dòng tiền chuyển vào các nước đang phát triển giảm vì tỉ lệ
GDP của nước nhận tiền sẽ giảm từ 1,8 xuống 1,6% trong năm 2009, mức độ suy giảm
của nước đó phụ thuộc đáng kể vào sự tiến triển của tỉ giá hối đoái. Sự chao đảo hiện
nay trong tỉ giá hối đoái song phương có ảnh hưởng lớn tới sự thay đổi dự tính trong
số tiền chuyển vào nước đó tính theo đồng nội tệ. Các động thái về tỉ giá hối đoái
trong tương lai cũng sẽ đóng một vai trò quan trọng.
Tình trạng suy thoái toàn cầu, suy giảm trong các hoạt động thương mại thế giới và
trong giá cả hàng hóa sẽ có một tác động to lớn đối với cán cân tài khoản vãng lai.
Thặng dư ở Nhật và châu Âu lần lượt tăng lên 240 tỉ USD và 180 tỉ USD trong năm
2009 do giá cả hàng hóa giảm và khối lượng thương mại thu hẹp dần. Mặc dù các điều
khoản thương mại của Mỹ có cải thiện, thâm hụt trong tài khoản vãng lai dự đoán sẽ
tăng từ 770 tỉ USD năm 2008 (5,4% GDP) lên 830 tỉ USD (chiếm 5,8% GDP) vào
năm 2009. Sự suy giảm nhanh của thương mại thế giới tác động rất mạnh tới Mỹ: khối
lượng xuất khẩu dự tính sẽ giảm 2,6% vào năm 2009 trong khi khối lượng nhập khẩu
giảm 1,1%. Nói chung, thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước OECD có thu nhập
cao dự đoán sẽ thu hẹp lại từ 185 tỉ USD tới 375 tỉ USD.
Thâm hụt của nước công nghiệp kém có tỉ lệ tương ứng trong thặng dư thấp hơn ở
các nước xuất khẩu dầu có thu nhập cao và ở những nước đang phát triển. Thặng dư tài
khoản vãng lai ở các nước đang phát triển sẽ giảm từ mức đỉnh cao đạt 500 tỉ USD
(3,7% GDP) năm 2007 xuống còn 333 tỉ USD (2% GDP) năm 2009. Trong khi thặng
dư của Trung Quốc (và của cả khu vực Đông Á) dự báo sẽ tăng lên, ở các khu vực
khác, thặng dư lại giảm hay nói cách khác thâm hụt ngày càng tăng lên.
Việc đánh giá tác động của tình trạng suy thoái toàn cầu đối với cán cân tài khoản
vãng lai có thể được xác định thông qua việc theo dõi các nước theo nhóm thương mại
20
sản phẩm sơ cấp (trừ Trung Quốc bởi vì thặng dư của nước này lớn - gần 400 tỉ USD
năm 2008 – vượt trội hơn hẳn so với sự phát triển của các nước nhỏ hơn). Giá dầu ước
tính giảm 26% và giá các hàng hóa khác giảm 23% sẽ làm thay đổi các điều khoản
thương mại có lợi cho các nước nhập khẩu thực phẩm và dầu, sau một khoảng thời
gian ít nhất 5 năm bị thất thoát liên tục. Đối với các nước đang phát triển xuất khẩu
dầu, nhu cầu giảm trên toàn thế giới sẽ làm giảm cả giá dầu và khối lượng hàng xuất
khẩu (dự tính sẽ giảm từ 5,1% năm 2008 xuống còn 0,3% năm 2009) và thặng dư tài
khoản vãng lai sẽ giảm từ mức đỉnh điểm 6,4% GDP năm 2008 xuống 1,4% năm
2009. Ngược lại, thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước đang phát triển xuất khẩu
cả dầu và thực phẩm giảm còn một nửa, từ mức đỉnh điểm 8,1% GDP năm 2008
xuống 4,3% năm 2009, do giá hàng hóa thấp hơn và khối lượng hàng hóa nhập khẩu
giảm mạnh từ 8,1% năm 2008 xuống 1,5% năm 2009. Tác động tới sự phát triển toàn
cầu này cần phải được giải quyết vào năm 2010 khi giá dầu đi vào ổn định, giá của các
mặt hàng khác chỉ giảm 4,3% và thương mại thế giới bắt đầu hồi phục.
Khủng hoảng tài chính là nguyên nhân chính dẫn đến những biến đổi bất thường
của tỉ giá hối đoái trong suốt mùa thu năm 2008. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới
đều mất giá so với đồng USD Mỹ và đồng yên Nhật, điều này phản ánh khu vực đầu tư
an toàn ở Mỹ. Chứng khoán kho bạc, sự đảo chiều của đồng yên nhờ các hoạt động
thương mại và chính sách tháo đòn bẩy của các ngân hàng, các công ty và các nhà đầu
tư. Không đồng tiền của nước đang phát triển nào được đánh giá cao so với đồng USD
hơn 0,5% trong suốt thời kỳ này. Trung bình, đồng tiền của các nước đang phát triển
đã giảm 15% so với đồng USD, và đồng tiền của nước có thu nhập cao cũng bị mất giá
(trừ Nhật Bản). Nói chung tình hình cạnh tranh của Mỹ, Nhật và Trung Quốc và những
nước có đồng tiền ổn định so với đồng USD cũng sẽ suy giảm; cạnh tranh với các
nước có đồng tiền bị sụt giá sẽ được cải thiện trên những thị trường này. Kết quả là,
việc thúc đẩy mạnh mẽ cho xuất khẩu ròng mang lại tăng trưởng cho Mỹ có vẻ yếu đi,
đồng thời xuất khẩu ròng sẽ hỗ trợ cho việc phục hồi tăng trưởng của nhiều nước đang
phát triển.
1.6. Các thị trường hàng hóa
Giá cả hàng hóa – có xu hướng tăng cao hơn kể từ năm 2003 – tiếp tục tăng mạnh
từ năm 2007 tới nửa đầu năm 2008. Đến giữa tháng 11, giá cả giảm mạnh, xóa bỏ tình
hình giá cả tăng cao của những tháng đầu năm 2008. Việc giảm giá bất ngờ này phản
ánh phản ứng truyền thống của thị trường hàng hóa đối với sự tăng trưởng chậm chạp
trên toàn thế giới tại thời điểm của sự bùng nổ khủng hoảng, sự suy giảm này bị thổi
phồng và càng mạnh hơn do khủng hoảng tài chính. Vào mùa hè năm 2008, giá năng
lượng tăng hơn 80% tính bằng đồng USD so với một năm trước, trong khi giá hàng
hóa khác chỉ cao hơn 35%.
Hầu hết tất cả giá cả hàng hóa khác ngoài giá năng lượng tăng lên trong suốt năm
2008 là ngũ cốc (hơn 60%), chất béo và dầu (hơn 34%) và phân bón (hơn 140%). Giá
21
kim loại, đã tăng mạnh từ năm 2003 tới năm 2008, đạt mức tăng đỉnh điểm 8% trong 6
tháng đầu năm 2008. Hầu hết giá các loại hàng hóa đều đạt mức cao nhất vào đầu và
giữa năm 2008, và tất cả các mặt hàng này lại giảm mạnh kể từ giữa năm. Giá dầu thô
giảm từ 143 USD/thùng vào đầu tháng 7 xuống dưới mức 50 USD/thùng vào giữa
tháng 11. Giá dầu thô giảm là do sự suy giảm cầu ở các nước thành viên OECD, việc
đánh giá cao đồng USD và do những vấn đề trong triển vọng về cầu ngay sau khi xảy
ra khủng hoảng tài chính. Giá dầu thô giảm mạnh cũng là nhân tố góp phần đáng kể
trong sự suy giảm giá cả của các mặt hàng khác bởi vì những thị trường này ngày càng
liên kết chặt chẽ với nhau thông qua chi phí sản xuất và sự phát triển của nhiên liệu
sinh học.
1.6.1. Sự suy giảm cầu của các nước có thu nhập cao dẫn tới giảm giá dầu
Nhu cầu dầu mỏ của các nước OECD đã giảm trong vòng 3 năm qua, chủ yếu là ở
Mỹ, điều này được phản ánh bởi hoạt động kinh tế phát triển chậm chạp và các tác
động của giá xăng dầu tăng cao làm tiêu dùng suy yếu. Cầu về dầu của Mỹ giảm 5,6%
trong suốt 10 tháng đầu năm 2008. Tiêu thụ xăng cũng giảm 3% khi người tiêu dùng
hạn chế đi lại và bắt đầu chuyển sang những phương tiện tiết kiệm năng lượng hơn.
Nhu cầu dầu cũng giảm ở châu Âu. Nói chung nhu cầu của các nước OECD dự tính
giảm hơn 2,2% trong suốt năm 2008 và gần 2% năm 2009. Cầu về xăng dầu ở các
nước đang phát triển và các thị trường mới nổi tiếp tục tăng khoảng 4%, nhu cầu lớn
nhất là ở châu Á và Trung Đông. Nhu cầu của khu vực Trung Đông cho tới gần đây
được thúc đẩy bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ở một số nước có trợ cấp đối với
nhiên liệu và do đó giá cả tiêu dùng thấp.
Các nhà sản xuất OPEC - miễn cưỡng phải tăng đáng kể sản lượng trong suốt giai
đoạn giá cả tăng vào nửa đầu năm 2008 - đã tăng cường sản xuất vào giữa năm, chủ
yếu ở Ả rập Xê-út, khi đơn phương đồng ý đẩy mạnh sản lượng vào tháng 6 lên 0,5
triệu thùng/ngày. Sản lượng của I-rắc lần đầu tiên đạt 2,5 triệu thùng/ngày kể từ năm
2001 do những cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng giảm xuống. Tuy nhiên, sự gia tăng
sản lượng ở khu vực vùng Vịnh một phần được bù đắp bởi sự suy giảm ở Nigiêria, nơi
xung đột dân sự tiếp tục ngăn cản khả năng cung ứng dầu khối lượng lớn.
Phản ứng về lượng cung ở các nước ngoài OPEC rất đáng thất vọng. Tuy nhiên,
cung cấp dầu mỏ của các nước ngoài OPEC bắt đầu tăng về số lượng tại một số khu
vực và dự tính sẽ tăng lên trong nửa cuối năm 2008 và trong suốt năm 2009-10.
Kết quả là nhu cầu giảm nhưng cung lại tăng, giá dầu dự đoán đạt trung bình
75USD/thùng trên danh nghĩa trong giai đoạn 2008-2010, phản ánh giá dầu giảm thực
sự hơn 30%.
1.6.2 Giá nhiều kim loại giảm sau khi nhu cầu thu hẹp lại
Giá của nhiều kim loại đã sụt giảm trong những tháng gần đây do sự tăng trưởng
chậm chạp trên toàn thế giới và triển vọng cung được cải thiện. Giá niken giảm hơn ba
phần tư từ mức cao nhất năm 2007, một phần là do những khó khăn trong các lĩnh vực
sản xuất ô tô và xây dựng. Giá cả giảm dưới mức chi phí cận biên của các nhà sản xuất
22
chi phí cao, và một số nhà máy phải đóng cửa và các dự án mới phải hoãn lại hoặc
phải xem xét lại. Giá kẽm cũng giảm gần bằng niken tính theo tỉ lệ phần trăm. Giá chì
giảm hơn 60% khi tình hình cung ứng tăng lên. Giá của các loại kim loại này dự tính
sẽ giảm hơn nữa khi các nguồn cung mới tiếp tục được bổ sung.
Đồng là một trong số ít kim loại có giá vẫn duy trì ở mức cao trong suốt nửa đầu
năm 2008 mặc dù nhu cầu có giảm đi, lượng cung lớn giảm do tình trạng đình công ở
khu vực Mỹ Latinh và các nguồn cung mới chậm đi vào hoạt động so với tiến độ giữ
cho giá đồng duy trì ở mức cao. Tuy nhiên giá đồng đã sụt giảm vào nửa cuối của năm
2008 vào thời điểm khủng hoảng tài chính và của môi trường kinh tế toàn cầu yếu
kém. Nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc kém hơn trong năm 2008 và tốc độ xây
dựng nhà ở trên toàn thế giới chậm lại góp phần to lớn trong sự suy giảm nhu cầu này.
Tuy nhiên, giá cả vẫn duy trì ở mức cao hơn chi phí sản xuất và dự đoán sẽ tiếp tục
giảm mạnh tới năm 2010 khi các nguồn cung mới tiếp tục được bổ sung.
Nhôm – một trong những kim loại chính có giá không thay đổi trong suốt thời kỳ
gần đây do tăng năng suất ở Trung Quốc – trở nên đắt đỏ hơn trong giai đoạn hiện nay
do nhu cầu trên thế giới vẫn cao và chi phí điện tăng, đây là một nguồn đầu vào chính
trong quá trình sản xuất nhôm. Tương lai giá nhôm phụ thuộc lớn vào tốc độ đầu tư
vào các nguồn cung mới (đặc biệt ở Trung Quốc và Trung Đông), cũng như mức chi
phí năng lượng và việc bãi bỏ điều tiết trên các thị trường năng lượng. Dù nguồn cung
mới tập trung ở những khu vực có các nguồn năng lượng chi phí thấp, chẳng hạn như
khu vực Trung Đông, ít có khả năng giá nhôm sẽ giảm bởi vì giá nhôm hiện đang dao
động ở phần trên của đường chi phí.
Tóm lại, chỉ số giá kim loại và khoáng sản dự tính sẽ giảm 25% vào năm 2009 và
giảm thêm 5% vào năm 2010 so với năm 2008.
1.6.3. Giá cả hàng nông nghiệp giảm mạnh từ mức đỉnh
Giá thực phẩm buôn bán trên thị trường quốc tế tính theo đồng USD đã tăng gần
60% trong nửa đầu năm 2008, các mặt hàng cơ bản như ngũ cốc và hạt có dầu có tốc
độ tăng mạnh nhất. Giá lúa mì tăng hơn gấp đôi, từ 200USD lên 440USD/tấn trong
khoảng thời gian từ tháng 3/2007 tới tháng 3/2008 trong khi giá gạo tăng gần gấp ba
trong bốn tháng tính đến tháng 4/2008. Giá dầu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trien_vong_kinh_te__phat_trien_khoa_hoc_va_cong_nghe_the_gioi.pdf