Triết học Mác ở Trung Quốc (sự truyền bá, vận dụng, hình thái biến hoá và viễn cảnh phát triển)

Thực tiễn phát triển văn hoá tư tưởng của nhân loại đã chỉ ra rằng, bất kỳ

một học thuyết tư tưởng nào cũng đều làsản phẩm của một giai đoạn lịch sử

nhất định, nó luôn phát triển cùng với sự phát triển của nhận thức của con

người và lịch sử xã hội. Học thuyết nào mà “nhất thành bất biến” thì sẽ

không thể có sức sống, sẽ không thể tiếp tục được duy trì đến các thế hệ sau.

Sự biến đổi hình thái của các học thuyết lý luận, về căn bản, xuất phát từ đòi

hỏi khách quan của thực tiễn lịch sử, đồng thời xuất phát từ sự chi phối của

nhân tố chủ quan đối với quá trình cải tạo và chỉ đạo thực tiễn.

pdf28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1800 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Triết học Mác ở Trung Quốc (sự truyền bá, vận dụng, hình thái biến hoá và viễn cảnh phát triển), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch mạng, nhanh chóng được ứng dụng trong thực tế. Điều này đã làm cho quá trình thâm nhập của triết học Mác vào Trung Quốc thiếu một giai đoạn chuẩn bị rất quan trọng là giai đoạn nghiên cứu và tuyên truyền lý luận, làm cho việc truyền bá thiếu cơ sở vững chắc và người truyền bá không được chuẩn bị đầy đủ về mặt lý luận; do đó, khó tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển về sau của lý luận và thực tiễn. Thứ ba, việc căn cứ vào nhu cầu thực tế của sự phát triển xã hội Trung Quốc để truyền bá triết học Mác có tính lịch sử hợp lý của nó. Nhưng, trong các hành động cụ thể thì “nhu cầu thực tế” thường dễ bị giải thích lệch lạc và tự ý thay đổi. Vấn đề giải thích lệch lạc mà thông thường là căn cứ vào nhu cầu hiện thực để nhấn mạnh hoặc nêu bật một số nội dung này mà bỏ qua các nội dung khác, đã làm tách biệt mối liên hệ nội tại giữa các bộ phận của triết học, phá vỡ tính chỉnh thể của lý luận. Ví dụ như việc lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở cho lý luận đấu tranh giai cấp và học thuyết cách mạng xã hội, do nhu cầu thực tế của công cuộc cách mạng xã hội Trung Quốc đã được nhấn mạnh và đặt lên vị trí hàng đầu; còn học thuyết về con người trong triết học Mác, đặc biệt là học thuyết về sự phát triển tự do, toàn diện con người thì bị lãng quên trong một thời gian dài. Vấn đề tự ý thay đổi biểu hiện chủ yếu ở việc biến nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội thành nhu cầu chủ quan của con người. Xuất phát từ nhu cầu chủ quan của cá nhân hoặc sự tốt xấu của cá nhân để “gọt đẽo” triết học Mác, coi đó là “triết học chiến đấu” - một tên gọi khác của triết học Mác, hoặc quan điểm “sùng bái cá nhân” trong lý luận về vai trò của anh hùng trong lịch sử cũng được cho là những quan điểm cần phải khẳng định. II. Việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc Việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc, một mặt, là quá trình lịch sử phù hợp với nhu cầu vận động, phát triển của cách mạng Trung Quốc mà không ngừng biến đổi trọng điểm tác dụng của nó; mặt khác, là sự mở rộng không ngừng việc vận dụng, do cuộc đấu tranh giữa các giai tầng trong xã hội luôn đòi hỏi công tác lý luận phải đi sâu nghiên cứu, mở rộng ảnh hưởng và phạm vi tác động của nó. V.I.Lênin từng nói: trong lý luận, việc tập trung chú ý vào phương diện nào không phải được quyết định bởi ý muốn chủ quan, mà được quyết định bởi điều kiện lịch sử(1). Căn cứ vào điều kiện lịch sử, việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc về đại thể được phân thành thời kỳ tìm hiểu, thời kỳ chín muồi, thời kỳ khủng khoảng và thời kỳ phồn vinh trở lại. Từ phong trào “Ngũ Tứ” đến năm 1927 là thời kỳ tìm hiểu. Trong thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật lịch sử là trọng tâm của việc vận dụng triết học Mác, nghĩa là vận dụng quan điểm duy vật lịch sử để lý giải nguồn gốc xã hội của cách mạng Trung Quốc, luận chứng tính tất yếu của việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản, xác định phương hướng, đường lối chiến lược, đối tượng cách mạng, quyền lãnh đạo cách mạng của cách mạng Trung Quốc, v.v.. Xét về tổng thể, việc vận dụng triết học Mác trong giai đoạn này mang tính bước đầu, mang tính tìm hiểu mà thôi. Từ năm 1927 đến năm 1949 là thời kỳ mà việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc được triển khai từng bước và tiến tới chín muồi. Sau năm 1927, nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới cũng như sự phát triển của cách mạng trong giai đoạn mới, trọng tâm của việc vận dụng triết học Mác chuyển từ chủ nghĩa duy vật lịch sử sang lý luận nhận thức và phép biện chứng. Sự thay đổi trọng tâm của sự vận dụng là đòi hỏi về mặt lý luận đối với sự phát triển cao hơn của cách mạng Trung Quốc, là dấu hiệu của việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc đã đạt đến giai đoạn chín muồi. Ph.Ăngghen đã từng nói: “Quan điểm duy vật lịch sử và tác dụng đặc biệt của nó trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản hiện nay chỉ có dựa vào phép biện chứng mới có thể thực hiện được”(2). Cùng với sự phát triển ngày càng cao của cách mạng Trung Quốc, các nhà mácxít trên nhiều lĩnh vực khác nhau ngày càng lý giải một cách sâu sắc hơn các luận điểm của C.Mác, đồng thời họ đều dựa vào cách thức riêng của mình để tạo ra những nỗ lực thực tế. Trong tác phẩm Phương pháp luận tư tưởng, Ngãi Tư Kỳ cho rằng, từ các phạm trù, khái niệm, nguyên lý trừu tượng của phép biện chứng, lý luận nhận thức mácxít phải làm thế nào để có thể xây dựng các phương pháp công tác, phương pháp tư tưởng nhằm vận dụng vào thực tế công tác cách mạng, tiến hành đi sâu tìm hiểu và đưa ra kiến giải sâu sắc của mình. Trong việc vận dụng một cách cụ thể phép biện chứng và lý luận nhận thức của triết học Mác vào thực tiễn cách mạng, Mao Trạch Đông đã có những cống hiến quan trọng. Cống hiến tiêu biểu nhất của ông là đưa ra một hệ thống các phương pháp công tác và phương pháp tư tưởng phù hợp với đặc điểm và phong cách của người cộng sản Trung Quốc, bao gồm các phương pháp và nguyên tắc phương pháp luận cơ bản nhất, cũng như các phương pháp tư tưởng và phương pháp công tác cụ thể. Đây là nội dung tiêu biểu, mang đậm màu sắc Trung Quốc nhất trong tư tưởng triết học của Mao Trạch Đông, cũng là sự phát triển và làm phong phú thêm triết học Mác. Ba mươi năm sau khi Trung Quốc được thành lập là thời kỳ khủng hoảng trong việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Việc vận dụng triết học Mác từng đạt được những thành tựu ban đầu trong việc tìm tòi con đường xây dựng và cải tạo chủ nghĩa xã hội, nhưng đồng thời nó cũng trải qua một khúc quanh, chủ yếu biểu hiện ở chỗ ngày càng xa rời thực tế cụ thể của Trung Quốc, ngày càng trở nên chủ quan tuỳ tiện. Đặc biệt, trong giai đoạn “Cách mạng văn hoá”, việc vận dụng triết học Mác đã sa vào chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa giáo điều. Hai mươi năm cuối của thế kỷ XX, là thời kỳ việc nghiên cứu và vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc bước vào một quỹ đạo phát triển mới, bắt đầu từ cuối những năm 70, khi cả nước bị cuốn hút vào cuộc đại thảo luận về tiêu chuẩn của chân lý. Cuộc đại thảo luận này đã giúp cho việc nghiên cứu vận dụng triết học Mác quay trở lại với quỹ đạo đúng đắn của nó, nhưng ở một tầm cao hơn. Đặng Tiểu Bình đã nêu một tấm gương sáng trước toàn Đảng về phương diện này. Ở bất cứ đâu, ông cũng đều nhấn mạnh: phải xuất phát từ thực tiễn, giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý; đồng thời, vận dụng những nguyên tắc và tinh thần cơ bản này để mạnh dạn đoạn tuyệt với quá khứ, tìm tòi sự sáng tạo cho tương lai. Chính từ quá trình nghiên cứu tìm tòi trong thực tiễn, lý luận chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc đã định hình. Đây có thể coi là thành tựu to lớn nhất của việc nghiên cứu, vận dụng linh hoạt và sáng tạo triết học Mác trong điều kiện lịch sử mới. Dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc không còn giống như trước đây, nghĩa là chỉ bó hẹp trong việc luận chứng cho các chính sách cụ thể và đường lối chính trị hiện hành, mà giờ đây nó phải phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, phải nêu bật và nhấn mạnh chức năng phê phán và phản tư của triết học, đặt nền tảng của việc vận dụng triết học vào một vị trí mới, đó là ở sự chỉ đạo phương pháp tư duy, nhấn mạnh việc vận dụng thực tế của triết học trong cuộc sống hiện thực, đưa ra phương pháp chỉ đạo, giúp mọi người nhận thức và giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề của thực tiễn cuộc sống. Đồng thời, các phương pháp và phương thức vận dụng cần phải chú trọng tới tính khoa học, cần phải tăng cường chú ý tôn trọng đặc điểm và quy luật của bản thân triết học. Tất cả những điều này đã nói lên rằng, qua 20 năm cải cách mở cửa, trình độ vận dụng chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc (bao gồm giới lãnh đạo và giới học thuật) đều đã có sự phát triển mới, bước sang một trang sử mới. Việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc còn là một quá trình lịch sử không ngừng mở rộng lĩnh vực vận dụng, do sự đòi hỏi của cuộc đấu tranh chính trị giữa các giai tầng xã hội đối với việc nghiên cứu lý luận nhằm đi sâu, mở rộng và phát huy tác dụng của nó. Việc vận dụng triết học Mác trong lĩnh vực đấu tranh chính trị xã hội đã làm thay đổi một cách triệt để diện mạo của Trung Quốc, thúc đẩy xã hội phát triển. Điều này đã được ghi vào sử sách và được đông đảo các nhà nghiên cứu quan tâm chú ý. So sánh điều này với ảnh hưởng và tác dụng của triết học Mác trong lĩnh vực nghiên cứu học thuật, thì đó là một khâu yếu kém trong việc nghiên cứu lịch sử vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Trên thực tế, sau khi triết học Mác du nhập vào Trung Quốc, nó không chỉ giúp Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân Trung Quốc tiến hành một cuộc đại cách mạng xã hội triệt để, mà còn tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực nghiên cứu học thuật, thúc đẩy công tác nghiên cứu học thuật của Trung Quốc từ bảo thủ hướng đến đổi mới, từ truyền thống hướng đến hiện đại. Nghiên cứu lịch sử là lĩnh vực học thuật gắn bó sớm nhất với việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Lý Đại Chiêu cho ra đời ba cuốn sách nổi tiếng: Bài giảng về quan điểm duy vật lịch sử, Bài giảng về lịch sử tư tưởng sử học, Sử học yếu luận được giới sử học xem là cột mốc của việc vận dụng chủ nghĩa Mác làm kim chỉ nam cho công tác nghiên cứu sử học. Tiếp theo Lý Đại Chiêu, một nhóm các nhà sử học mới, như Quách Mạt Nhược, Lã Trấn Vũ, Phạm Văn Lan, Hầu Ngoại Lư, Tiển Bá Tán, v.v. trong thập niên 30 - 40 đã cho ra đời hàng loạt các tác phẩm kiệt xuất: Quách Mạt Nhược có Nghiên cứu xã hội cổ đại Trung Quốc, Lã Trấn Vũ có Nghiên cứu xã hội Trung Quốc trước đây, Phạm Văn Lan có Trung Quốc thông sử giản biên, Hầu Ngoại Lư có Trung Quốc tư tưởng thông sử, Tiển Bá Tán có Trung Quốc sử cương, v.v.. Điều đó đã làm cho công tác nghiên cứu sử học ở Trung Quốc bước vào một giai đoạn hoàn toàn mới, đồng thời cũng tạo nên sử học mới của chủ nghĩa Mác. Ngoại trừ 5 nhà sử học tiêu biểu có ảnh hưởng nhất đối với việc nghiên cứu sử học mới về chủ nghĩa Mác ở trên, cần phải nhắc đến Ngô Thừa Sỹ, người rất nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu quốc học ở miền bắc Trung Quốc. Ông là học trò lớn nhất của Chương Thái Viêm, một nhà kinh học nổi tiếng, từng giảng dạy ở nhiều trường đại học, từng là chủ nhiệm khoa Quốc học của trường Đại học Bắc Bình Trung Quốc. Trước ảnh hưởng của việc truyền bá rộng rãi triết học Mác, ông đã tiếp thu thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác, đồng thời vận dụng vào thực tiễn giảng dạy và nghiên cứu quốc học, mở ra một vấn đề mới đối với lĩnh vực nghiên cứu quốc học truyền thống và được thế hệ sau tôn vinh là “người đặt nền móng cho việc vận dụng phương pháp biện chứng và quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu Kinh học Trung Quốc cũng như vào lĩnh vực Văn tự học”. Sau khi Trung Quốc được thành lập, triết học Mác, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật lịch sử chiếm ưu thế tuyệt đối và địa vị chủ đạo trong nghiên cứu lịch sử, do đó đã mở ra một cục diện mới trong nghiên cứu sử học. Nhờ vậy, rất nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử đã được đánh giá một cách khách quan, công bằng; một số vấn đề bị bóp méo hoặc hiểu sai đã được khôi phục lại diện mạo ban đầu. Trong khi đạt được những thành tích quan trọng, cũng cần phải chú ý một điều là, việc vận dụng triết học Mác vào lĩnh vực nghiên cứu sử học ở Trung Quốc trong giai đoạn mới không thể tách rời điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội mà nó đề cập đến. Đây là thời kỳ mà do sai lầm lý luận của những người lãnh đạo chủ chốt cũng như vấn đề “tả khuynh” trong chỉ đạo tư tưởng của Đảng, đã mang lại cho sự vận dụng triết học Mác trong nghiên cứu sử học không biết bao nhiêu rắc rối, thậm chí là sự phá hoại nghiêm trọng. Nghiên cứu sử học bỗng chốc biến thành công cụ đấu tranh chính trị, cái gọi là “sử học ám chỉ” là một điển hình trong “Văn cách” (cách mạng văn hoá). Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, cùng với tinh thần thực sự cầu thị của Đảng, việc vận dụng triết học Mác trong lĩnh vực nghiên cứu sử học cũng được đặt trên một đường ray mới. XEM TIẾP ...>>> TRIẾT HỌC MÁC Ở TRUNG QUỐC (tiếp theo) TỪ TỐ HOA(**) Nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc cũng là một lĩnh vực học thuật rất quan trọng trong quá trình vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Những người đầu tiên tiến hành công việc này không hoàn toàn là những nhà mácxít, như Hồ Hán Dân, Phạm Thọ Khang. Hồ Hán Dân là một nguyên lão của Quốc dân Đảng, ông vận dụng quan điểm duy vật lịch sử để nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc, xem quan điểm duy vật lịch sử như là công cụ và phương pháp nghiên cứu khoa học có giá trị cao. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, ông cho ra đời tác phẩm Nghiên cứu duy vật đối với lịch sử triết học Trung Quốc và cuốn Từ cơ sở kinh tế xem xét chế độ gia tộc, v.v.. Hồ Hán Dân được đánh giá là người “mở con đường mới cho việc nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc”, “khơi dòng cho việc vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu lịch sử tư tưởng văn hoá Trung Quốc”. Còn Phạm Thọ Khang, vào giữa những năm 30 của thế kỷ XX, đã cho ra đời tác phẩm Lịch sử triết học Trung Quốc thông luận, là cuốn sách lịch sử triết học Trung Quốc đầu tiên vận dụng phương pháp mới, quan điểm mới của triết học Mác. Trong số những người vận dụng quan điểm triết học Mác vào nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc thì đại đa số là những người mácxít. Những nhà mácxít là lực lượng chủ lực, trong đó Đỗ Quốc Tường và Kê Văn Phủ là những đại biểu tiêu biểu nhất. Đỗ Quốc Tường là một nhà nghiên cứu lâu năm trong việc vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu triết học thời Tiên Tần. Hai tác phẩm của ông là Khái quát tư tưởng chư tử thời Tiên Tần và Một số nghiên cứu về chư tử Tiên Tần được đánh giá là hai tác phẩm điển hình trong việc vận dụng quan điểm duy vật lịch sử và phương pháp biện chứng duy vật để nghiên cứu tư tưởng cổ đại Trung Quốc, cho đến mãi sau này vẫn được giới học thuật đánh giá cao. Kê Văn Phủ thì viết được 90 vạn chữ về nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc, nó phản ánh khả năng vận dụng một cách linh hoạt và những kiến giải sáng tạo của ông trong việc áp dụng quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu lịch sử triết học. Sau khi Trung Quốc được thành lập, việc vận dụng triết học Mác vào nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc bước vào một giai đoạn phát triển mới. Trước giai đoạn này 30 năm, đặc điểm của sự vận dụng là người vận dụng và phạm vi vận dụng không ngừng mở rộng. Dưới sự ảnh hưởng của các quan điểm mới, phương pháp mới, đã có hàng loạt các tác phẩm liên tiếp ra đời, như cuốn Trung Quốc triết học sử tân biên của Phùng Hữu Lan, Trung Quốc triết học sử của Nhiệm Kế Dũ. Hạn chế của thời kỳ này là sự dập khuôn máy móc của chủ nghĩa giáo điều, là sự đơn giản hoá, chưa chú trọng và nghiên cứu đầy đủ đặc điểm của triết học Trung Quốc cũng như quy luật đặc thù của sự phát triển lịch sử triết học Trung Quốc. Ngoài ra, do sự tham dự, chi phối của chính trị đối với nghiên cứu học thuật, việc nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc bỗng chốc trở thành một bộ phận của đấu tranh chính trị. Đặc điểm của sự vận dụng triết học Mác 20 năm sau giai đoạn trên là ở chỗ, trên cơ sở khôi phục trạng thái bình thường, sự vận dụng ngày càng mang tính lý tính, ngày càng có tính khoa học hợp lý; đồng thời với việc nhấn mạnh phải kiên trì lập trường, quan điểm, phương pháp chỉ đạo của chủ nghĩa Mác trong nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc, cũng cần tôn trọng và chú ý đến hình thái biểu hiện đặc thù và quy luật đặc thù trong sự phát triển lịch sử triết học Trung Quốc; đồng thời với việc nhấn mạnh phải kiên trì phương pháp và nguyên tắc cơ bản của triết học Mác trong nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc, cũng cần phải tham khảo, học tập những phương pháp mới, quan điểm mới. Điều này đã thúc đẩy việc nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc bước vào một thời kỳ mới phong phú và đa dạng hơn trước. Việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc còn gắn liền với rất nhiều lĩnh vực nghiên học thuật khác, như chính trị học, kinh tế học, văn học, xã hội học, pháp luật học, v.v.. Tuy ảnh hưởng và sự vận dụng triết học Mác trong các lĩnh vực kể trên không lớn như trong lĩnh vực nghiên cứu sử học và lịch sử triết học, nhưng dấu ấn của nó cũng rất rõ. Do khuôn khổ bài viết có hạn, ở đây chúng tôi không thể trình bày một cách chi tiết. Việc khái quát quá trình vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc như đã trình bày ở trên đã thể hiện tính sâu sắc và tính bao quát của nó, đồng thời cũng biểu hiện kết quả của nó trong nghiên cứu học thuật và lĩnh vực cách mạng xã hội. Thành tựu thì tất cả mọi người đã thấy, còn những sai lầm và bài học kinh nghiệm cũng cần phải được tổng kết và đúc rút. Ví dụ: Về mối quan hệ giữa triết học và chính trị. Triết học vận dụng vào chính trị, nghĩa là chỉ đạo trong đấu tranh chính trị, đây vốn là phương diện quan trọng nhất, nổi bật nhất của việc vận dụng triết học Mác. Triết học Mác không thể lẩn tránh hoặc thoát ly khỏi chính trị, điều này là do bản chất của triết học Mác quy định. Triết học phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị, đó là chức năng xã hội đầu tiên của triết học, nhưng không phải là chức năng duy nhất, càng không phải là chức năng cuối cùng. Sai lầm của Trung Quốc trước đây trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác là ở chỗ, Trung Quốc đã duy nhất hoá, tuyệt đối hoá chức năng trên, đồng thời coi sự “phục vụ” của triết học chỉ đơn giản là “luận chứng”, hơn nữa chỉ có thể luận chứng cho tính “hợp lý”, “đúng đắn” của các chủ trương, đường lối, chính sách, v.v.. Kết quả là làm cho triết học mất đi tính độc lập, tính khoa học và chìm đắm trong vai trò nô lệ của chính trị, đánh mất đi thanh danh của triết học. Đây là sai lầm lớn nhất của việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Về tính chủ quan, tuỳ tiện trong việc vận dụng triết học Mác. Căn cứ vào nguyên tắc luận duy vật của triết học Mác, việc vận dụng các nguyên lý cơ bản của triết học Mác nhất định phải xuất phát từ thực tiễn (nhất định phải lấy thực tiễn làm điểm xuất phát), phải xem xét một cách đầy đủ sự thay đổi về địa điểm, thời gian, đối tượng của sự vận dụng. Trước đây, chúng ta đã sai lầm khi không chú ý đến sự thay đổi này. Ví dụ, trong việc vận dụng học thuyết “đấu tranh giai cấp”, chúng ta đã hoàn toàn bỏ qua sự thay đổi của đối tượng, thời gian, địa điểm và thực tế khách quan của xã hội Trung Quốc, nên dẫn đến việc sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền và thành lập chế độ xã hội chủ nghĩa, vẫn cứ kiên trì “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh”, vẫn tiếp tục phát động “cuộc đại cách mạng của giai cấp này lật đổ giai cấp khác”. Căn cứ vào yêu cầu cơ bản của phương pháp biện chứng của triết học Mác, người vận dụng nhất định phải nắm chắc và hiểu một cách toàn diện lý luận được đem ra vận dụng là thế nào, đồng thời cũng phải xem xét một cách đầy đủ lôgíc nội tại giữa các quan điểm lý luận. Thế nhưng, khi vận dụng trong thực tế, người vận dụng có thể vi phạm những yêu cầu cơ bản này, dựa vào nhu cầu chủ quan hoặc mục đích tốt xấu khác nhau để tự ý tuỳ tiện lược bỏ, cắt xén triết học Mác. Nếu như trong triết học Mác, việc phát huy tính năng động chủ quan của con người đòi hỏi phải lấy việc nắm chắc và nhận thức đầy đủ quy luật khách quan làm tiền đề, thì trái lại, khi vận dụng, trong những trường hợp cụ thể, người vận dụng lại thường chỉ căn cứ vào nhu cầu chủ quan, chỉ chú trọng phát huy nhân tố chủ quan mà hoàn toàn quên mất việc phải nắm bắt, nhận thức đầy đủ và tôn trọng quy luật khách quan. Về việc tầm thường hoá, đơn giản hoá phương thức và đường lối trong vận dụng triết học Mác. Do tính chất đặc thù của bản thân triết học, nên sự vận dụng triết học không giống như sự vận dụng các khoa học khác, vì chưa thể nhìn thấy ngay được kết quả. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, vận dụng triết học là một quá trình phức tạp, các quy luật, phạm trù, khái niệm trừu tượng của triết học cần phải thông qua một quá trình trung gian, thông qua chuyển hoá mới có thể chỉ đạo hành động, mới có thể biến thành hành động cụ thể. Nếu như trực tiếp áp dụng một cách máy móc, bê nguyên xi các khái niệm, phạm trù triết học thì sẽ mắc phải sai lầm, dẫn tới chỗ làm tầm thường hoá, đơn giản hoá triết học. Sai lầm trước đây của Trung Quốc là ở chỗ, đã đơn giản hoá quá trình phức tạp của việc vận dụng triết học, không chú ý đến việc đòi hỏi những người vận dụng triết học cần phải có sự chuẩn bị về những tri thức triết học cũng như có khả năng vận dụng triết học trong thực tế cuộc sống. III. Sự biến đổi hình thái tồn tại của triết học Mác Thực tiễn phát triển văn hoá tư tưởng của nhân loại đã chỉ ra rằng, bất kỳ một học thuyết tư tưởng nào cũng đều là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử nhất định, nó luôn phát triển cùng với sự phát triển của nhận thức của con người và lịch sử xã hội. Học thuyết nào mà “nhất thành bất biến” thì sẽ không thể có sức sống, sẽ không thể tiếp tục được duy trì đến các thế hệ sau. Sự biến đổi hình thái của các học thuyết lý luận, về căn bản, xuất phát từ đòi hỏi khách quan của thực tiễn lịch sử, đồng thời xuất phát từ sự chi phối của nhân tố chủ quan đối với quá trình cải tạo và chỉ đạo thực tiễn. Học thuyết Nho giáo, từ khi ra đời cho đến hôm nay, đã trải qua một quá trình biến đổi với nhiều hình thái khác nhau, như kinh học, lý học, tâm học, thực học và tân nho giáo, v.v.. Triết học Mác sau khi ra đời trên 100 năm, hình thái của nó cũng luôn trong quá trình biến đổi, phát triển. Từ hình thức ban đầu là “chủ nghĩa duy vật thực tiễn” đến thời kỳ Lênin trở thành “chủ nghĩa duy vật chiến đấu”, tiếp đến là hình thức mà trong sách giáo khoa của Liên Xô gọi là “chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Sau khi triết học Mác du nhập vào Trung Quốc, trong quá trình kết hợp với thực tiễn cách mạng Trung Quốc và văn hoá tư tưởng truyền thống Trung Quốc, thì vấn đề phát triển, biến đổi hình thái của nó cũng được mọi người quan tâm chú ý, trong đó có Trung Quốc hoá triết học Mác – tư tưởng triết học của Mao Trạch Đông; đại chúng hoá triết học Mác – Triết học đại chúng của Ngãi Tư Kỳ; hình thái sách giáo khoa triết học Mác – Xã hội học đại cương của Lý Đạt; hình thái đương đại của triết học Mác – Lý luận triết học của Đặng Tiểu Bình. Sự biến đổi hình thái của triết học Mác như vừa trình bày ở trên là do sự đòi hỏi của thực tiễn, là sản phẩm của thực tiễn. Trong số các hình thái của triết học Mác, hình thái Trung Quốc hoá triết học Mác – tư tưởng triết học của Mao Trạch Đông là đặc sắc và điển hình nhất. Chúng ta biết rằng, nội dung cụ thể và hình thức biểu hiện là hai yếu tố cơ bản để cấu thành nên một loại hình thái triết học. Tư tưởng triết học của Mao Trạch Đông là một hình thái phát triển mới của triết học Mác, từ nội dung cụ thể đến hình thức biểu hiện đều đã được Trung Quốc hoá. Những phương pháp, quan điểm và nguyên tắc cơ bản của tư tưởng triết học Mao Trạch Đông là của chủ nghĩa Mác, nhưng những biểu hiện cụ thể của nó thì lại hoàn toàn xuất phát từ thực tế cách mạng Trung Quốc, nó bao hàm tinh hoa của triết học truyền thống Trung Quốc và sự tổng kết triết học đối với kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Trung Quốc; hơn nữa, còn được trình bày bằng ngôn ngữ, văn tự và cách biểu đạt của người Trung Quốc. Ví dụ, vấn đề thực tiễn trong triết học Mác vốn chiếm một vị trí rất quan trọng, phản ánh tính chất đặc thù của triết học Mác. Trước việc những người theo chủ nghĩa giáo điều coi thường vấn đề thực tiễn, Mao Trạch Đông đã đưa thực tiễn trở thành vấn đề đầu tiên của triết học Mác. Ông đã viết tác phẩm Bàn về thực tiễn, trong đó lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của triết học Mác, vấn đề thực tiễn được nghiên cứu, luận giải một cách có hệ thống và tường tận. Một ví dụ khác về tính phức tạp của mâu thuẫn trong xã hội Trung Quốc và tính đặc thù của mâu thuẫn trong cách mạng Trung Quốc cho thấy tầm quan trọng của phương pháp nhận thức và giải quyết mâu thuẫn. Mao Trạch Đông đã nắm chắc vấn đề này, lấy học thuyết mâu thuẫn trong triết học Mác làm cơ sở, gắn chặt với việc tổng kết bài học kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc trong nhận thức và giải quyết vấn đề mâu thuẫn, đặc biệt là vấn đề tính đặc thù của mâu thuẫn, tiến hành luận chứng và phát huy một cách có hệ thống. Tác phẩm Bàn về mâu thuẫn ra đời trên cơ sở đó. Trong tác phẩm này, Mao Trạch Đông không chỉ khái quát và nâng kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Trung Quốc lên tầm lý luận, chỉ ra những “tinh hoa” của học thuyết mâu thuẫn, làm phong phú triết học Mác, mà còn tiếp thu tinh hoa triết học truyền thống Trung Quốc. Ông đã Trung Quốc hoá học thuyết mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác trên hình thức biểu đạt bằng ngôn ngữ văn tự. Đại chúng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftriet_hoc_85__5984.pdf