Lời Mở Đầu 1
A.CƠ SỞ LÍ LUẬN 2
1.Tỷ giá 2
2.Các loại tỷ giá 3
2.1.Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và Tỷ giá hối đoái thực tế 3
2.2.Tỷ giá hối đoái song phương và Tỷ giá hối đoái hiệu lực 3
3.Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá. 3
3.1 Lạm phát 4
3.2.Thuế quan và hạn ngạch 6
3.3.Thu nhập 7
3.4.Lãi suất 8
3.5.Sự vận động của luồng vốn quốc tế 8
3.6. Những dự tính về sự biến động của tỷ giá 9
3.7. Giá thế giới của hàng hóa xuất nhập khẩu: 10
3.8. Các nhóm nhân tố khác 10
B.THỰC TIỄN 12
1.Diễn biến tỷ giá tại Việt Nam 12
2.Sự can thiệp của Ngân hàng nhà nước 17
3.Dự đoán tỷ giá sắp tới 18
4.Nhân tố tác động đến tỷ giá ở Việt Nam 18
Danh mục tài liệu tham khảo: 26
27 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1451 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tỷ giá hối đoái song phương và Tỷ giá hối đoái hiệu lự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảm giá.
Mặc dù, thuế quan và hạn ngạch tác động tới tỷ giá là cùng chiều nhưng thuế quan tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng; trong khi đó hạn ngạch tạo ra sự phân biệt đối xử, môi trường cạnh tranh không bình đẳng, là nguyên nhân chính tạo ra khe hở trong quản lý và môi trường cho tiêu cực.
b.Thuế quan và hạn ngạch (QUOTA) ở nước ngoài:
Nếu nước ngoài (Mỹ) tăng mức thuế quan hoặc áp dụng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu vào nước này thì làm tăng giá của hàng hóa đó => nhu cầu về hàng nhập khẩu tại Mỹ giảm => nhu cầu đổi tiền từ đồng ngoại tệ ( USD) sang đồng nội tệ của nước XK giảm làm cho cung ngoại tệ tại nước XK giảm => tỷ giá tại nước này tăng => đồng nội tệ mất giá.
Ngược lại nếu một quốc gia giảm mức thuế quan hoặc dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu thì làm giảm giá của hàng nhập khẩu => nhu cầu đổi tiền từ đồng ngoại tệ ( USD) sang đồng tiền nước xuất khẩu tăng cho nên cung ngoại tệ tại nước XK tăng => tỷ giá tại nước đó tăng => đồng nội tệ lên giá.
Giả dụ: Việt Nam áp đặt một loại thuế hoặc hạn ngạch đối với ô tô của Nhật những hàng rào này làm tăng cầu về ô tô Việt Nam, và đồng Việt Nam có xu hướng tăng giá.
Thuế quan và hạn ngạch về lâu dài làm cho đồng tiền của một nước tăng giá.
3.3.Thu nhập
a.Thu nhập (thực) của người cư trú và người không cư trú:
Thu nhập của người cư trú tăng tương đối so với thu nhập của người không cư trú thì kích thích nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào trong nước => nhập khẩu ròng tăng => làm tăng cầu ngoại tệ => tỷ giá tăng => đồng nội tệ mất giá.
Ngược lại, thu nhập của người không cư trú tăng tương đối so với thu nhập của người cư trú thì kích thích xuất khẩu hàng hóa trong nước ra nước ngoài => xuất khẩu ròng tăng => làm giảm cầu ngoại tệ =>tỷ giá giảm => đồng nội tệ lên giá.
b.Các khoản thu và các khoản chi của người không cư trú:
Các khoản thu và chi đối với người không cư trú trong cán cân chuyển giao như từ thiện, biếu tặng, kiều hối
Các khoản thu từ người không cư trú được ghi (+) lớn hơn các khoản chi cho người không cư trú ghi (-) => cán cân chuyển giao ròng dương => làm tăng cung ngoại tê => tỷ giá giảm => đồng nội tệ lên giá.
Ngược lại, các khoản thu từ người không cư trú được ghi (+) nhỏ hơn các khoản chi cho người không cư trú ghi(-) => cán cân chuyển giao ròng âm => làm tăng cung ngoại tê =>tỷ giá giảm => đồng nội tệ lên giá.
c.Thu nhập từ người nước ngoài:
Nhân tố quyết định đến thu nhập từ người lao động nước ngoài là số lương, mức lương và tỷ lệ tiết kiệm của họ.
Nhân tố quyết định đến thu nhập từ đầu tư nước ngoài đó là giá trị đầu tư ở nước ngoài trước đo và tỷ lệ sinh lời của đâuh tư.
Khi thu từ người lao động và đầu tư nước ngoài lớn hơn chi => cán cân thu nhập ròng dương => tăng cung ngoại tệ => tỷ giá giảm => đồng nội tệ lên giá.
Ngược lại, khi thu từ người lao động và đầu tư nước ngoài nhỏ hơn chi => cán cân thu nhập ròng âm => tăng cầu ngoại tệ => tỷ giá tăng => đồng nội tệ mất giá.
3.4.Lãi suất
Tương quan lãi suất giữa hai đồng tiền tác động ngắn hạn đến tỷ giá.
Theo lý thuyết ngang giá lãi suất, tỷ giá giữa hai đồng tiền phải biến động để phản ánh tương quan lãi suất giữa chúng, theo công thức:
Trong đó:
∆E: tỷ lệ % thay đổi tỷ giá sau một năm,
R : mức lãi suất/năm của nội tệ;
R*: mức lãi suất/năm của ngoại tệ.
Vì R và R* là mức lãi suất nên tần số thay đổi phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW.
Các luồng tiền sẽ chảy từ nơi có lãi suất thấp đến nơi có lãi suất cao theo nguyên lý nước chảy chỗ trũng. Khi mặt bằng lãi suất của Việt Nam cao hơn so với thị trường quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển tiền vào Việt Nam để thu được lãi lớn hơn, làm tăng cung ngoại tệ. Điều này đẩy đường cung ngọai tệ dịch chuyển sang phải, kết quả là đồng nội tệ lên giá so với ngoại tệ. Điều này diễn ra ngược lại khi mặt bằng lãi suất Việt Nam thấp hơn thị trường bên ngoài.
Trong nền kinh tế tiền tệ, NHTW thường xuyên thay đổi lãi suất để tác động tích cực lên nền kinh tế, tần số thay đổi lãi suất càng nhiều làm tỷ giá biến động càng nhanh, chính vì vậy, tương quan lãi suất giữa hai đồng tiền quyết định xu hướng vận động của tỷ giá trong ngắn hạn.
3.5.Sự vận động của luồng vốn quốc tế
Ngày nay, hoạt động vay và cho vay quốc tế diễn ra rất mạnh mẽ (Cụ thể, chỉ trong vòng 4 tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã thu hút 7,598 tỷ USD vốn đầu tư FDI). Việc xác định tỷ giá hối đoái trở nên phức tạp hơn nhiều khi chúng ta đưa tác động của luồng vốn vào trong phân tích.
Giả sử, khi Việt Nam tăng cường đầu tư vào Mỹ hoặc bất kỳ quốc gia nào khác, cầu về tiền của quốc gia đó sẽ tăng. Nói cách khác, nhu cầu này làm đường cầu ngoại tệ dịch chuyển sang phải, khi đó đồng đô la (ngoại tệ khác) sẽ lên giá so với tiền đồng.
Ngược lại, khi Mỹ hoặc các quốc gia khác muốn đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ cung ngoại tệ để đổi lấy tiền đồng, làm cung ngoại tệ tăng và đường cung dịch sang phải, đồng đô la (ngoại tệ khác) sẽ giảm giá so với đồng Việt Nam.
3.6. Những dự tính về sự biến động của tỷ giá
Công thức sau thể hiện mối quan hệ giữa tỷ giá dự tính tương lai (Ee ) và tỷ giá hiện tại(E0):
Từ công thức trên cho thấy, cầu của một loại tài sản phụ thuộc vào mức giá kỳ vọng mà tài sản đó mang lại trong tương lai. Điều này cũng đúng với tiền tệ. Khi người Việt Nam tin tưởng rằng trong tương lai, những ngoại tệ như USD, EUR sẽ tăng giá so với tiền đồng, thì trong hiện tại, họ sẽ muốn giữ những ngoại tệ đó nhiều hơn. Bằng cách đó, khi kỳ vọng của họ xảy ra trong tương lai, họ sẽ thu về một khoảng bằng chênh lệch tỷ giá nhân với số lượng ngoại tệ nắm giữ. Nếu mọi người đều có cùng nhận thức và quyết định như vậy, nhu cầu ngoại tệ trong hiện tại sẽ được đẩy lên cao, làm đường cầu ngoại tệ dịch sang phải. Kết quả là đồng ngoại tệ sẽ tăng giá một cách tương đối so với tiền Việt Nam. Ngược lại, nếu mọi người cho rằng việc giữ tiền đồng có lợi hơn, thì việc sở hữu ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn và cầu ngoại tệ đi xuống, khiến cho đồng ngoại tệ sẽ giảm giá so với đồng Việt Nam ngay trong hiện tại.
Ngoài ra những yếu tố quyết định về dài hạn của tỷ giá chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá tương lai dự tính: mức giá cả tương đối, thuế quan tương đối và quota, năng suất lao động.
3.7. Giá thế giới của hàng hóa xuất nhập khẩu:
Giá thế giới của hàng hoá xuất nhập khẩu tạo ra sự biến động của cung cầu ngoại tệ.
Gọi x là giá thế giới của hàng xuất khẩu, y là giá thế giới của hàng nhập khẩu.
Trường hợp 1: x giảm hoặc y tăng thì cung ngoại tệ giảm, cầu ngoại tệ tăng=> tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ giảm giá.
Sự tăng giá của hàng xuất khẩu:
Khi giá của dệt may xuất khẩu tăng lên (trong điều kiện nhiều nước khác cũng có bán sản phẩm tương tự trên thị trường Mỹ) thì người Mỹ sẽ chi ít tiền hơn để mua hàng dệt may Việt Nam. Do đó sẽ có ít đồng USD được cung ứng để chuyển sang tiền đồng Việt Nam. Cho nên cung USD sẽ giảm => tỷ giá tăng => đồng Việt Nam giảm giá.
Trường hợp 2: x tăng hoặc y giảm thì cung ngoại tệ tăng, cầu ngoại tệ giảm=> tỷ giá hối đoái giảm, đồng nội tệ lên giá.
Sự tăng giá quốc tế của hàng nhập khẩu:
Khi giá của hàng điện tử Mỹ tăng lên ( trong điều kiện có nhiều nước khác cũng có sản phẩm tương tự) thì người Việt sẽ cần ít đồng USD hơn so với trước đây để mua hàng điện tử Mỹ. Cho nên cầu USD sẽ giảm => tỷ giá giảm => đồng Việt Nam tăng giá.
3.8. Các nhóm nhân tố khác
a.Tâm lý ưa thích hàng ngoại:
Tâm lý này kích thích nhập khẩu => cầu ngoại tệ tăng => tỷ giá tăng => đồng nội tệ mất giá.
Giả dụ: người Việt Nam thích hàng hóa của Nhật thì cầu về hàng hóa của Nhật tăng lên => cầu Yên Nhật (YJP) tăng => tỷ giá tăng => đồng VN mất giá.
Cầu đối với hàng xuất khẩu của một nước tăng về lâu dài làm cho đồng tiền của nước đó tăng giá trong khi cầu về hàng nhập khẩu tăng lên lam cho đồng tiền của nước đó giảm giá.
b.Năng suất lao động:
Nếu năng suất lao động của một nước tăng cao hơn nước khác thì những nhà kinh doanh trong nước đó có thể hạ giá tương đối hàng nội so với hàng ngoại mà vẫn thu được lãi. => cầu về hàng nội tăng lên => đồng nội tệ tăng giá.
Nếu năng suất lao động của nước đó kém hơn nước khác thì hàng hóa nước đó trở thành tương đói đát hơn =>cầu về hàng nội giảm =>đồng nội tệ mất giá.
Về lâu dài do năng suất lao động của một nước cao hơn so với nước khác nên đồng tiền của nước đó tăng giá.
c.Cú shock chính trị, kinh tế, xã hội:
Khi những cú shock này xảy ra tại 1 quốc gia, nó khiến cho tâm lý những người đang nắm giữ tiền của quốc gia đó trở nên bất ổn, không yên tâm về khả năng sinh lời của đồng tiền, thậm chí lo sợ cho sự mất giá của nó. Điều này buộc họ chuyển hướng đầu tư sang những đồng tiền ổn định hơn, làm cho cầu về loại tiền đó tăng lên, từ đó tác động ngay đến tỷ giá.
d.Sự can thiệp của Ngân Hàng TW:
Mua ngoại tệ làm tăng cầu ngoại tệ, làm tăng tỷ giá; bán ngoại tệ làm tăng cung ngoại tệ, giảm tỷ giá;
Thay đổi lãi suất tái chiết khấu, từ đó tác động đến mặt bằng lãi suất thị trường, chuyển hướng các luồng tiền và do đó làm thay đổi tỷ giá; điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, ảnh hưởng đến lượng cung ngoại tệ trên thị trường
B.THỰC TIỄN
1.Diễn biến tỷ giá tại Việt Nam
Tỷ giá rất được quan tâm đối với các nước đang từng bước hòa nhập vào xu hướng thế giới như Việt Nam.
Vậy diễn biến tỷ giá tại Việt Nam thời gian qua như thế nào, và dự đoán xu hướng trong thời gian tới ra sao?
Khi mới chuyển đổi, mở cửa, hội nhập, tỷ giá VND/USD khá cao, có thời gian đã lên đến 16.000 VDN/USD (vào cuối năm 1991), năm 1992 đã giảm mạnh và sau đó chỉ tăng, giảm nhẹ. Chỉ trừ năm 1997- 1998, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực mà tỷ giá tăng cao, còn các năm từ đó cho đến quý 1 2007 chỉ tăng nhẹ.
Bước sang năm 2007, tháng 1 giảm 0,12%, tháng 2 giảm 0,21%, tính chung 2 tháng giảm 0,33%. Tháng 2/2007 sản phẩm với tháng 12/2001, giá USD chỉ tăng 6,4%. Trong thời gian tương ứng, giá tiêu dùng tăng 38,5%, còn giá vàng tăng 144%.
Nếu so xa hơn, tức là tháng 2/2007 so với tháng 12/1991, trong khi giá tiêu dùng tăng 161,7%, giá vàng tăng 87,3%, thì giá USD cũng chỉ tăng 10%.
Điều đó có nghĩa là, dù so gần hay xa, thì giá USD vẫn tăng rất thấp so với giá tiêu dùng và giá vàng. Đặc biệt là giá USD lại đang trong xu thế giảm!
Nguyên nhân của diễn biến trên là do:
Thứ nhất, kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục với tốc độ cao hơn là tiền đề quan trọng để đồng tiền lên giá so với các đồng tiền khác (bình quân năm thời kỳ 1996- 2000 tăng 7%, thời kỳ 2001- 2006 tăng trên 7,6%, trong đó 2 năm nay tăng trên 8%). Khi có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn thì đồng tiền lên giá là tất yếu.
Thứ hai, cùng với tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, với chủ trương chủ động mở cửa, hội nhập, hiện có một lượng ngoại tệ lớn chảy vào nước ta từ nhiều nguồn
- Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2006 đã đạt kỷ lục cả về lượng vốn đăng ký (10,2 tỷ USD, gồm đăng ký mới và bổ sung), cả về lượng vốn thực hiện (4,1 tỷ USD).
- Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) năm 2006 cũng đạt kỷ lục về lượng vốn cam kết (4,45 tỷ USD) và là năm thứ hai liên tục thực hiện vượt mức kế hoạch (1,81 tỷ USD).
- Nguồn kiều hối (bao gồm của Việt kiều và số tiền do lao động xuất khẩu) gửi về nước đạt mức kỷ lục (khoảng 4,7 tỷ USD).
- Chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam năm nay cũng đạt kỷ lục (ước đạt trên 2,8 tỷ USD).
- Kim ngạch xuất khẩu đạt mức kỷ lục (trên 39,6 tỷ USD).
- Lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán hiện cũng đạt khoảng 4 tỷ USD, chiếm khoảng 28,6% tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán của Việt Nam.
Khi có lượng ngoại tệ lớn chảy mạnh vào trong nước, thì đó vừa là kết quả, vừa tạo tiền đề để tỷ giá khó tăng lên.
Thứ ba, đồng USD giảm giá so với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới, như 1 USD hiện chỉ đổi được dưới 0,76 Eur, 0,51 Bảng Anh; giảm giá so với một số đồng bản tệ của các nước, như 1 USD hiện chỉ đổi được 7,72 CNY (Nhân dân tệ), 9,35 Won Hàn Quốc, 35,6 Baht Thái Lan,...
Thứ tư, có một nguyên nhân quan trọng nhưng khá trừu tượng mà không phải ai cũng để ý đến, đó là “cánh kéo tỷ giá” giữa tỷ giá hối đoái và tỷ giá sức mua tương đương. 1 USD tại Việt Nam có sức mua vào khoảng 4,3 USD tại Mỹ.
Điều này lý giải tại sao GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2006 tính theo tỷ giá hối đoái chỉ đạt 725,3 USD, nhưng nếu tính theo tỷ giá sức mua tương đương đạt khoảng 3.118 USD. Điều đó cũng giải thích tại sao nước Mỹ nhập siêu lớn từ các nước đang phát triển, trong khi lại đầu tư (cả trực tiếp và gián tiếp) vào các nước này.
Tỷ giá VND/USD 6 tháng cuối năm 2007 đã diễn biến như sau: tháng 7 tăng 0,22%, tháng 8 tăng 0,16%, tháng 9 tăng 0,57%, tháng 10 giảm 0,6%, tháng 11 giảm 0,28%, tháng 12 giảm 0,19%.
Tính chung 6 tháng cuối năm 2007, tỷ giá VND/USD đã giảm 0,12%.
Như vậy trước đây, giá trên thị trường tự do đã “kéo” giá trên thị trường chính thức lên và bây giờ giá trên thị trường tự do lại có tác động “kéo” giá trên thị trường chính thức xuống. Đó là do các yếu tố sau đây:
Do sự can thiệp, chấn chỉnh và kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đối với các đại lý thu đổi ngoại tệ, làm cho các đại lý này mang tính chuyên nghiệp và hoạt động đúng pháp luật.
Do cán cân thanh toán tổng thể tiếp tục thặng dư, tính thanh khoản của quốc gia được cải thiện. Nhập siêu đã có xu hướng giảm, khả năng cả năm có thể chỉ ở mức trên dưới 20 tỷ USD, không đến mức 30 tỷ USD như dự đoán của một số tổ chức quốc tế.
Lượng ngoại tệ vào nước ta từ các nguồn tiếp tục tăng mạnh. FDI thực hiện 6 tháng ước 5 tỷ USD, tăng 37,5%, khả năng cả năm có thể đạt 11 tỷ USD, tăng 3 tỷ USD so với năm trước. ODA giải ngân 6 tháng ước đạt 1,1 tỷ USD, khả năng cả năm có thể đạt trên 2 tỷ USD, tăng so với năm trước.
Chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng ước đạt 1,95 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ, khả năng cả năm có thể đạt trên 4 tỷ USD, tăng gần 1 tỷ USD so với năm trước.
Đầu tư gián tiếp năm trước vào mạnh (ước đạt 6,2 tỷ USD), 6 tháng đầu năm bị sút giảm mạnh, nhưng khi thị trường bất động sản bị lạnh, giá giảm mạnh, chính sách tiền tệ bị thắt chặt, nên nhiều nhà đầu tư trong nước buộc phải đẩy mạnh bán ra và giá trên thị trường chứng khoán đã xuống mức quá thấp, nay có dấu hiệu phục hồi, nên đã hấp dẫn các quỹ đầu tư quốc tế đưa mạnh tiền vào.
Tỷ giá hối đoái VND/USD và sự biến động của nó không chỉ là mối quan tâm trực tiếp của các doanh nghiệp xuất khẩu hay nhập khẩu, của những người cho vay hay vay ngoại tệ, của các ngân hàng thương mại,... mà còn là mối quan tâm của các nhà hoạch định chính sách vĩ mô.Năm 2008, tỷ giá VND/USD có sự biến động khác với các năm trước. Sự khác nhau thể hiện ở một số điểm sau đây:
Biến động nhiều hơn: giảm liên tục trong 3 tháng đầu, tăng liên tục trong 3 tháng sau. Nếu trong 3 tháng đầu, người có USD muốn bán cũng rất khó bán, thì trong 3 tháng sau, đặc biệt là tháng 6, người muốn mua USD cũng rất khó mua vì giá cao.
Chênh lệch giữa giá USD trên thị trường tự do và ở các ngân hàng thương mại lúc mang dấu âm, lúc mang dấu dương và chênh lệch khá lớn.
Tỷ giá VND/USD tính theo năm thì từ tháng 1 đến tháng 4 bị giảm, tháng 5, tháng 6 tăng, đặc biệt tháng 6 tăng cao. Đó là diễn biến tỷ giá VND/USD thời gian qua.
NHNN nhấn mạnh rằng, trong năm 2008, tình hình kinh tế quốc tế có những diễn biến phức tạp. Cuộc khủng khoảng của Mỹ ngày càng trầm trọng và lan rộng khiến cho hệ thống tài chính quốc tế đứng trước nguy cơ khủng hoảng và ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Ngân hàng Trung ương nhiều quốc gia đã và đang nỗ lực thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn khủng hoảng. Lãi suất liên tục được điều chỉnh giảm và tỷ giá của USD này trên thị trường quốc tế cũng biến động phức tạp.
Tính từ đầu năm đến nay, USD đã tăng giá trên 10% so với Euro, 5,51% so với Bath Thái, 3,11% so với Đô la Singapore, 7,02% so với Ringit Malaysia
Bên cạnh đó, với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO), nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và chịu tác động đáng kể từ diễn biến kinh tế quốc tế. Biến động trên thị trường ngoại hối quốc tế và sự gia tăng các luồng vốn đầu tư nước ngoài đã khiến cho thị trường ngoại hối Việt Nam trong năm 2008 diễn biến phức tạp, có những thời điểm cung cầu ngoại tệ mất cân đối, lúc thừa, lúc thiếu ngoại tệ.
Trong bối cảnh đó, việc điều hành tỷ giá tương đối linh hoạt sẽ giúp các tổ chức tín dụng và tổ chức kinh tế thích ứng tốt hơn với các biến động trên thị trường quốc tế.
Ngoài ra, chỉ số giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán phi mã liên tục đạt kỷ lục và hút một lượng vốn lớn cũng giảm áp lực tăng giá USD.
Những nguyên nhân trên cũng lý giải tại sao từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước quyết định mở rộng biên độ giao dịch USD từ 0,25% lên 0,5%, nhưng tỷ giá vẫn không lên mà còn giảm.
Nhân đây cũng nên nhắc lại khi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á nổ ra, có chuyên gia đã kiến nghị Chính phủ phá giá VND lên 17 thậm chí 19 nghìn VND/USD, nhưng mãi cho đến nay, sau 10 năm, tỷ giá chính thức vẫn chưa vượt qua 16 nghìn!
Chỉ sau hai tuần biến động nhẹ, tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do giao dịch trong ngày cuối tuần bắt đầu có chiều hướng giảm dần, hoạt động mua - bán cũng trầm lắng hẳn. Tỷ giá hối đoái chào mua sáng ngày 31/10 tại TP.HCM chỉ còn 16.860 VND/USD, giảm hơn 140 VND/USD.
Người mua rất ít, trong khi người bán có xu hướng đẩy hàng nhiều hơn. Tại các ngân hàng thương mại, như Vietcombank, Eximbank, ACB, DongA Bank..., tỷ giá niêm yết cũng suy yếu dần, giảm khoảng 50 VND/USD. Tỷ giá hối đoái niêm yết trong ngày 31/10 tại Vietcombank và Eximbank là 16.780 - 16.830 VND/USD.
Trước đó, vào những ngày giữa tháng 10, khi tỷ giá hối đoái trên thị trường nhích dần, nhiều người đã tỏ ra lo ngại, nhất là khi lãi suất cơ bản được điều chỉnh giảm từ 14% xuống 13%. Một số nhà đầu tư đã chuyển vốn sang ngoại tệ. Có ý kiến khi đó cho rằng, diễn biến của thị trường hiện tại là cơ hội để giữ USD, vì xuất khẩu gặp phải khó khăn khi giá hàng hóa hạ, nên nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ nâng tỷ giá để bù đắp phần nào chi phí cho doanh nghiệp.
Vào thời điểm cuối tháng 5 và những ngày đầu tháng 6, trên thị trường ngoại hối (thị trường tự do), tỷ giá tăng hàng ngày, có những ngày tỷ giá lên tới mức 19.400 VND/USD, chênh lệch giữa tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng với tỷ giá thị trường tự do ngày càng lớn, thị trường ngoại hối có dấu hiệu bất ổn.
Đối với nhiều ngân hàng, đây là mảng kinh doanh mang lại nguồn thu đáng kể, tuy nhiên sự biến động của thị trường đã có tác động không nhỏ.
2.Sự can thiệp của Ngân hàng nhà nước
Để bình ổn thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện hàng loạt biện pháp, như nới rộng biên độ tỷ giá từ 1% lên mức +/-2%, tạo sự linh hoạt tỷ giá sát với cung cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ cho NHTM, việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của NHTM trong ngày; thực hiện minh bạch thông tin về dự trữ ngoại hối. Các biện pháp này đã đáp ứng được kỳ vọng của thị trường, trên cơ sở đó tạo dựng lòng tin của thị trường với NHNN.
Bên cạnh đó, NHNN còn thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, cấm tổ chức tín dụng không được mua bán USD thông qua ngoại tệ khác, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường và thiết lập đường dây nóng. Hành động này, đã có tác động nâng cao kỷ luật thị trường, góp phần bình ổn thị trường.
Ngày 30/10, NHNN đã ban hành Công văn hướng dẫn thực hiện Quy chế hoạt động đại lý đổi ngoại tệ. Theo đó, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố yêu cầu ngân hàng nghiêm túc thực hiện việc thanh lý hợp đồng đổi ngoại tệ đối với các đại lý đổi ngoại tệ không đủ điều kiện và chuyển đổi giấy phép làm đại lý đổi ngoại tệ đối với các đại lý đã đủ điều kiện theo đúng thời hạn quy định tại Điều 13, Chương III của Quy chế này
Ngày 6/11/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam quyết định cho phép các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối ấn định tỷ giá mua bán giao ngay giữa VND và USD trong biên độ ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Như vậy, biên độ tỷ giá đã tăng ±1% so với mức ±2% áp dụng hiện nay. Biên độ tỷ giá mới sẽ được áp dụng từ ngày 7/11/2008.
Có thể nói, việc thực hiện đồng bộ các giải pháp bước đầu tạo được sự bình ổn thị trường ngoại tệ, thể hiện ở việc tỷ giá trên thị trường tự do giảm dần, sát với tỷ giá liên ngân hàng và các NHTM giao dịch tỷ giá với khách hàng trong biên độ cho phép.
3.Dự đoán tỷ giá sắp tới
Do diễn biến và những biện pháp can thiệp của Chính phủ,tỷ giá hối đoái khó có thể biến động trong thời gian từ nay đến cuối năm và dự báo chỉ xoay quanh mức gần 17.000 VND/USD.
4.Nhân tố tác động đến tỷ giá ở Việt Nam
Nhu cầu trong nước tăng mạnh cùng mức thanh khoản cao tạo áp lực ngày càng cao đối với lạm phát. Tỷ lệ lạm phát trung bình hằng năm từ 3,1% năm 2003 lên tới 7,8% năm 2004 và duy trì mức cao này trong những năm tiếp theo, cao hơn trung bình khu vực. Trong khi đó, vào thời điểm năm 2000, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam thấp hơn khu vực, và là thiểu phát.
Giá lương thực tăng nhanh hơn so với mức tăng của cả rổ hàng hóa. Việc tăng giá, đặc biệt giá lương thực ảnh hưởng đến người nghèo, những người sử dụng phần lớn thu nhập cho mua hàng hóa thực phẩm mà không phải cho giáo dục hay y tế và không có cơ hội tiếp cận lương thực.
Tỷ lệ lạm phát tăng cũng làm suy yếu năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Lạm phát của Việt Nam tương đối cao hơn so với lạm phát ở Mỹ, dẫn đến giảm tỷ giá thực.
Vào thời điểm tháng 7/ 2008, giá dầu trên thế giới đã đạt mức kỷ lục: 147USD/thùng. Sự tăng giá này đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến cung cầu ngoại tệ ở nước ta. Nhu cầu ngoại tệ phục vụ nhập khẩu xăng dầu gia tăng khi giá năng lượng trên thế giới tăng mạnh như vậy, làm cho tỷ giá VNĐ/USD tăng cao.
Thu nhập là nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới tỷ giá,để có thể dự báo GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái năm 2008, cần điểm lại kết quả thực hiện qua một số năm.
GDP năm 2007 tính theo giá thực tế đạt 1.144 nghìn tỉ đồng, dân số trung bình đạt 85.154.900 người, GDP bình quân đầu người tính theo giá thực tế đạt 13.435.000 đồng, với tỷ giá bình quân đạt 16.090 VND/USD, GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái đạt 835 USD và tổng GDP đạt 71,1 tỉ USD.
Năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP tính theo giá so sánh nếu đạt được mục tiêu đã được điều chỉnh xuống còn 7%, nếu tốc độ tăng giá cả (bao gồm cả giá sản xuất và giá tiêu dùng) cả năm (tính bình quân năm 2008 so với năm 2007) dự đoán khoảng 20%, thì GDP tính theo giá thực tế sẽ tăng 28,4%. Khi đó GDP năm 2008 tính theo giá thực tế sẽ đạt 1.469 nghìn tỉ đồng. Dân số trung bình năm 2008 nếu tăng 1,21% so với năm 2007 (năm 2007 tăng 1,21%), thì năm 2008 sẽ ở mức 86.185.300 người. Nếu tỷ giá bình quân năm 2008 theo ước tính có thể lên đến 17.500 VND/USD, thì GDP tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái trên sẽ đạt 83,9 tỉ USD, bình quân đầu người sẽ đạt 973,5 USD (tỷ giá tính bình quân trên thị trường, bao gồm cả thị trường chính thức và thị trường tự do).
Nếu việc xếp loại được điều chỉnh lại do sự mất giá của USD trên thị trường thế giới thì chưa rõ kết quả; còn nếu theo xếp loại cũ thì Việt Nam sẽ vượt qua mốc của nước có thu nhập thấp trong năm nay. Vấn đề đặt ra là tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng dân số và tỷ giá VND/USD đạt được như giả thiết trên thì mới đạt được 973,5 USD/người.
Theo số liệu thống kê, hiện tại, cộng đồng lao động Việt Nam tại Hàn Quốc đã lên tới gần 55.000 người. Trong 7 tháng đầu năm nay đã có 8.000 lao động được nhập cảnh mới vào Hàn Quốc và nếu tính từ thời điểm tháng 8-2004 đến ngày 30-6-2008 đã có tổng cộng 31.511 người được nhập cảnh mới và 2.894 người được tái tuyển dụng. Lao động Việt Nam sang Hàn Quốc chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực sản xuất, chế tạo, xây dựng và một bộ phận nhỏ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản.
Số liệu thống kê cho biết năm 2007, tổng số tiền người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước là 1,7 tỷ USD, trong đó từ lao động ở Hàn Quốc gửi về chiếm tới 500 triệu USD.
Tính đến nay, Việt Nam hiện có 317 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 2,5 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 1 tỷ USD. Quy mô vốn đầu tư bình quân đạt 7,8 triệu USD/dự án.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã có mặt tại 41 quốc gia và vùng lãnh thổ ở cả 5 châu lục. Nhưng phần lớn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tập trung tại khu vực châu Á, trong đó đứng đầu là thị trường Lào với 123 dự án, chiếm gần 39% về số dự án và hơn 50% về vốn đầu tư. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có mặt tại một số nước có tiềm năng về dầu mỏ như Angiêri có 1 dự án 243 triệu USD, Madagascar có 1 dự án 117,36 triệu USD, hoặc tại một số nước có quan hệ hợp tác truyền thống như LB Nga có 14 dự án tổng vốn đầu tư là 198,3 triệu USD
Cục Đầu tư Nước ngoài dự báo, trong năm 2008, vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đạt trên 500 triệu USD, tăng 20% so với năm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5952.doc