Bản thể con người có hai phần, gọi nôm na là Phần xác và Phần hồn. Ngôn từ văn bản phổ thông thì gọi là Thể chất và Tinh thần, đời sống tín ngưỡng thì gọi là Thể xác và Tâm linh, Vật lý và Triết học thì phân loại là Vật chất và Ý thức.
Thể xác là vật chất thì đã quá rõ ràng. Nó rõ ràng vì các chỉ tiêu sinh học, cơ thể học và Vật lý học hoàn toàn xác định và hữu hạn. Ngược lại “Thế giới Ý thức” hoàn toàn không xác định bằng bất kỳ đai lượng tuyệt đối nào, và là một “phổ” liên tục và vô định.
Theo Triết học Phật giáo, cũng như hàm nghĩa sâu sắc của các khái niêm như: Phần hồn, Tinh thần, Ý chí, Tâm thể chúng chỉ nhấn mạnh một mặt nào đó của Ý thức, chứ chưa nói lên được nội hàm của khái niệm Tâm linh. Trong Tâm linh đã hội đủ: Lòng vị tha, Đạo đức, Tinh thần, Ý chí, Linh hồn v.v.
Qua đó, ta thấy tổng thể Con người, phần Thể xác chỉ chiếm một phần nhỏ, hoàn toàn xác định, đủ để đóng vai trò “con”, còn Tâm linh mới là “Người” thì trải rộng với hàm chứa rất lớn.
Con – Người là tổng thể của Thể xác – Tâm linh. Nếu mất Tâm linh chỉ còn lại Thể xác. nghĩa là nếu mất đi phần Người, thì phần Con còn lại chỉ tồn tại trong Thế giới những con vật. Nhưng, ngược lại, nếu mất Thể xác thì Tâm linh vẫn còn, nghĩa là phần Con đã chết, nhưng phần Người vẫn còn tồn tại, vẫn lưu truyền đến muôn đời sau, vẫn đậm đà trong Tâm linh của thế hệ đang sống. Đó là trường hợp các vĩ nhân, danh nhân, anh hùng dân tộc, những người đã lấy Tâm linh của mình làm điểm tựa qui tụ, làm bến đỗ cho ngàn vạn Tâm linh đồng loại, chẳng những lúc đương thời, mà còn ghi tạc soi sáng cho muôn đời sau.
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3174 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Triết lý Phật giáo, khoa học hiện đại và chủ nghĩa Mác, dưới góc nhìn triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tâm lý, nhận thức và hành vi cuộc sống, và là người kế thừa trực hệ gia tài năng lực hành vi đã được tích tập một cách có ý thức.
Nhận thức quy luật nhân quả chi phối các nguyên lý từ vô cơ, hữu cơ cho đến tâm lý học, nhận thức luận, đời sống luân lý xã hội và ngay cả đời sống tâm linh của con người, hành giả Phật giáo sẽ là người làm chủ ab3n thân mình bằng các nổ lục chuyển hóa quán tính hành vi ngày càng tốt đẹp hơn, để vượt thoát khỏi mọi xiềng xích của nghiệp đã tác tạo.
-------------------------------------------------------------
Vũ trụ bao la rộng lớn với vô vàn những hình thù khác nhau, nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng đều được hình thành nên từ đơn vị vật chất cơ bản là nguyên tử. Dưới những góc nhìn và những lý giải khác nhau cho thấy cuộc sống muôn màu muôn vẻ mà ở đó ta cần biết cách nhận diện cho ra bản chất sự vật. Có thể người ta không chấp nhận những thiên kiến của các tôn giáo về việc luận giải cấu trúc đời sống song không thể không công nhận những sự tương hợp giữa đời sống khoa học và tâm Linh. Lấy con mắt của nhà Phật để soi rọi quan điểm khoa học tự nhiên là một điều không dễ dàng và đôi lúc gây ra những sự ngộ nhận, nhưng tác giả của bài viết này quan niệm rằng, tất cả những gì đã hiện sinh quanh ta đều là những điều kỳ diệu đáng yêu mà ta không nên cố chấp. Biết thì nói, thấy thì chỉ, lắng nghe và thấu hiểu nhau cũng là một cách làm cho chúng ta gần gũi nhau hơn. Đơn vị cơ sở cấu thành nên toàn vũ trụ chính là nguyên tử mà sự phát hiện ra nó đã soi rọi cho khoa học những ánh sáng và cái nhìn khái quát hơn về một thế giới toàn nguyên. Nó bác bỏ tất cả những gì thuộc về lý thuyết suông và thần thánh của các trường phái triết học cổ đại. Từ cái thuở cho rằng vũ trụ hình thành nên nhờ “ngũ hành”, kim-mộc-thủy-hỏa-thổ, rồi thì cho rằng Chúa nặn ra thế giới trong vòng sáu ngày.... cho đến nay tất cả đã được làm sáng tỏ hơn nhờ thuyết nguyên tử và một bộ môn mới của vật lý hiện đại - cơ lượng tử đã ra đời. Tuy nhiên, chúng ta không thể bác bỏ sạch trơn những học thuyết cổ đại vì phần nào trong số đó có những đóng góp không nhỏ. Tôi muốn nói đến Phật giáo, một trường phái triết học ra đời sớm với những lý giải sâu sắc và hiện thực được ghi lại qua các bộ kinh mà những đệ tử của Đức Bổn Sư đã kịp ghi lại. Cho đến nay, Phật giáo đã vượt ra khỏi khuôn khổ của một tôn giáo, trở thành một lĩnh vực không thể thiếu khiến mỗi khi khoa học khó khăn đều có thể nhờ đến. Hạt nguyên tử kia bé nhỏ thế nhưng Đức Phật đã nhìn thấy được từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Ngài gọi đó là các nhân duyên mà bao giờ nhân duyên hội đủ thì nó có. Thuyết duyên hợp ấy được ghi lại trong hai hệ thống kinh A Hàm và Tăng Chi Bộ: “Cái này có nên cái kia có Cái này sanh nên cái kia sinh Cái này diệt nên cái kia diệt...” Cũng chính những nhân duyên rất nhỏ mà sau này giới khoa học đặt cho cái tên Nguyên tử (Atom) ấy đã hình thành nên một cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Những hạt nguyệt tử nhỏ bé như là những vị sứ giả nhà Phật đã mang đến cho ta những bức thông điệp giá trị. Những bức thông điệp khoa học, đời sống cho bạn, cho tôi, cho tất cả mọi người mà hôm nay tác giả có dịp tâm sự. Quỹ đạo electron – nhũng vòng quay luân hồi Nhà vật lý Nils Bor đã đưa ra giả thuyết về quỹ đạo hành tinh của các electron trong nguyên tử có dạng đường tròn với tâm tại hạt nhân nguyên tử. Nhưng vòng tròn quỹ đạo mà trên đó các electron như những chàng thi sĩ lang thang đi tìm kiếm câu thơ, khép lại thành một chu trình kín. Chính nhờ hình dạng này nên trong điều kiện không bị các tác nhân kích hoạt, nguyên tử giữ được đầy đủ số điện tích của mình. Chuyển động hay đứng yên chỉ có tính tương đối, ở đây nếu ta chọn hệ quy chiếu gắn với gốc là hạt nhân đứng yên (điều này có thể vì hạt nhân vốn nhỏ hơn rất nhiều so với kích thước nguyên tử nên có thể coi hạt nhân như “chất điểm”) khi đó các electron quay xung quanh gốc với những vòng tròn với bán kính xác định theo công thức Rn = h2n2/me2Z Ở đây h là hằng số Plank, n - chỉ số quỹ đạo electron, m và e lần lượt là khối lượng và điện tích electron, Z là số hiệu nguyên tử. Ta có thể nhìn nhận những vòng tròn quỹ đạo kia chính là quy luật luân hồi theo quan điểm nhà Phật mà sự khép kín của nó đủ để diễn tả tất cả. Ta biết rằng, những electron nằm được ở những quỹ đạo cố định là nhờ lực liên kết với hạt nhân, chính lực kia là nhân duyên giúp nó tồn tại và có mặt ở trên đó để hình thành nên vòng luân hồi. Nếu không có sự hấp thu hay bức xạ năng lượng thì chúng cứ yên vị mãi trên quỹ đạo ấy, ta có thể nói khi ấy nhân duyên đã hội đủ nên chúng “có mặt”. Trường hợp có tác nhân lực tác động vào thì nhân duyên cũ bị phá vỡ để hình thành nên nhưng nhân duyên mới, tức electron sẽ chuyển sang quỹ đạo khác với mức năng lượng tương ứng được tính theo công thức. En = - me4Z2 /2h2n2 Nhìn nhận theo quan điểm “Thập nhị nhân duyên”, với một sự thay đổi của nguyên nhân (Nhân) thì kéo theo cả một sự thay đổi lớn về kết quả (Quả), quá trình thay đổi nhân gọi là “tạo nghiệp” và dẫn đến sự thay đổi quả gọi là “tác nghiệp”, trong đó làm biến đổi hẳn nhân duyên. Song dù ở bất kỳ quỹ đạo nào thì vòng quay vẫn khép kín, nghĩa là sự luân hồi không bị phá vỡ. Từ công thức năng lượng trên, có thể thấy rằng mối quan hệ giữa chỉ số quỹ đạo và mức năng lượng tương ứng là tỷ lệ thuận (một dấu trừ cùng với một phép nghịch đảo là một phép toán đồng quan). Nghĩa là các electron càng gần hạt nhân thì năng lượng càng thấp, tức nó bị liên kết mạnh. Nếu xem các electron như những cá thể người vận hành trên quỹ đạo cuộc đời ta sẽ thấy một điều rất thú vị. Lực liên kết giữa electron với nhân như là cái nghiệp níu giữ con người với cái tôi bản thể, sự tu học và thiền quán tạo ra năng lượng mà nếu hấp thụ càng nhiều thì sẽ càng được xa rời cái tôi, cũng như electron nếu được nhận được năng lượng kích hoạt sẽ chuyển sang những quỹ đạo cao hơn và đến lúc có thể vượt khỏi sự liên kết với nhân - ấy là lúc con người đạt đến đạo giải thoát. Nhìn như thế thì các electron trông thật giống con người, chúng cũng có linh hồn và tri thức để hiểu rõ rằng, cần phải tận dụng những sự chuyên tu trên vòng quay hiện tại để tiếp nhận nguồn năng lượng mà vượt thoát - đó là định luật cơ bản của hiệu ứng photon. Với góc nhìn này, có thể phân cấp con người ra nhiều hạng tương ứng với quá trình tạo nghiệp của họ. Những ai ít chuyên tu thì giống những electron quỹ đạo gần hạt nhân nhất, tức là luôn bị trói buộc và thấy thiếu tự do. Những ai siêng năng học tập trau giồi thì giống những electron ở lớp ngoài, nhờ công hạnh mà được chuyển lên những cấp độ cao hơn và thấy an lạc. Còn với bậc giác ngộ như Đức Phật thì có thể xem là electron đã vượt thoát khỏi lực hạt nhân, chính w thế mà Ngài luôn cam thấy tự do và không bị níu giữ trói buộc bởi bất kỳ thứ gì ở đời cả. Hiệu ứng đường ngầm - sự vượt thoát kỳ diệu Bài toán lượng tử một chiều dựa trên vệc giải phương trình Schordinger dẫn đến những dạng khác nhau của hố thế năng. Một trong những số các hố đó có tính chất quan trọng là hạ thế năng ba phần (U1, U, U2) tạo ra một hàng rào chắn (Barie). Trong lý thuyết cổ điển, khi U>E thì các phần tử đến phía bên trái (U1) không thể có mặt ở phía bên phải (U2) tức là không thể vượt qua được hàng rào chắn (U), ở đây các giá trị U1, U, U2 gọi là các mức độ sâu của hố còn E là năng lượng toàn phần. Thế nhưng trong thuyết lượng tử thì điều ấy hoàn toàn có thể, nó được gọi là hiệu ứng trường ngầm (tunnel effect) do hai nhà vật lý L.I. Mandestam và M.A. Leontovich đưa ra năm 1927. Việc xuất hiện giả thuyết hiệu ứng trường ngầm đã giải thích được nhiều hiện tượng vật lý và nó ứng dụng rộng rãi trong việc chế tạo các dụng cụ vi mô. Về khía cạnh Phật giáo, ta có thể xem các phần tử này như là các sinh linh mà việc hấp thụ đủ năng lượng như là công hạnh để vượt thoát qua khỏi hàng rào ngăn - các chướng ngại đời sống. Nhìn nhận ở góc độ đó, công năng tu tập của các phần tử sẽ tương ứng với khả năng và mức độ của sự “giải thoát”. Các phần tử nào có đủ năng lượng thì sẽ chui qua được hàng rào, năng lượng càng cao thì tốc độ qua càng nhanh và dễ dàng. Điều này dễ hiểu bởi nó không chỉ là nguyên tắc vật lý mà còn là quy luật ở đời. Việc học đạo cũng thế, nếu chuyên tâm tu dưỡng để tạo tánh tốt thì con đường giải thoát sẽ thuận lợi và sớm được “giác ngộ” hay là vượt qua những rào cản (barie) của nghiệp chướng. Nếu lấy thuyết Sắc - Không của nhà Phật ra mà lý giải cho bài toán hố lượng tử trong trường hợp này ta sẽ thấy được sự kỳ diệu của môn cơ lượng tử. Việc các phần tử đi qua hàng rào cấm đã làm vô hiệu hóa hàng rào này, vậy là hàng rào có cũng như không. Thế nhưng mức thế năng U của hàng rào lại ảnh hưởng nhiều tới việc có cho phần tử đi qua hay không và ở mức độ nào. Như đã nói ở trên, hiệu ứng chui đường ngầm xảy ra khi xe nên nó phụ thuộc vào thế năng U của hàng rào, vậy là ta coi hàng rào như không nhưng giờ lại thành có. Ấy chính là thuyết Sắc-không-tức-thị của nhà Phật, có đó mà không đó, biến hóa vô thường. Những cuộc đến cuộc đi trên cái hành trình đời sống khiến con người ta ngộ ra được những tri thức kỳ diệu. Sự vận động trong thế giới vi mô lại càng kỳ diệu thay bởi ở đó ta tưởng chừng như chúng vô duyên cớ nhưng thực tế lại có rất nhiều điều bí ẩn. Ở chỗ ấy sự giao thoa đã nảy sinh giữa nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí có thể nói là trái chiều. Thế nhưng bài học của Don Juan khiến tôi vững tâm hơn, rằng “mỗi con đường chỉ là một lối đi và cũng không ảnh hưởng gì đến mình hay đến ai nếu phải từ bỏ nó, một khi trái tim buộc bạn phải làm thế. Hãy quan sát con đường kỹ lưỡng và chính xác. Và hãy tự hỏi mình, chỉ chính mình thôi... Đó là một con đường của trái tim? Nếu phải thì đó là một lối đi tốt đẹp; nếu không nó chỉ vô ích” (theo Đạo của vật lý, bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Tường Bách). Chính con đường ấy đã đưa khoa học và tôn giáo lại gần nhau hơn, cũng như đưa thế giới về một mối đồng nhất có thể. Nó giúp ta tiến xa hơn trong mọi lĩnh vực và dễ dàng có được những bước tiến nhanh như cuộc vượt thoát của nguyên tử.
Phật giáo quan niệm tất cả những gì trên thế gian này đều vận hành, biến dịch liên tục và liên hệ với nhau, không có gì là độc lập, không có gì là thực tại. Quan niệm này cũng được phổ biến trong khoa học. Những nghiên cứu thiên văn cho rằng mặt trời, trái đất và các hành tinh đều được sinh ra từ một đám mây đầy khí và bụi, cách đây 4,6 tỷ năm.
Các thiên thể trong vũ trụ chuyển động không ngừng. Trái đất quay xung quanh mặt trời với tốc độ mười vạn kilômét/giờ. Mặt trời, trái đất và các hành tinh cũng bị lôi cuốn quay xung quanh tâm của Ngân hà với tốc độ một triệu kilômet/giờ. Ngân hà cũng đang lùi ra xa các thiên hà láng giềng với tốc độ hàng chục vạn kilômet/giờ. Trong vũ trụ, không có gì ở trạng thái tĩnh cả.Các nhà vật lý quan niệm thành phần cơ bản nhất của vật chất là những hạt nhỏ li ti. Những “hạt cơ bản” vi mô này không nhìn thấy bằng mắt thường và tràn ngập vũ trụ nguyên thủy. Trên trái đất chúng xuất hiện trong giây lát trong những máy gia tốc, khi những hạt electron hay proton va chạm vào nhau với tốc độ cao xấp xỉ tốc độ ánh sáng.
Trong những năm gần đây, những lý thuyết vật lý đề nghị trong vũ trụ còn có những “dây” vật chất nhỏ hơn cả hạt cơ bản. Khi dây vũ trụ rung như những dây đàn thì tạo ra những loại hạt vật chất khác nhau. Trên thực thế, đối với phàm nhân thì những hạt và dây vật chất chỉ là những vật ảo.Ta không khỏi không nghĩ tới khái niệm “vô thường”, “vô ngã” trong đạo Phật, coi sự vật trên thế gian chỉ là ảo. Những hiện tượng và sự vật không phải là những thực thể độc lập, nhưng phụ thuộc vào nhau theo luật “nhân duyên”. Tuy nhiên, sự tương đồng giữa Phật giáo và khoa học phải được hạn chế trong phạm vi tư tưởng triết học đối với thế giới tự nhiên. Còn những kết quả khoa học liên quan đến vũ trụ phải được dựa trên những định luật vật lý và sự quan sát bằng những công cụ thiên văn hiện đại.
Cách tiếp cận những hiện tượng trong vũ trụ đối với Phật giáo và khoa học có thể song song với nhau, nhưng không nhất thiết trùng hợp với nhau. Khoa học dùng những lý luận duy lý để tìm chân lý còn Phật giáo dùng tư duy đạo đức và triết học để đạt giác ngộ và giúp nhân loại diệt khổ.
Tuy nhiên, Phật giáo và khoa học không phải là không tương hợp với nhau, một Phật tử có thể là một nhà khoa học chân chính. Nhưng nếu muốn dựa vào khoa học để giải thích những hiện tượng siêu hình có lẽ là không thực tế.
1. Bản chất Tâm linhBản thể con người có hai phần, gọi nôm na là Phần xác và Phần hồn. Ngôn từ văn bản phổ thông thì gọi là Thể chất và Tinh thần, đời sống tín ngưỡng thì gọi là Thể xác và Tâm linh, Vật lý và Triết học thì phân loại là Vật chất và Ý thức. Thể xác là vật chất thì đã quá rõ ràng. Nó rõ ràng vì các chỉ tiêu sinh học, cơ thể học và Vật lý học hoàn toàn xác định và hữu hạn. Ngược lại “Thế giới Ý thức” hoàn toàn không xác định bằng bất kỳ đai lượng tuyệt đối nào, và là một “phổ” liên tục và vô định. Theo Triết học Phật giáo, cũng như hàm nghĩa sâu sắc của các khái niêm như: Phần hồn, Tinh thần, Ý chí, Tâm thể…chúng chỉ nhấn mạnh một mặt nào đó của Ý thức, chứ chưa nói lên được nội hàm của khái niệm Tâm linh. Trong Tâm linh đã hội đủ: Lòng vị tha, Đạo đức, Tinh thần, Ý chí, Linh hồn v.v..
Qua đó, ta thấy tổng thể Con người, phần Thể xác chỉ chiếm một phần nhỏ, hoàn toàn xác định, đủ để đóng vai trò “con”, còn Tâm linh mới là “Người” thì trải rộng với hàm chứa rất lớn. Con – Người là tổng thể của Thể xác – Tâm linh. Nếu mất Tâm linh chỉ còn lại Thể xác. nghĩa là nếu mất đi phần Người, thì phần Con còn lại chỉ tồn tại trong Thế giới những con vật. Nhưng, ngược lại, nếu mất Thể xác thì Tâm linh vẫn còn, nghĩa là phần Con đã chết, nhưng phần Người vẫn còn tồn tại, vẫn lưu truyền đến muôn đời sau, vẫn đậm đà trong Tâm linh của thế hệ đang sống. Đó là trường hợp các vĩ nhân, danh nhân, anh hùng dân tộc, những người đã lấy Tâm linh của mình làm điểm tựa qui tụ, làm bến đỗ cho ngàn vạn Tâm linh đồng loại, chẳng những lúc đương thời, mà còn ghi tạc soi sáng cho muôn đời sau. Với tầng lớp bình dân, người chưa làm nên vĩ nhân, dù Thể xác biến thành cát bụi thì Tâm linh vẫn còn đó, vẫn đậm đà trong Tâm linh của người thân thiết. làm cho văn hóa gia đình, dòng tộc, luôn ấm áp, thiêng liêng trong làn khói hương hoài niệm. Tuy là ảo giác. nhưng cái ảo giác ấy cũng hiện hữu như một thực tại của Thế giới các hiện tượng khác, và phiêu diêu ở một miền nào đó trong sự giàn trải của “Phổ” Tâm linh. Nó cũng hiện hữu như những hạt ảo vô định trong Thế giới các hạt cơ bản, được sinh ra từ, cái gọi là, sự nhòe lượng tử của năng lượng. Vậy là, ngay ở quanh ta đang có vô số các hạt ảo tồn tại, phù du như những bóng ma đấy thôi. Chúng xuất hiện và biến mất trong một vòng đời vô cùng ngắn ngủi. Trong đó, “cái ảo” thường xuyên tương tác với “cái thực” chúng chuyển hóa lẫn nhau, để cho “cái thực”vĩnh viễn tồn tại một cách sống động. Và càng hiện thực hơn, khác gi số ảo i tồn tại một cách hữu hiệu trong Thế giới Toán học? Nó cũng chuyển đổi cái hư ảo thành cái thực, làm nên “tòa lâu đài “ đẹp rực rỡ của hàm số phức đấy thôi.
Với khái niệm “Phổ”, bằng sự chiêm nghiệm, qui nạp, chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng, phân bố Phổ là một dang tồn tại, không chỉ dành riêng cho ánh sáng hoặc âm thanh, mà là dạng thức chuyển tiếp liên tục khá phổ biến, đối với một tính chất nào đó, của nhiều hiện tượng trong Thế giới vật chất và phi vật chất. Theo đó, nội hàm Tâm linh, cũng giàn trải liên tục như một ‘Phổ” hiện tượng: cũng từ cụ thể đi đến trừu tượng, từ thực đến ảo, từ khả giác đến huyền bí. Nghĩa là từ những gì làm nên phẩm chất kiếp Người: Lòng vị tha, Đạo đức, tinh thần, tình yêu, thù hận… cho đến tâm tưởng về một Thế giới huyền ảo, cực lạc - nơi mà hồn thiêng của Tiền nhân vĩnh viễn phiêu bồng.
Cho nên, những hiện tượng huyền bí cũng chỉ chiếm một miền hư ảo đâu đó trong nội hàm Tâm linh mà thôi. Và cũng không vì chúng thuộc về miền ảo mà ta chế giễu đó là dị đoan, Bởi một lẽ đơn giản: Thực và Ảo đều tồn tại trong một Tổng thể, Phụ thuộc lẫn nhau: “Cái này xuất hiện vì cái kia tồn tại” và chúng chuyển hóa cho nhau, như Khoa hoc và Triết học đã chứng tỏ. Hơn nữa, ngay Con Người chúng ta đã là một tổng thể của Thể xác và Tâm linh, thì cũng tức là tổng thể của Phần thực và Phần ảo đấy thôi. Tiếc thay, sự lầm lẫn đã dẫn đến một định nghĩa sai lầm, rằng Tâm linh chỉ là “Thế giới bên kia” (Thế giới của linh hồn sau cái chết). Một định nghĩa như thế, chẳng những tự phủ định chính mình, coi mình đang sống không có đời sống Tâm linh, nghĩa là một đời sống vô cảm ? ( một hệ quả hết sức phi lý), mà còn phủ một màn sương u minh vào cái phần thanh khiết nhất của phẩm chất làm Người: Cái phẩm chất làm nên sức mạnh và động lực tinh thần của một cá thể, một cộng đồng dân tộc nói riêng, và của nhân loại nói chung. Nhưng Tâm linh chỉ có thể đạt được phẩm chất đỉnh cao khi hòa chung vào cộng đồng xã hội. Ở giai đoạn này, cộng đồng xã hội hình thành một đời sống Tâm linh đặc thù, với những phẩm chất hoàn toàn mới, xuất hiện. Trong cộng đồng, nhờ có sự gắn kết, thúc đẩy nổ lực tinh thần hay suy niệm, dẫn đến một sự biến đổi sâu sắc về cách cảm nhận Thế giới và tác động vào Thế giới. Ở đây, từ cái cảm nhận chung, có tính lý thuyết, chuyển sang sự cảm nhận bằng trải nghiệm cá nhân một cách trực tiếp, đã trở thành chìa khóa của vấn đề hình thành đạo đức. Khi đạo đức là sự phản ảnh của các phẩm chất bên trong và chi phôi hành động của chúng ta, thì nó sẽ xuất hiện một cách tự nhiên trong suy nghĩ, trong lời nói và hành động của chúng ta, và trở thành nguồn cảm hứng cho những người khác trong cộng đồng. Bằng cách đó, nguồn cảm hứng sáng tạo cho ra đời Văn hóa. Tôn giáo, Khoa học. Triết học, Văn học, Nghệ thuật …Ta có thể hình dung các giai đoạn định hình Tâm linh từ dòng Ý thức, thông qua hình tượng khởi sinh và tăng trưởng của một loài cây: Chẳng hạn, Lòng đất mang trong nó sinh chất, dinh dưỡng được dẫn đi từ rễ đẻ nuôi cây, thì cũng giống như Ý thức là dòng chảy mang trong lòng nó nguyên khí nuôi dưỡng từng chiếc “rễ” Tâm linh. Còn với bộ rễ cây, cuối cùng, chúng cũng hòa nhập vào một khối vững chắc thuộc thân cây, để tiếp tục vươn cao, Thì tương tự, “Bộ rễ tâm linh” nôi kết với nhau trong đời sống tâm linh cộng đồng, như một thân cây vững chắc. Để hòa hợp với Đất-Trời, cây bắt đầu hình thành sự phân nhánh, phát triển cành chính, nhánh phụ như một mạng Fractal đích thực, Mỗi cành nhánh sẽ xuất hiện một phẩm chất hoàn toàn mới: Đó là quá trình đơm hoa kết trái. Đó là sự sáng tạo một phẩm chất mới ở cấp độ cao, và tiếp tục tồn tại hữu hình. Ở đỉnh cao hơn, dạng tồn tại siêu hình xuất hiện: Đó là mùi thơm thanh khiết của hoa tươi, quả chín phát tán vào không gian vô định. Nhưng, dù vô định đến đâu, thì cái thanh khiết ấy vẫn thuộc về cây, là một bộ phận trong cái tổng thể Cây, chứ không thể là hiện tượng tự thân tồn tại. Hoàn toàn tương tự như vậy đối với các giai đoạn tiến triển của đời sống Tâm linh cộng đồng: Sự phân nhánh do nhu cầu sáng tạo những phẩm chất mới của Tâm linh, mà Văn hóa, Tôn giáo, Nghệ thuật …, ra đời. Đó cũng là sự đơm hoa, kết quả ở cấp độ cao trong đời sống Tâm linh cộng đồng vậy. Cao hơn nữa, sự thăng hoa của Tâm linh đạt đến vùng siêu thực, huyền ảo. Và do được Văn hóa tín ngưỡng chắp cánh, sự suy niệm, như một tiềm năng được tích tụ, đến mức cái siêu thực đã có lúc le lói chuyển hóa thành cái thực bất chợt trong đời sống Tâm linh. Và, điều đó cũng không nằm ngoài nguyên lý phổ biến về Sự phụ thuộc lẫn nhau trong hiện thực Tổng thể của thế giới các hiện tượng. Bằng chứng cho vấn đề này là, nhà Thần kinh học Marian Diamond thuộc Trường Đại học California, người trực tiếp nghiên cứu bộ não của Einstein được lưu giữ lại, cho biết rằng, “một số nhà Toán học khẳng định, họ nhìn thấy các khái niệm trừu tượng Toán học, trong trường hợp trực giác xuất thần, hiển hiện một cách rõ ràng, tới mức, cứ như thể chúng tồn tại trong não, và có thể sờ mó như vật thể hữu hình vậy”.Nếu Ý thức là một dòng chảy, thì nguyên khí ban đầu của nó cũng có thể bị ô nhiễm do sư lưu nhập của vô minh. Nguyên khí không còn thanh khiết thì Tâm linh tất vẩn đục. Bằng cách này, sự lầm lạc, cái ác độc xuất hiện, Ý thức bị hằn những nếp gấp tạm thời, chúng chỉ được xua tan do lòng trắc ẩn, tự nhận thức chính mình trong quá trình tu chính. Cũng giống như dòng sông bị ô nhiễm làm hủy hoại môi trường, làm môi sinh tàn lụi. Để trở lại sự an sinh khỏe mạnh, cộng đồng cư dân phải đấu tranh, cải tạo nó. Đời sống Tâm linh cộng đồng, mang đặc thù và màu sắc khác nhau, tùy thuộc vào qui mô cộng đồng đã được ổn định: Chẳng hạn, Đời sống Tâm linh gia đình duy trì sự gắn kết “Đạo nhà” trên cơ sở huyết thống, mà đỉnh cao là Tam – tứ - đại đồng đường. Đây thực sự là tế bào của xã hội, là đơn vị nhỏ nhất và cơ bản nhất kết nôi cộng đồng xã hội thành một khối bền vững. Với qui mô vừa (Địa phương). thì sự kết tụ của đời sống Tâm linh hình thành ý niệm “Địa linh nhân kiệt”. Tại đây, thần tượng “Địa linh” hình thành và thần tượng “Nhân kiệt” được cụ thể hóa: Từ vô hình thành hữu hình, từ phi vật thể thành vật thể, trở thành di sản bảo tồn cho muôn đời sau. Với tầm quốc gia dân tộc, thì Tâm linh đã là hào khí của “Hồn thiêng Dân tộc”. Cùng với thăng trầm lịch sử, “Hồn thiêng Dân tộc” thấm sâu và gắn kết với không gian cộng đồng, tích tụ lâu ngày, phong hóa mà thành “Hồn thiêng sông núi”. Những di sản của đời sống Tâm linh, tích tụ theo chiều dày lịch sử, trở thành gốc rễ của một nền Văn hiến. Đó là “Chứng chỉ” thiêng liêng của sự trường tồn và niềm tự hào của Quốc gia – Dân tộc!2. Khoa học hay Tâm linh, đâu là sức mạnh cho một nền văn minh đích thựcTri thức phải giúp chúng ta khám phá ra bản chất của Thế giới xung quanh và bản chất của Tâm linh con người. Vậy mà, từ thế kỷ XVII đến nay, hầu như tất cả mọi người đều cho rằng, Khoa học ngày càng đồng nghĩa với Tri thức, dẫn đến xã hội vô thần, làm cho nền tảng Tôn giáo, tình yêu và lòng trắc ẩn đã bị sai lệch hết sức thảm họa. Ở Châu Âu và một số nước khác, theo truyền thống, người ta vẫn theo một Tôn giáo nào đó, song họ tỏ ra sẵn sàng tin tưởng hơn vào “ánh sáng” của Khoa học và hiệu quả của công nghệ, hy vọng sẽ giải quyết được tất cả mọi vấn đề của tương lai. Rõ ràng, họ đang chuyển từ niềm khao khát Tâm linh: “Chúa bảo vệ và chăm sóc Phần hồn”, sang sự mong muốn tiện nghi và sung túc Phần xác. Nói Tôn giáo, là Tôn giáo của đời sống Tâm linh đích thực, do nhu cầu của đời sống Tâm linh mà hình thành, tồn tại và phát triển, chứ không phải thứ Tôn giáo đã bị vướng vào vô minh trở thành công cụ của đầu cơ chính trị. Vì vậy, lương tâm chân chính sẽ cảm thấy xúc phạm, khi một nhà Vật lý đoạt giải Nobel như Steven Weinberg, cho rằng, các Tôn giáo là nguồn gốc của nhiều điều ác trên Thế giới, và ông ta phát biểu: “Có hay không có Tôn giáo, thì những người tốt vẫn xử sự tốt, và những người xấu vẫn là xấu. Nhưng chỉ có Tôn giáo mới có thể thúc đẩy những con người tốt làm điều ác. Một trong những thành tựu vĩ đại của Khoa học là, nếu không phải là làm cho việc có tín ngưỡng trở nên không thể đối với những người thông minh, thì chí ít, nó cũng cho phép họ không trở thành những người có tín ngưỡng”. Và Weinberg kể ra một số ảnh hưởng xấu của Tôn giáo: những cuộc thập tự chinh, những cuộc tàn sát người Do thái và những cuộc chiến tranh Tôn giáo khác thậm chí cả chế độ nô lệ nữa. Cũng khiêu khích không kém đối với đời sống Tâm linh Dân tộc, khi một vị Giáo sư tên tuổi, tưởng như rất gắn bó với người dân Việt Nam. kiến nghị rằng nên xóa bỏ cái tết Nguyên đán, ăn theo tết Tây để hòa nhập vào “nhịp điệu thời gian” của cái gọi là Toàn cầu hóa!Nếu Weinberg quên kể ra tất cả những điều xấu mà Khoa học, vì được áp dụng không đúng, vì phục vụ cho lòng tham lam ích kỷ, đã gây ra cho nhân loại và cho bầu sinh quyển của hành tinh chúng ta, thì vị Giáo sư kia, lẽ nào chỉ muốn làm ra thóc gạo để ăn no và bán được nhiều tiền, chứ không muốn tốn tiền để làm sáng lên giá trị đạo đức truyền thống, đậm đà bản sắc con người Việt nam trong hội nhập, trước cộng đồng Thế giới?Dĩ nhiên, vấn đề không phải ở chỗ kết tội nhà khoa học này hay ca ngợi nhà khoa học kia, mà điều quan trọng chính là sự thiếu vắng mối quan hệ giữa thiên tài khoa học và các giá trị nhân bản mới là điểm có vấn đề. Cho nên cần phải có sự điều chỉnh, đặt lại Khoa học vào đúng vị trí của nó, đặt nó trong một viễn cảnh rộng lớn hơn của cuộc sống, và đặt ra một cách gay gắt hơn vấn đề về mục đích sử dụng Khoa học. Nhiều nhà khoa học tự khoát cho mình chiếc áo trung lập, rằng công việc của họ là khám phá và phát hiện, rằng việc sử dụng các phát minh Khoa học không thuộc phạm vi trách nhiêm của Khoa học. Quan điểm mơ hồ này cho thấy một khoảng trống lớn về giá trị nhân bản của Khoa học, mà trong đó, cái ác gây ra thảm họa sẽ nảy mầm. đặc biệt là trong điều kiện sự đan xen nhau giữa Khoa học, quyền lực và kinh tế, không còn ranh giới rõ ràng nữa trong xã hội ngày nay. Ngày nay, Khoa học đứng trước nhiều vấn đề về đạo đức có tầm ảnh hưởng sẽ lớn hơn nhiều trong thế kỷ XXI: Phổ biến vũ khí hạt nhân, tàn phá môi trường, nhân bản vô tính, biế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- triet_ly_phat_giao_3738.doc