Tư tuởng triết học Trần Thái Tông

Từ sự kế thừa quan điểm “tâm ấn” của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và “tâm

địa” của thiền phái Vô Ngôn Thông, Trần Thái Tông đã kết hợp và xây dựng

nên quan điểm “tâm hư không” của mình. Trong đó, một mặt, “tâm không” là

hướng đến cái vô biên của tâm thể vũ trụ bao trùm vạn pháp, là bản nguyên của

vạn pháp; mặt khác, “tâm hư” là hướng đến cái chủ quan nội tại, ẩn tàng mà

chiếu diệu bên trong con người. Quá trình tu đạo cũng chính là để trở về với bản

tâm trong trắng nguyên xưa của mỗi chúng sinh, xóa bỏ hết mọi vô minh, vọng

niệm và cũng là để đạt đến trạng thái “tâm hư”. Con đường cầu pháp ấy được

Trần Thái Tông dung hợp giữa hai đường lối đốn ngộ và tiệm ngộ, phù hợp với

căn tính từng người chứ không cứng nhắc, máy móc, cũng không lửng lơ phó

mặc cho hành giả tự cầu tìm.

pdf13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2027 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tuởng triết học Trần Thái Tông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TƯ TUỞNG TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TÔNG DOÃN CHÍNH(*) NGUYỄN NGỌC PHƯỢNG(**) Bài viết phân tích triết học Phật giáo Trần Thái Tông trên ba khía cạnh cơ bản: bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan. Theo các tác giả, Trần Thái Tông không chỉ là một vị vua anh hùng dám xả thân vì nghĩa và vì quốc gia xã tắc, mà còn là một triết gia với những tư tưởng độc đáo, đặc sắc về triết học Phật giáo. Trong đó, chúng ta phải đặc biệt kể đến sự kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước với tinh thần nhập thế cao cả, đem đạo vào đời để cứu dân độ thế của ông. Giá trị của tư tưởng triết học Trần Thái Tông không chỉ là chấm dứt sự tản mát về tư tưởng giữa các dòng thiền cuối thời Lý, mà còn là một trong những tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trong sự tiến triển nội tại của Thiền tông Việt Nam, triết học Trần Thái Tông ra đời không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà có cội nguồn sâu xa từ đặc điểm của lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XII - XIII và là sự kế thừa những yếu tố của các dòng thiền trước đó, như thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), thiền phái Vô Ngôn Thông, thiền phái Thảo Đường. Những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội cuối thời Lý - đầu thời Trần đã làm nảy sinh một đòi hỏi là cần phải có sự thống nhất về mặt chính trị - xã hội; và tương ứng với đó là sự biến đổi và thống nhất về mặt tư tưởng. Nếu trọng trách thứ nhất do Trần Thủ Độ đảm nhiệm, thì trọng trách thứ hai do Trần Thái Tông đứng ra gánh vác. Đây cũng chính là lý do khiến cho đến thời Trần, cả ba thiền phái thời Lý là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường gần như biến mất và cùng với đó, học thuyết Không hư của Trần Thái Tông với Khóa hư lục nổi tiếng ra đời. Đó là một học thuyết tương đối hoàn chỉnh và chặt chẽ, bao gồm cả bản thể luận, nhận thức luận và triết lý đạo đức - nhân sinh; là sự tổng hợp, dung hòa các yếu tố Thiền, Tịnh, Nho và Lão, trên cơ sở nòng cốt là Thiền, tạo nên một bước phát triển mới cho thiền học Việt Nam(1). Về bản thể luận, không nằm ngoài điểm cốt yếu và khuynh hướng chung của thiền học, Trần Thái Tông cũng lấy cái tâm làm điểm xuất phát cho tư tưởng của mình; và trên cơ sở luận giải về cái tâm ấy, ông đào sâu, tìm kiếm lời giải đáp cho những vấn đề triết học khác, như “ngộ”, “kiến tính”, “sinh tử”, “giải thoát”, “Niết bàn”... Tâm này là cái tâm ban đầu, mà trong học thuyết của mình, Trần Thái Tông thường gọi nó bằng khái niệm không, hư. Theo ông, bản thể, khởi nguyên, cội nguồn của vũ trụ, của vạn vật chính là không (Sunya, 空), hư (akasa, 虛?). Không chính là hư và ngược lại, hư cũng là không; có điều, không bao trùm tất cả, hướng đến cái khách quan bên ngoài con người, tức vũ trụ chưa từng sinh diệt, còn hư là sự thể hiện của không trong tâm mỗi người, tức là hướng đến mặt chủ quan bên trong. Trong Phổ thuyết tứ sơn, Trần Thái Tông viết: “Do không khởi vọng, vọng thành sắc, sắc tự chân không. Thị vọng tòng không, không hiện vọng, vọng sinh chúng sắc”(2). Theo Trần Thái Tông, từ không xuất hiện vọng (không khởi vọng, không hiện vọng). Sự xuất hiện của vọng từ không làm liên tưởng đến hình ảnh mặt nước hồ vốn phẳng lặng, yên ả, bỗng một làn gió thổi qua làm gợn lên vô vàn những con sóng lăn tăn; sự xuất hiện của những con sóng ấy chính là vọng từ không mà sinh khởi. Vọng (妄?) ở đây được hiểu là cái xuyên tạc, ảo ảnh, hư dối, huyễn hoặc, lầm lẫn, không đúng sự thật, là vô minh (無明?). Vô minh, theo bản thể không, cũng là vọng tòng không, không hiện vọng. Từ vọng sinh chúng sắc, cũng có nghĩa là từ vô minh sinh ra thế giới hình danh sắc tướng. Ở Trần Thái Tông, vọng không chỉ là nguyên nhân làm xuất hiện thế giới hiện tượng mà ngay cả con người và các sinh vật cũng đều do vọng sinh ra, ông viết: “Tri kỳ chúng sinh huyễn cấu, tòng vọng nhi sinh”(3), có nghĩa là chúng sinh được cấu tạo một cách ảo ảnh, theo vọng mà sinh ra. Nhưng, ở con người, vọng còn là niệm. Nếu như ở trên, vọng là nguyên nhân xuất hiện của thế giới hiện tượng, thì niệm là nguyên nhân xuất hiện của cái ngã, tức con người cá nhân. Niệm không còn dừng lại ở góc độ một hoạt động diễn ra nơi tâm thức con người nữa, mà với Trần Thái Tông, niệm được kiến giải từ cái nhìn bản thể luận. Từ bản thể nguyên sơ, thái hư ban đầu, niệm khởi hiện, cùng sự nhóm tụ của tứ đại và ngũ uẩn mà sinh ra sự dối lầm nơi thể mạo con người. Nếu như do niệm khởi mà con người phải chịu cảnh ngụp lặn, nổi trôi trong vòng luân hồi sinh tử triền miên, thì để giải thoát, Trần Thái Tông quan niệm rằng, cần phải thủ tiêu niệm để đạt tới cái tâm vô niệm. Chỉ có ai biến tâm của mình thành vô niệm thì mới vượt lên được vòng sinh tử luân hồi, nghiệp báo. Ở Trần Thái Tông, bản thể còn là Phật tính (buddha-svabhava, 佛 性), cũng được gọi là chân như, tức cái tính chân thực, chưa hề biến cải, chẳng sinh chẳng diệt, là mầm thiện, mầm giác ngộ sẵn có ở mỗi người. Phật tính còn được Trần Thái Tông gọi bằng nhiều tên khác nhau, như bát nhã thiện căn, bồ đề giác tính, bản lai diện mục, bản tâm, tâm Phật, pháp thân… Điểm độc đáo ở Trần Thái Tông là đã đưa ra cách lý giải mới về sắc thân con người trên cơ sở kế thừa khuynh hướng hòa đồng, dung hợp tư tưởng giữa Phật giáo với Nho giáo và triết lý Âm dương. Điều này thể hiện khá rõ nét trong Phổ thuyết tứ sơn. Ông viết: “Gửi hình hài ở tinh anh cha mẹ, nhờ thai nghén nuôi dưỡng ở khí âm dương. Hơn hết tam tài mà đứng giữa”(4). Đồng thời cho thấy, dù trên cơ sở kế thừa, hợp nhất những quan điểm đã có từ trước, Trần Thái Tông vẫn thể hiện một sự sáng tạo, độc đáo riêng có của mình chứ không lệ thuộc vào lối mòn của kinh sách. Chỉ có ai nhận thức được thực tướng vô tự tính của vạn pháp và lý vô ngã của con người thì mới đạt đến trạng thái thấu suốt tâm hư, tức giác ngộ và giải thoát. “Tâm hư” là để chỉ trạng thái tĩnh lặng, rỗng không, tuyệt đối không vọng động, đã tẩy sạch mọi dục vọng, ham muốn đời thường đeo bám, có thể ví như chiếc gương soi chẳng dính chút mảy may bụi bặm. Tóm lại, mặc dù học thuyết Không hư của Trần Thái Tông ra đời trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của các thiền phái đã tồn tại trước đó, nhưng ông không dừng lại ở sự kế thừa ấy mà quan trọng hơn là, trên cơ sở những gì đã có, ông đã làm phong phú, sâu sắc hơn và đưa ra nhiều kiến giải mới mẻ, độc đáo hơn trong nhiều khái niệm cơ bản, thiết yếu của thiền học, như không, hư, tâm, tâm Phật, pháp tính, pháp thân, bồ đề giác tính, bản tâm, bản lai diện mục, chân như, chân tể, vọng, niệm… Qua đó, chúng ta có thể thấy được sự đa dạng, phổ quát, giàu tính lý luận trong tư tưởng triết học của ông. Có thể nói, trước Trần Thái Tông, chưa có nhà tư tưởng nào xây dựng nên học thuyết của mình với mức độ khái niệm học thuật nhiều và giàu về nghĩa như ông đã làm. Từ sự kế thừa quan điểm “tâm ấn” của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và “tâm địa” của thiền phái Vô Ngôn Thông, Trần Thái Tông đã kết hợp và xây dựng nên quan điểm “tâm hư không” của mình. Trong đó, một mặt, “tâm không” là hướng đến cái vô biên của tâm thể vũ trụ bao trùm vạn pháp, là bản nguyên của vạn pháp; mặt khác, “tâm hư” là hướng đến cái chủ quan nội tại, ẩn tàng mà chiếu diệu bên trong con người. Quá trình tu đạo cũng chính là để trở về với bản tâm trong trắng nguyên xưa của mỗi chúng sinh, xóa bỏ hết mọi vô minh, vọng niệm và cũng là để đạt đến trạng thái “tâm hư”. Con đường cầu pháp ấy được Trần Thái Tông dung hợp giữa hai đường lối đốn ngộ và tiệm ngộ, phù hợp với căn tính từng người chứ không cứng nhắc, máy móc, cũng không lửng lơ phó mặc cho hành giả tự cầu tìm. Về nhận thức luận, xuất phát từ quan điểm cho rằng bản nguyên, cội nguồn của vũ trụ, của vạn vật, trong đó có con người, đều từ cái tâm (không, hư) mà ra, đối tượng nhận thức trong triết học Trần Thái Tông hướng vào tâm, nhận thức cái tâm trong con người, chứ không nhận thức sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan bên ngoài. Từ cái chân tâm ban đầu ấy, do vô minh, vọng niệm khởi mà xuất hiện ta - vật, tâm - cảnh, tức xuất hiện cái ngã và thế giới hình danh sắc tướng bên ngoài. Trần Thái Tông đã diễn đạt tư tưởng này của ông qua câu: “Xúc tâm trần cạnh khởi”(5). Tâm con người hiện tại đã trải qua biết bao kiếp luân hồi sinh tử, bị tạp nhiễm, vẩn đục, mờ tối. Vấn đề đặt ra là phải trở về với cái tâm bản lai, thanh tịnh, nguyên sơ ấy. Cho nên, ở Trần Thái Tông, mục đích nhận thức là kiến tính (見â 性, tức là thấy được tính Phật, Phật tính ở trong tâm). Trong Luận về tọa thiền, Trần Thái Tông viết: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản tính”(6). Ông cho rằng, những ai đã lĩnh hội được Phật tính nơi mình rồi thì người đó không còn tạo nghiệp nữa. Bởi lẽ, chính tâm vô minh, vọng động là nguyên nhân tạo tác của nghiệp, nhưng khi con người đã tìm lại được chân tâm, bản tính của mình, đã biến tâm mình thành tâm Phật rồi thì lẽ tất nhiên là người đó sẽ không còn tham, sân, si; tâm sẽ trở nên thanh tịnh, trong sáng bản nhiên, nên không còn tạo nghiệp nữa, do vậy họ cũng không còn tái sinh trong vòng luân hồi sinh tử. Thực chất, kiến tính là một sự trở về; trở về với quê hương bản tâm nguyên sơ, tĩnh lặng mà thuần khiết của mỗi chúng sinh. Và, giải thoát theo triết lý thiền ở đây chẳng gì khác hơn chính là sự tỉnh thức tuyệt đối, cao độ, vượt lên mọi chấp trước và lầm kiến, để hiện hữu tràn đầy và sống trọn vẹn cho hiện tại: bây giờ và nơi đây - trong cái hữu hạn của cuộc đời và cái vô hạn của bản nguyên trạm tịch (湛寂, hư không, tuyệt đối, thanh tịnh, vắng lặng). Đặc điểm nhận thức trong triết học Trần Thái Tông là nhận thức trực giác. Nhận thức trực giác là sự nhận thức không cần đến sự suy xét, kinh nghiệm hay bất cứ sự phân tích nào của tư duy, lý trí, mà nó là sự nhận biết trực tiếp, trọn vẹn đối tượng, không thông qua khâu trung gian nào. Theo Trần Thái Tông, sự hiểu biết do trực giác mang lại đó là sự thấu suốt tuyệt đối, vượt lên mọi lầm kiến, giới hạn của nhận thức thông thường; đó cũng là lúc đạt đến trạng thái giác ngộ, mà theo cách nói của Trần Thái Tông là: “Thấy sinh niệm vì vọng niệm mà mờ, khơi thủy giác cho bản giác có 1ợi… Chuyển về hết mọi vọng tâm, tiếp nhận Như lai tạng thức”(7). Về phương pháp nhận thức, quan điểm của Trần Thái Tông là dung hòa giữa đường lối đốn ngộ và tiệm ngộ. Ông đã hết lòng chuyên tâm xây dựng nên cả một hệ thống tu tập cho phù hợp với tính căn riêng của từng người, bao gồm cả thuật vấn đáp và niêm tụng kệ kết hợp với niệm Phật, tọa thiền, thực hiện giới - định - tuệ và sám hối. Trong giới tu hành giữa thầy và trò trong thiền môn, Trần Thái Tông chủ trương dùng phương pháp vấn đáp và niêm tụng để giúp họ mau chóng đi đến giác ngộ. Trong đó, niêm tụng là hình thức vấn đáp gồm có ba phần: cử, niêm, tụng. Cử thường là đặt ra một vấn đề nào đó, niêm là phần nêu lên ý kiến để giải quyết vấn đề đặt ra, còn tụng là tóm tắt toàn bộ kiến giải của mình và cô đọng lại thành một bài kệ để học trò đọc tụng. Đây là cách thức thuộc pháp môn đốn ngộ mà người thầy thăm dò căn cơ của môn đồ mình đạt đến đâu, quan trọng hơn là để thực hiện “dĩ tâm truyền tâm”. Truyền tâm ấn cốt ở chỗ người thầy đắc đạo giúp người trò phạt hết cỏ dại, xóa bỏ hết vô minh, vọng động, để Phật tính vốn có trong tâm mỗi người hiển lộ ra. Trên tinh thần tổng hợp các thiền phái trước đó, Trần Thái Tông còn đưa ra một phương pháp hành thiền khác, đó là sự kết hợp giữa trì giới, niệm Phật, tọa thiền với sám hối theo pháp môn tiệm ngộ. Bước đầu tiên trên đường tu tập, hành giả phải thực hiện trì giới theo trình tự tam học. Tiếp nối truyền thống của các thiền sư thời Lý, Trần Thái Tông đã nhấn mạnh vai trò của niệm Phật trong Tịnh độ giáo trong việc tu tập thiền định. Nhưng, điểm đặc biệt trong quan điểm thiền của Trần Thái Tông là ông đã đưa ra một cách giải thích mới về thiền. Ông đã chia thiền ra thành tứ thiền, đó là: “Loại thứ nhất, dùng kế lạ làm vui người trên, làm chán kẻ dưới mà tu hành, đó là ngoại đạo thiền. Loại thứ hai, hết lòng tin ở nhân quả, nhưng cũng lấy việc làm vui, gây chán mà tu thì đó là phường phàm phu thiền. Loại thứ ba, hiểu rõ cái lẽ cuộc sống là không, chứng riêng được đạo chân chính mà tu hành, thì đó là tiểu giáo thiền. Loại thứ tư, hiểu rõ người và pháp đều không mà tu hành, đó là đại giáo thiền”(8). Điều này thể hiện ý nguyện của Trần Thái Tông muốn cho tư tưởng triết học của mình được đông đảo người bình dân Việt Nam tiếp nhận. Ông đã hết lòng chuyên tâm xây dựng nên một hệ thống tập luyện mới, lấy sám hối làm phương tiện để tẩy rửa hết mọi dơ bẩn trong tâm của con người. Hệ thống tập luyện đặc sắc này có tên là Lục thì sám hối khóa nghi. Trong nội dung hệ thống tập luyện của mình, Trần Thái Tông chia ngày đêm mười hai giờ ra làm sáu phần, hay sáu thì. Mỗi thì này dùng để sám hối một căn. Buổi sáng sám hối tội nhãn căn, buổi trưa sám hối tội nhĩ căn, chiều tối sám hối tội tị căn, đầu đêm sám hối tội thiệt căn, nửa đêm sám hối tội thân căn, cuối đêm sám hối tội ý căn. Nhìn chung, nghi thức của mỗi phần thường diễn ra theo trình tự nhất định, mang chiều sâu tâm linh với ý nghĩa thực tiễn tôn giáo tao nhã, nhằm mục đích luôn giữ mình trong trạng thái tỉnh thức, tự nhắc nhở mình về mầm Phật tính chưa từng sinh diệt trong tâm mỗi người, như kệ dâng hương, kệ dâng hoa, văn khải bạch, kệ sám hối, kệ khuyến thỉnh, kệ tuỳ hỷ, kệ hồi tưởng, kệ phát nguyện và kệ vô thường. Như vậy, có thể nói, giá trị độc đáo về mặt nhận thức luận mà Trần Thái Tông để lại cho hậu thế chính là sự tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng trước ông và cải biến cho phù hợp, đáp ứng nhu cầu xã hội đặt ra, đồng thời vẫn thể hiện chính kiến riêng của mình trong nhiều vấn đề luận bàn đến, tiêu biểu như các chủ đề về kiến tính, trì giới, niệm Phật, tọa thiền, niêm tụng, sám hối, giác ngộ, thực nghiệm tâm linh, tứ thiền, tam học, giác ngộ, giải thoát và tư tưởng tam giáo đồng nguyên v.v.. Đặc điểm này đã góp phần thể hiện tính đa dạng và sự thống nhất trong tư tưởng thiền học Trần Thái Tông. Còn Lục thì sám hối khoá nghi của Trần Thái Tông thể hiện một sự sáng tạo độc đáo, đóng góp của nó vào kho tàng Thiền học là ở chỗ, nó mang tính trang trọng nhưng gần gũi, giản dị, có nhiều điểm tương đồng với tục thờ cúng tổ tiên ăn sâu trong tâm thức người Việt từ bao đời nay. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể thấy rằng, Trần Thái Tông rất chú trọng đến khía cạnh nghi thức trong thực tiễn tôn giáo sao cho dễ thực hiện cả với bậc trí thức lẫn người bình dân, nhằm rũ sạch mọi phiền muộn, chấp trược nơi thân ý, luôn giữ mình ở trạng thái tỉnh thức, hướng tới sự thanh khiết thân tâm, thôi thúc con người vươn đến cái thiện, cái mỹ cao cả trong cuộc sống. Về triết lý nhân sinh, trên nền tảng tâm học, lấy cái tâm làm xuất phát điểm cho bản thể luận và nhận thức luận trong triết học của mình, Trần Thái Tông còn dành nhiều tâm trí cho vấn đề triết lý nhân sinh - đạo đức, điều này được thể hiện trong hầu khắp các trước tác của ông. Trên cái nền của duy thức Đại thừa duyên khởi luận, Trần Thái Tông quan niệm rằng, do nơi biến kế sở chấp tánh, tức là tánh hư vọng chấp dính sai lầm của tâm con người, quên thực quên gốc, không nhận thức được rằng vạn pháp vô tự tính, chẳng có cái nào gọi là có tự tính riêng biệt cả, mà tất cả đều do nơi nương náu, giả hợp của nhân duyên mà ra. Nếu hành giả nhận thức được thực tính của vạn pháp là không, thì thực ra hoàn toàn không có cái gọi là sinh, là hóa. Chỉ do con người không thấu suốt được điều đó nên mới vướng mắc vào chuỗi cùng tận của hóa hóa, sinh sinh. Kế thừa tư tưởng Kinh Bát nhã về chủ đề nhân vô ngã, pháp vô ngã đã có từ các thiền sư thời Lý, Trần Thái Tông quan niệm rằng, vạn pháp (trong đó có con người) hoàn toàn không có tự tính riêng biệt, tất cả đều do nhân duyên kết hợp mà nên hình, nên tướng. Chẳng qua, do con người không nhận thức được y tha khởi tính của mọi pháp đều do nhân duyên mà có, nên dẫn đến vọng tưởng điên đảo, lầm sinh, sa vào chấp ngã, vị kỷ, tạo nghiệp ác để thỏa mãn ái dục mong cầu. Trong triết lý nhân sinh của Trần Thái Tông nổi bật lên quan điểm pháp môn bất nhị. Đó chính là tinh thần phá chấp triệt để, vượt lên mọi giới hạn, khuôn khổ của nhận thức thông thường, siêu việt hữu vô, văn tự, để trực kiến vào tận chân bản thể của vạn pháp và chúng sinh. Về sau, tinh thần này được Tuệ Trung Thượng Sĩ và Phật Hoàng Trần Nhân Tông nâng lên thành cả một yếu chỉ trong nghệ thuật hành thiền. Chỉ khi nào hành giả nhìn ra được bản tâm của mình thì sẽ tỉnh ngộ rằng, nam - nữ, tăng - tục, tam giáo cũng đều có điểm tương đồng ở tâm con người mà ra. Quan điểm này của Trần Thái Tông phản ánh tư tưởng tam giáo đồng nguyên - một truyền thống đã có ở nước ta ngay từ buổi đầu du nhập tam giáo. Trên nền tảng tâm học, Trần Thái Tông đã làm sâu sắc hơn cơ sở cho sự đồng quy này của tam giáo Nho - Phật - Đạo. Đây vừa là sự kế thừa, vừa là sự phát triển tư tưởng đã được ươm mầm trước đó. Là một nhà thiền học có bản lĩnh, Trần Thái Tông không dừng ở sự kế thừa lặp lại tư tưởng của đời trước, mà ở ông luôn có sự khát khao sáng tạo nên những giá trị mới, vừa mang hơi thở cuộc sống, vừa phù hợp với tinh thần dân tộc. Trần Thái Tông đã có một bước phát triển mới khi ông đi từ quan điểm về “chân Phật” sang quan điểm về “hoạt Phật” - tức Phật sống. Đây là một nét mới chưa từng có trong Phật giáo Việt Nam trước đó. Từ quan điểm “tâm bình thường thị đạo” ở Quốc sư Trúc Lâm, Trần Thái Tông đã phát triển lên thành yếu chỉ của cái tâm “tồn nhi bất tri” - sống hài hòa giữa cuộc đời, vui cái vui của đạo, hành cái hành của bổn phận thế sự, chẳng còn ranh giới nào nữa giữa việc khoác lên mình chiếc long bào hay chiếc áo nâu sồng, giã biệt mọi đối đãi thị phi, ấy là ngộ đạo, ấy là hoạt Phật. Quan điểm hành thiền tại thế mà Trần Thái Tông đề cập ở đây là đem đạo vào đời, là dụng cái thâm diệu của đạo vào tận cái hoạt của thế sự muôn màu, để hóa thân một cách tràn đầy và sinh động. Đối diện với vấn đề sinh tử, người đạt ngộ chẳng chút mảy may sợ sệt, cái chết đối với họ nhẹ tựa lông hồng, không còn dừng lại ở sự loay hoay coi sinh tử là vấn đề trọng đại nữa, mà vượt lên đó, xem nó như lẽ tự nhiên, thường tình của đời người. Trần Thái Tông cũng lấy tâm làm nền tảng để xây dựng nên quan niệm về đạo đức của mình. Mọi vấn đề thiện, ác đều được ông lý giải xoay quanh cái tâm ấy, ông viết: “Phàm tâm là gốc của thiện ác”(9). Với quan niệm lấy giới làm điểm khởi đầu cho mọi quá trình tu dưỡng đạo đức, Trần Thái Tông đã viết năm bài luận bàn về các giới, gồm: Văn răn sát sinh, Văn răn trộm cắp, Văn răn ham sắc, Văn răn nói càn và Văn răn uống rượu. Toàn bộ nội dung của năm bài Văn răn ngũ giới được Trần Thái Tông viết nhằm mục đích khuyên răn người đời không nên sát sinh hại vật, tham lam của cải, sắc đẹp, rượu nồng thịt béo, công danh phú quý… mà dẫn đến trộm cướp, hãm hại người khác, khinh vua, ghét cha, nhạo tăng, chửi Phật… Ông kêu gọi mọi người nên tích cực làm việc thiện, bố thí cho kẻ nghèo khó, thương yêu người khác, tôn trọng phép nước, kính cha thờ chúa… Trần Thái Tông quan niệm rằng, đây không những là các giới luật mà người tu hành phải nghiêm túc tuân thủ, mà còn là những chuẩn mực đạo đức thiết yếu mọi người cần thực hiện để giữ gìn sự đứng đắn, trong sạch của thân tâm. Trong tư tưởng về đạo đức của Trần Thái Tông, bên cạnh những quan niệm về đạo đức, luân lý thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp, hướng con người đến cái thiện trong cuộc sống, còn có một số ý được lồng vào ngụ ý răn đe cả giới quý tộc, tôn thất lẫn giới bình dân cấm phạm vào các tội phương hại đến lợi ích quốc gia, muốn điều hòa mâu thuẫn giai cấp. Tựu trung lại, về mặt nhân sinh - đạo đức, Trần Thái Tông đã tập trung vào việc giải quyết các vấn đề như vô thường, sinh tử, khổ, giải thoát, Niết bàn…; ông đã làm sâu sắc thêm, phát triển triết lý hành động nhằm đưa ra một con đường mới để đi đến giác ngộ của Phật giáo Việt Nam, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu nước với tinh thần nhập thế cao cả. So với các thiền sư thời Lý, Trần Thái Tông đã có bước phát triển mới hơn ở chỗ coi sinh tử không còn là vấn đề mang tính thuần lý, cao siêu, trừu tượng nữa, mà nó chính là bản thân cuộc sống thực của mỗi người, với thái độ tự tại, ung dung, hài hòa giữa vật và tâm ta. Thái độ sống không lầm sinh tử này đã được Trần Thái Tông nâng lên thành một phương châm độc đáo: “sống thiền” - vui với cái vui của sự hiểu biết chân thực, hòa với cái vô cùng tận của cuộc đời để xác lập nên một con đường đi đến giác ngộ của thiền học Việt Nam, như lời Quốc sư đã khai sáng: “Phàm vi nhân quân giả, dĩ thiên hạ chi dục vi dục; dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm”(10). Đó là con đường cứu dân độ thế, đem đạo vào đời chứa đựng ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Trong học thuyết Không hư của Trần Thái Tông nổi bật lên những giá trị thiết thực về phương diện đạo đức, thể hiện ở tấm lòng khuyên răn mọi người tích cực hành thiện, tránh ác, theo giữ giới luật, tiết dục, kiểm soát thân tâm nhằm giữ cho pháp thân trong sạch, sống có ích cho đời dựa trên triết lý nhân quả báo ứng trong Phật giáo. Điều này có ý nghĩa to lớn ở chỗ, nó định hướng cho việc tạo lập một xã hội tốt đẹp dựa trên nền đạo đức từ bi của Phật giáo, đảm bảo cho nền thái bình thịnh vượng của quốc gia, dân tộc. Những giá trị học thuật trên đóng vai trò là một trong những tiền đề tư tưởng cho sự ra đời và phát triển của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử sau này. Như vậy, có thể nói, tư tưởng triết học Trần Thái Tông đã thực sự đáp ứng được đòi hỏi bức thiết về một hệ tư tưởng làm chỗ dựa tinh thần vững chắc cho dân tộc trong giai đoạn đầy những biến động sâu sắc của buổi giao thời chuyển từ nhà Lý sang nhà Trần; từ đó thu về một mối, chấm dứt sự tản mác về tư tưởng giữa các dòng thiền cuối thời Lý trong đời sống tinh thần của xã hội. Quan trọng hơn cả là, ông đã tạo nên được sự thống nhất cao độ giữa giai cấp cầm quyền với nhân dân và toàn dân tộc đủ sức để bảo vệ nền độc lập, tự chủ lâu dài cho đất nước. Bên cạnh đó, sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa tư tưởng Phật giáo với chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng triết học Trần Thái Tông đã tạo nên nét độc đáo về tinh thần nhập thế, đem đạo vào đời để cứu dân độ thế; chứng tỏ Phật giáo đã hoàn thành xuất sắc vai trò chủ thể trong nguồn lực nội sinh tiềm tàng của văn hóa dân tộc thời đại nhà Trần trước mọi gian nguy, thử thách khắc nghiệt vẫn tỏ rõ bản lĩnh, cốt cách vững chãi của mình, đủ sức chuyển hóa sức mạnh tinh thần thành nguồn sức mạnh vật chất vô biên. Trong học thuyết của mình, Trần Thái Tông không dừng lại ở lý thuyết suông, nặng tính tư biện, mà vượt lên đó, ông đã đem thể nghiệm những nguyên tắc ấy vào chính công cuộc an dân trị nước của mình, tiếp nối truyền thống xây dựng một nền chính trị chú trọng từ bi, khoan dung, độ lượng, coi đó là cơ sở cho đạo trị nước. Về đạo, ông đã có công rất lớn trong việc xiển dương Phật pháp, nâng đỡ, chỉ bảo kẻ sơ cơ. Về đời, ông là một vị vua anh hùng, dám xả thân vì nghĩa, vì quốc gia xã tắc, đã chung tay góp sức gây dựng cơ đồ, khai sáng cả một triều đại mang tầm vóc lịch sử. Triết lý hành động, tinh thần nhập thế của Trần Thái Tông còn thể hiện rõ bằng những hành động thiết thực đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn và cũng chính là để thỏa lòng mong đợi của muôn dân. Trần Thái Tông còn tạo nên một giá trị thực tiễn khác nữa là tiếp tục góp phần kiến tạo nên mạch nguồn về vai trò của Phật giáo và sự đồng quy hài hòa giữa tam giáo, làm nên những nét đẹp thiết yếu của bản sắc văn hóa trong chiều sâu tâm thức dân tộc, để lại một ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài đến các giai đoạn phát triển về sau của dân tộc.r (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh. (**) Thạc sĩ, cán bộ giảng dạy, Trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh. (1) Xem thêm: Nguyễn Hùng Hậu. Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, t.1, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2002. (2) Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần, t.2. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.42. (3)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftriet_hoc_97__8413.pdf
Tài liệu liên quan