LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 3
I. Ngân hàng 3
1. Khái quát chung về hệ thống Ngân hàng Việt Nam 3
2. Ngân hàng Thương mại Cổ phần 4
II. Huy động vốn 8
1. Lý luận cơ bản về chức năng huyđộng vốn 9
2. Vai trò của huy động vốn qua Ngân hàng 11
3. Các hình thức huy động vốn 12
4. Các nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến huy động vốn 12
CHƯƠNG II: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VỚI VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CHO SỰ NGHIỆP CNH - HĐH ĐẤT NƯỚC 14
I. Thực trạng Ngân hàng Thương mại Cổ phần từ khi dổi mới (từ 1991) 14
1. Khó khăn 14
2. Thuận lợi 14
3. Sơ lược về tình trạng huy động vốn của nước ta 15
II. Giải pháp cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần huy động vốn cho CNH - HĐH đất nước 17
1. Tri thức hoá trong Ngân hàng 17
2. Chính sách tiền tệ của Nhà nước 18
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo nên sức mạnh nội tại của Ngân hàng 18
4. Công tác quảng cáo 18
KẾT LUẬN 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
21 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1888 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò, chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng Thương mại Cổ phần đối với việc huy động vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng và chủ yếu nhất. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, hoạt động kinh doanh dịch vụ hết sức sôi động và đa dạng kéo theo sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại, nhất là các Ngân hàng Thương mại Cổ phần. Nguồn vốn được huy đông qua Ngân hàng Thương mại Cổ phần đã đóng góp đáng kể vào việc huy động vốn cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Trong bài viết này, em xin trình bày đề tài: "Vai trò, chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng Thương mại Cổ phần đối với việc huy động vốn cho sự nghiệp CNH - HĐH Việt Nam trong giai đoạn hiện nay".
Bài viết của em còn có nhiều thiếu sót, mong thầy giáo góp ý và bổ sung thêm cho em.
Em xin chân thành cảm ơn thầy đã hướng dẫn em hoàn thành bài viết này.
Chương I:
Một số vấn đề lý luận cơ bản về Ngân hàng
Thương mại Cổ phần trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
I. Ngân hàng
1. Khái quát chung về hệ thống Ngân hàng Việt Nam
Ngân hàng là loại trung gian tài chính quan trọng nhất đối với mọi người. Nghiệp vụ cơ bản nhất của Ngân hàng là nhận tiền gửi của người tiết kiệm và cho vay lại số tiền đó. Ngân hàng trả lãi đối với người gửi tiền và tính lãi cao hơn đối với người vay tiền. Số tiền chênh lệch giữa hai mức lãi suất cho phép bù đắp chi phí hoạt động Ngân hàng và đem lại lợi nhuận cho chỉ Ngân hàng.
Ngoài ra, Ngân hàng còn có vai trò nữa là làm cho hoạt động mua và bán diễn ra thuận lợi hơn bằng cách cho phép mọi người viết séc vào tài khoản của mình ở Ngân hàng - đây là chức năng để phân biệt Ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác.
ở Việt Nam hệ thống Ngân hàng phát triển qua hai giai đoạn: chiến tranh và hoà bình và trải qua ba thời kỳ:
+ Thời kỳ bao cấp (1951 - 1986): hệ thống Ngân hàng một cấp, chỉ có Ngân hàng Nhà nước với các chi nhánh ở các địa phương;
+ Thời kỳ đổi mới (1987 - 1990): hệ thống Ngân hàng hai cấp;
+ Thời kỳ từ 1990 trở đi: hệ thống Ngân hàng hai cấp nhưng chức năng được phân định rõ ràng hơn. Trong đó:
- Ngân hàng Nhà nước: làm chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, là Ngân hàng phát tiển tiền, Ngân hàng của các tổ chức tín dụng và làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Các tổ chức tín dụng có: Ngân hàng chuyên doanh, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính.
* Trong đó Ngân hàng hàng chuyên doanh có:
+ Ngân hàng thương mại với các hình thức sở hữu: quốc doanh, cổ phần, liên doanh, ngân hàng nước ngoài;
+ Ngân hàng phát triển;
+ Ngân hàng đầu tư;
+ Ngân hàng chính sách.
2. Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Ngân hàng Thương mại Cổ phần là Ngân hàng Thương mại được hình thành dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó một cá nhân hoặc một tổ chức không được sở hữu cổ phần của Ngân hàng quá tỷ lệ Nhà nước quy định.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần có những chức năng của một Ngân hàng Thương mại là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và nguồn tạo tiền.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần là một trong những thể chế tài chính có ý nghĩa quan trọng trong quá trình CNH - HĐH đất nước. Vai trò của nó thể hiện đậm nét ở: lưu chuyển vốn, tập trung vốn, cung cấp vốn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên Ngân hàng Thương mại Cổ phần là tổ chức kinh doanh mà mục tiêu chính vẫn là lợi nhuận. Nó hoạt động theo ba nghiệp vụ chính: huy động vốn, cho vay và thanh toán.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần hiện nay có: Ngân hàng Thương mại Cổ phần đô thị và Ngân hàng Thương mại Cổ phần nông thôn.
Nội dung hoạt động cảu các Ngân hàng như sau:
a. Huy động vốn: dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác;
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận;
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài;
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn;
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
b. Hoạt động tín dụng:
Cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác bảo lãnh, cho thuê tài chiníh và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
c. Các hình thức vay:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau:
Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
d. Xét duyệt cho vay, kiểm tra và xử lý:
- Ngân hàng được quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay; có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng.
- Ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của khách hàng vay, tìa sản của người bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh để thu hồi nợ theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng và người bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định của Pháp luật.
- Ngân hàng được miễn, giảm lãi suất cho vay, phí ngân hàng, quá hạn nợ, mua bán nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
e. Bảo lãnh:
- Ngân hàng bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh Ngân hàng khác cho các tổ chức tín dụng, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh Ngân hàng khác mà người nhận bảo lãnh là tổ chức cá nhân nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
f. Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác:
- Ngân hàng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định pháp luật hiện hành. Người chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền, lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ đó cho Ngân hàng.
- Ngân hàng được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác theo quy định pháp luật hiện hành.
- Ngân hàng có thể được Ngân hàng Nhà nước tái chiết khấu và cho vay trên cơ sở cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được chiết khấu theo quy định của Pháp luật hiện hành.
g. Công ty cho thuê tài chính:
Ngân hàng phải thành lập công ty cho thuê tài chính khi hoạt động cho thuê tài chính.
h. Tài khoản tiền gửi của Ngân hàng:
- Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước (Sở giao dịch, chi nhánh ở tỉnh, thành phố) nơi Ngân hàng đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Chi nhánh của Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của Sở giao dịch, chi nhánh.
- Ngân hàng mở tài khoản cho khách hàng trong nước và ngoài nước theo quy định của Pháp luật.
k. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
- Ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
+ Cung ứng các phương tiện thanh toán;
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
+ Thực hiện dịchv ụ thu hộ và chi hộ;
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
+ Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép;
+ Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Ngân hàng tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
i. Các hoạt động khác:
- Dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật.
- Góp vốn với tổ chức tín dụng nước ngoài để thành lập tổ chức tín dụng liên doanh tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.
- Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
- Được quyền uỷ thác, nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác và đại lý.
- Cung ứng dịch vụ bảo hiểm, kinh doanh bảo hiểm.
- Cung ứng các dịch vụ:
+ Tư vấn tài chính tiền tệ;
+ Bảo quản tài sản có giá trị và các giấy tờ có giá.
- Thành lập các công ty trực thuộc để thực hiện các hoạt động kinh doanh có liên quan tới hoạt động Ngân hàng theo quy định của Pháp luật.
m. Bất động sản:
Ngân hàng không được trực tiếp kinh doanh bất động sản.
n. Tỷ lệ an toàn:
- Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng phải tuân theo các quy định về bảo đảm an toàn theo quy định tại mục V, chương II của Luật các tổ chức tín dụng và theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
- Thực hiện phân loại tài sản "có" và trích lập dự phòng rủi ro để xử lý các rủi ro trong hoạt động ngân hàng theo quy định của Pháp luật hiện hành.
II. Huy động vốn
CNH - HĐH là một cuộc cải biến cách mạng từ xã hội nông nghiệp trở thành xã hội công nghiệp. Đó cũng là cuộc cải biến cách mạng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy để triển khai thuận lợi và thực hiện thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải có những tiền đề cần thiết. Xuất phát từ thực trạng đất nước ta thì việc huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả là hết sức quan trọng.
1. Lý luận cơ bản về chức năng huyđộng vốn
Lật lại lịch sử phát triển của Ngân hàng chúng ta có thể thấy sự ra đời và phát triển của nớ gắn với tư bản hoá tiền tệ. Sự phát triển mạnh của quan hệ hàng hoá - tiền tệ đã đòi hỏi khách quan sự ra đời của các tổ chức và hoạt động Ngân hàng. Và đặc trưng cơ bản nhất của Ngân hàng là huy động vốn từ tiền của công chúng, vì thế chức năng cơ bản nhất là đi vay và cho vay, vốn huy động chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vốn hoạt động của Ngân hàng. Với chức năng này, Ngân hàng thực hiện chức năng phân phối và tải phân phối vốn, tiền tệ xã hội, tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ sở đầu tiên hình thành nên hoạt động đi vay và cho vay là trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong nền sản xuất này thì tiền có thể chuyển hoá thành tư bản. Do sự chuyển hoá đó, tiền từ chỗ là một giá trị nhất định trở thành một giá trị cứ tự mình ngày càng lớn lên và sinh sôi nảy nở ra. Như vậy, ngoài các giá trị sử dụng mà đồng tiền đã có với tư cách là tiền, tiền còn có một giá trị sử dụng khác nữa là làm chức năng tư bản. Lúc đó, giá trị sử dụng của tiền chính là ở chỗ nó sản sinh ra lợi nhuận, tiền trở thành hàng hoá, nhưng là một loại hàng hoá đặc biệt. Khi người đi vay, vay tiền của người khác thì anh ta phải trả một phần lợi nhuận cho người sở hữu số tiền ấy gọi là lợi tức. Chẳng hạn: A là người cho vay, B là người đi vay. Thì trong tay B tiền đã thực sự trở thành tư bản, nó trải qua vòng tuần hoàn T - H - T' và trở về với A dưới hình thức T' hay (T + DT), DT chính là lợi tức. Sự vận động là T - T - H - T' - T. ở đây có sự diễn đi diễn lại hai lần: 1. việc chi tiền ra làm tư bản; 2. Việc tiền quay trở về với tư cách là tư bản đã được thực hiện, với tư cách là T' = T + DT này là số tiền trội lên, chính là giá trị thặng dư đã được thực hiện.
Ta xét trong nền kinh tế thị trường, khai niệm "tiền đẻ ra tiền" được xem như là một quy luật. Chính đặc tính này của tiền mà tư bản được đem nhượng đi khi nó được đem cho vay với tư cách là tư bản tiền tệ. Tiền được bỏ ra với tư cách là tư bản có đặc tính là quay trở về tay người đã bỏ tiền ra T - H - T', không những thế nó còn giữ nguyên được giá trị, đồng thời lại lớn lên trong quá trình vận động. Như vậy cho vay tiền là hình thái thích ứng với việc đem tiền nhượng đi với tư cách là tư bản chứ không phải là tư cách tiền là hàng hoá. Điều này tác động đến những người có tiền nhàn rỗi muốn có thêm thu nhập. Qua đó Ngân hàng thực hiện được vai trò rất quan trọng của mình, góp phần vào quá trình chu chuyển vốn nằm rải rác trong dân cư để trở thành nguồn vốn lớn mà nhu cầu đầu tư trong nền kinh tế đòi hỏi.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra, động lực của Ngân hàng khi thực hiện vai trò đó là gì? Ta thử xét nó ở góc độ Ngân hàng là người đi vay: tiền được vay với tư cách là tư bản, với tư cách là một giá trị thặng dư tăng thêm. Nhưng lúc đầu nó chỉ là tư bản tự nó - cũng giống như mọi tư bản ở điểm xuất phát của nó - lúc nó được ứng ra. Chỉ thông qua việc sử dụng tiền, nó mới sinh sôi nảy nở thêm ra và mới được thực hiện với tư cách là tư bản. Nhưng người đi vay tiền phải hoàn lại tiền với tư cách là tư bản đã được thực hiện, nghĩa là với tư cách là một giá trị đã có thêm giá trị thặng dư (lợi tức) và lợi tức này chỉ có thể là một phần lợi nhuận mà người đi vay đã thực hiện được. Chỉ một phần thôi chứ không phải toàn bộ. Bởi vì đối với người đi vay giá trị sử dụng chính là lợi nhuận đã được sản xuất ra. Nếu không thì phía người cho vay đã không có sự nhượng đi giá trị sử dụng đó. Mặt khác lợi nhuận cũng không thể thuộc tất cả về người đi vay. Nếu không như thế, thì hoá ra anh ta hoàn lại người cho vay số tiền đã bỏ ra chỉ đơn thuần với tư cách là tiền chứ không phải với tư cách là tư bản đã được thực hiện.
2. Vai trò của huy động vốn qua Ngân hàng
2.1. Góp phần tiết kiệm chi phí xã hội, tạo những điều kiện thuận lợi cho cá nhân và tổ chức xã hội
Quá trình huy động vốn của Ngân hàng chính là quá trình tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong xã hội, sau đó cho vay đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất, đầu tư và phát triển kinh tế. Cho nên huy động vốn kịp thời đã tiết kiệm thời gian, chi phí nguồn lực, đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, tăng hiệu quả sử dụng vốn.
Đối với những người tiết kiệm thì thu thêm được một phần lãi từ tiền gửi của mình.
2.2. Huy động vốn làm gia tăng vốn trong nước, kích thích huy động vốn nước ngoài
Nguồn vốn huy động từ Ngân hàng Thương mại gồm: trong nước và vốn từ nước ngoài. Trong đó vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng.
Xét về bản chất, huy động vốn từ các Ngân hàng Thương mại là trực tiếp làm cho quy mô tích luỹ trong nước ngày càng tăng chuyển tối ta nguồn vốn đang nhàn rỗi thành nguồn vốn hữu ích có khả năng sinh lời. Còn huy động vốn nước ngoài có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo, thiếu vốn mà nhu cầu đầu tư phát triển lại cao.
2.3. Huy động vốn góp phần thực hiện chính sách tài chính và tiền tệ quốc gia
Hoạt động huy động vốn qua Ngân hàng góp phần kiềm chế và kiểm soát mức lạm phát thông qua việc điều chỉnh lượng tiền tham gia vào quá trình lưu thông, ổn định giá trị đồng tiền.
2.4. Huy động vốn quyết định sự tồn tại của Ngân hàng Thương mại, nhất là Ngân hàng Thương mại Cổ phần.
ở nước ta hiện nay, thị phần hoạt động của tín dụng chiếm khoảng 90%. Con số này khá cao chứng tỏ hoạt động tín dụng là chủ yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng. Muốn có hoạt động tín dụng phải có vốn, muốn có vốn thì phải huy động vốn.
3. Các hình thức huy động vốn
Theo Mác, tư bản ngân hàng bao gồm: vàng, giấy bạc, chứng khoán. Đến lượt các Ngân hàng lại phân ra: vốn tự có và vốn đi vay gồm: vốn nhàn rỗi, các loại quỹ được huy động, thanh toán trung gian cho khách hàng trên tài khoản, vốn tự có của Ngân hàng.
4. Các nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến huy động vốn
4.1. Lãi suất ảnh hưởng rất lớn đến huy động vốn
Lãi suất tiền gửi tăng thì nhu cầu gửi tiền tiết kiệm tăng, tiêu dùng giảm, nguồn vốn huy động Ngân hàng tăng.
Lãi suất giảm thì ngược lại.
4.2. Tình trạng nền kinh tế
Nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu đầu tư tăng, sử dụng cho vay vốn rất thuận lợi, tạo nguồn thu cho ngân hàng, là cơ sở để huy động vốn được thực hiện tốt.
Nếu nền kinh tế đang ở tình trạng lạm phát, đồng thời tiền mất giá tiêu dùng giảm, nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng tăng, nguồn vốn huy động tăng, nhưng lại gây tổn thất cho ngân hàng do vốn huy động nhiều nhưng không cho vay được.
4.3. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nếu Ngân hàng Nhà nước sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm bớt lượng tiền cung ứng trong lưu thông, bằng cách giảm bớt hạn mức tín dụng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay tăng lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Thương mại tại Ngân hàng Nhà nước dẫn đến khả năng huy động vốn giảm, khả năng cho vay giảm, giảm khả năng tạo tiền dẫn đến cung ứng tiền tệ trong lưu thông giảm.
Ngược lại, Ngân hàng Nhà nước sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng thì khả năng huy động vốn tăng.
4.4. Thu nhập và tài sản của dân cư
Nền kinh tế phát triển, thu nhập dân cư tăng, ngoài nhu cầu tiêu dùng tăng thì tiền dôi ra để gửi tiết kiệm tăng nên huy động vốn tăng.
4.5. Dự tính cơ hội đầu tư
Nền kinh tế phát triển, các nhà đầu tư dự tính trong tương lai sẽ rất nhiều cơ hội đầu tư, họ sẽ vay vốn để đầu tư phát triển thu nhập tăng, cơ sở để các Ngân hàng huy động vốn từ các tổ chức kinh tế này.
Chương II:
Ngân hàng Thương mại Cổ phần với việc huy động vốn cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước
I. Thực trạng Ngân hàng Thương mại Cổ phần từ khi dổi mới (từ 1991)
1. Khó khăn
Đầu năm 1990, cả nước có 15 Ngân hàng Thương mại Cổ phần và hợp tác xã tín dụng nhưng những tổ chức tín dụng này hoạt động còn non nớt, kém hiệu quả (quý I năm 1990: 791 tỷ đồng cho vay thì 510 tỷ đồng quá hạn đến quý III hầu hết đều lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả).
Hiện nay, các Ngân hàng Thương mại Cổ phần năng lực tổ chức và quản lý rất thấp nên khả năng cạnh tranh kém. Bộ máy còn rườm rà, lắm thủ tục nên chưa huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân công nghệ ngân hàng còn mang tính chất sơ khai, còn thua kém rất nhiều so với thế giới và chỉ hạn chế trong trung tâm, thành phố lớn.
Đặc biệt Ngân hàng Thương mại Cổ phần thường gánh chịu rủi ro từ cơ chế quản lý phân quyền: nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và hoạt động tương đối độc lập với trụ sở Ngân hàng mẹ, giám đốc các chi nhánh này có thể lạm dụng chức vụ làm thiệt hại cho Ngân hàng.
2. Thuận lợi
Hiện nay hệ thống Ngân hàng Thương mại Cổ phần tồn tại khá nhiều, có những Ngân hàng có vốn pháp định cao như: Ngân hàng Thương mại Cổ phần á Châu (948 tỷ), Đông á (450 tỷ), Bắc á (155 tỷ), Kỹ thương (503 tỷ), VIB bank (198,409 tỷ) Sacom bank (1125 tỷ), xuất nhập khẩu (500 tỷ), quân đội (350 tỷ)... Do các Ngân hàng Thương mại Cổ phần vốn sở hữu được hình thành tập trung nên có khả năng tăng vốn nhanh chóng.
Tính đến tháng 7 năm 2005, tốc độ tăng quy mô tài sản của tất cả các Ngân hàng Thương mại Cổ phần so với cuối năm 2004 là 20,7%, trong đó một số Ngân hàng Thương mại Cổ phần có tỷ lệ tăng lớn là: Quốc tế 3,2%; kỹ thương là 33,8%. Mặc dù các Ngân hàng Thương mại Cổ phần đã nhiều lần phải tăng lãi suất huy động vốn đầu vào nhưng nhìn chung hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại Cổ phần khá khả quan. Chất lượng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại Cổ phần ngày càng được nâng lên rõ rệt, nợ xấu chỉ chiếm 1,9% tổng dư nợ.
Vốn điều lệ của các Ngân hàng Thương mại Cổ phần không ngừng được tăng lên, đến năm 2004 Sacombank đã tăng vốn điều lệ lên 740 tỷ đồng (cao nhất hệ thống Ngân hàng Thương mại Cổ phần), tổng vốn tự có là 850 tỷ đồng; VIB bank tăng vốn lên 210 tỷ đồng, Ngân hàng Thương mại Cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam tăng vốn lên 500 tỷ đồng. Các Ngân hàng Thương mại Cổ phần có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty con, khả năng đa dạng hoá cao nên các Ngân hàng Thương mại Cổ phần có thể giảm rủi ro gây nên bởi tính chuyên môn hoá.
3. Sơ lược về tình trạng huy động vốn của nước ta
Trong điều kiện những năm qua ở nước ta vốn đầu tư của ngân sách hạn hẹp, vốn tự có của doanh nghiệp cũng hạn chế, thị trường chứng khoán chưa phát triển, nên vốn cho tăng trưởng chủ yếu là qua hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng Thương mại.
Nhìn nhận lại trong những năm gần đây có thể thấy, một trong số các vấn đề nổi lên trong hoạt động Ngân hàng đó là vốn huy động của hệ thống Ngân hàng trong toàn quốc cũng như ở các tỉnh, thành phố lớn có nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng vốn huy động luôn thấp hơn tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay. Tính chung trong cả nước năm 2002, vốn huy động tăng 19,4% so với năm trước nhưng dư nợ cho vay tăng 21,2%; năm 2004 ước tính vốn huy động tăng 23% nhưng dư nợ tăng khoảng 27%. Đặc biệt là vốn nội tệ huy động còn tăng chậm hơn, mặc dù các Ngân hàng Thương mại tung ra nhiều chiến dịch phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi... với lãi suất hấp dẫn kèm theo nhiều hình thức khuyến mại.
Một nguyên nhân chính rút ra là trong quá trình chuyển động của nền kinh tế theo xu hướng hội nhập, người dân ngày càng có nhiều sự chủ động và linh hoạt lựa chọn các kênh khác nhau để đầu tư vốn của mình chứ không phải là gửi ngân hàng lấy lãi như trước đây. Các kênh được người dân lựa chọn là:
- Bảo hiểm nhân thọ;
- Mua cổ phần trong các doanh nghiệp cổ phần hoá;
- Mua cổ phần trên thị trường chứng khoán;
- Đầu tư kinh doanh dưới hình thức thành lập doanh nghiệp;
- Đầu tư vốn cho người thân đi xuất khẩu lao động;
- Đầu tư vào bất động sản;
- Các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án trong lĩnh vực giao thông nên một mặt phát hành trái phiếu công trình, thu hút vốn trong dân...
- Kho bạc Nhà nước vẫn tiếp tục bán lẻ trái phiếu kho bạc qua hệ thống của mình, tổ chức phát hành công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ;
- Vốn nội tệ huy động khó khăn vì nhiều người vẫn chọn ngoại tệ, vàng để cất trữ hay gửi ngân hàng;
Một số kênh thu hút tiền gửi khác: tiết kiệm bưu điện, quỹ đầu tư, quy tương hỗ, các tổ chức tài chính vi mô, tổ tiết kiệm vay vốn của các tổ chức đoàn thể, cầm đồ, xổ số...
Theo kế hoạch thường lệ của hệ thống Ngân hàng, tăng trưởng tín dụng các năm gần đây bình quân khoảng 25% thì để góp phần đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ước tính vốn tín dụng Ngân hàng cần phải đảm bảo tăng thêm 110.000 tỷ đồng - 120.000 tỷ đồng chỉ riêng trong năm 2005, khoảng 120.000 - 140.000 tỷ đồng trong năm 2006 tạo nên áp lực huy động vốn rất lớn, làm cho lãi suất đồng Việt Nam có xu hướng tăng lên. Đó là nhu cầu vốn tín dụng nói chung có thể nêu lên sức ép về nhu cầu vốn một số lĩnh vực quan trọng sau:
- Nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cơ sở giao thông vận tải đến năm 2010 lên tới 580.600 tỷ đồng, nguồn vốn Chính phủ chỉ đáp ứng được 35 - 40%, còn lại phải huy động từ các nguồn khác nhau, một nguồn khá quan trọng là vố Ngân hàng Thương mại.
- Vốn cho các dự án điện lực trong giai đoạn 2005 - 2010 là 13,76 tỷ USD.
- Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển công nghiệp giai đoạn 2004 đến 2010 của các khu công nghiệp cho 16 tỉnh dọc tuyến đường Hồ Chí Minh là 119.902 tỷ đồng.
Như vậy có thể nói, trong giai đoạn 2005 - 2010 nhu cầu vốn đầu tư do nền kinh tế là rất lớn. Chính phủ đã có quyết định phát hành 63.000 tỷ đồng trái phiếu song kết quả phát hành đạt rất thấp, còn vốn từ đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước là gần 20.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó các Ngân hàng Thương mại đang có dư nợ khoảng gần 13.00 tỷ đồng cho vay các đơn vị thi công, xây lắp chưa được chủ đầu tư thanh toán. Do đó vốn đầu tư cho giao thông vận tải, điện lực, công nghiệp... chủ yếu là từ nguồn huy động từ các Ngân hàng Thương mại. Vì vậy sức ép huy động vốn cho sự nghiệp xây dựng đất nước đối với hệ thống Ngân hàng Thương mại nói chung và Ngân hàng Thương mại Cổ phần nói riêng là rất lớn.
II. Giải pháp cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần huy động vốn cho CNH - HĐH đất nước
1. Tri thức hoá trong Ngân hàng
- Đa dạng hoá, hiện đại hoá các nghiệp vụ, phương tiện trong hoạt động Ngân hàng như: phát hành tiền điện tử, đưa vào sử dụng rộng rãi thẻ tín dụng, séc, mở tài khoản làm trung gian thanh toán cho khách hàng. Tiến hành các nghiệp vụ như: dịch vụ uỷ thác, quản lý vốn, chuyển tiền ngay trong ngày.
- Vấn đề công nghệ trong Ngân hàng và trình độ cán bộ. Một mặt đưa kỹ thuật công nghệ hiện đại vào trong ngành Ngân hàng. Mặt khác cần có những cán bộ có trình độ để sử dụng những công nghệ đó. Vì thế cần tổ chức đào tạo nâng cao trình độ, học hỏi kinh nghiệm quản lý, lấy "chất lượng" cán bộ là chính. Không ngừng đổi mới và nâng cao bộ máy quản lý và thái độ làm việc.
2. Chính sách tiền tệ của Nhà nước
Tự do hoá lãi suất, nâng cao chất lượng điều chỉnh của nghiệp vụ thị trường mở, có chính sách thích hợp về lãi suất chiết khấu..., xây dựng hệ thống pháp luật về Ngân hàng phù hợp với đường lối phát triển kinh tế - xã hội, thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo nên sức mạnh nội tại của Ngân hàng
- Tăng cường sức mạnh nội lực và khả năng tự bảo vệ dựa trên cơ sở tăng vốn chủ sở hữu và chủ động áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
- Nâng cao chất lượng tài sản nợ và có cũng như khả năng sinh lời xử lý nhanh gọn số nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tài chính và nâng cao chất lượng hoạt động.
- Hoàn thiẹn hệ thống thông tin rủi ro, sửa đổi quy chế lập dự phòng rủi ro để thực hiện chính xác, hiệu quả và khuyến khích mở rộng nghiệp vụ Ngân hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0198.doc