Lời nói đầu 1
II- Đặc điểm của toàn cầu hoá 2
1- Sự định hình nền kinh tế tri thức: 2
2- Toàn cầu hoá tài chính: 3
3- Vai trò mới của Công ty xuyên quốc gia (TNCs) 4
4- Vai trò của chính phủ: 5
III- NHÂN TỐ THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HOÁ: 5
IV- CÁC TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ KINH TẾ: 11
1- Tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế: 12
2- Tác động tiêu cực của toàn cầu hoá kinh tế 12
V- Việt Nam cần tập trung cơ hội vượt qua thách thức để hội nhập kinh tế có hiệu quả; chủ chương nguyên tắc hoạt động: 14
1- Thuận lợi rất cơ bản đầu tiên của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 15
2- Thuận lợi cơ bản thức ai để Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là. 15
3- Những thời cơ mới để Việt Nam phát triển 16
VI- Biện pháp cần thực hiện hội nhập có hiệu quả: 21
1- Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong tiến trình toàn cầu hoá kinh tế 21
2- Vấn đề then chốt để hội nhập có hiệu quả là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế dân tộc. 23
3- Về mặt quản lý, 24
4- Hội nhập quốc tế có nhiều tầng cấp, 24
5- Hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. 25
6- Để hội nhập tốt, để hạn chế những tiêu cực, 25
7- Trong lịch sử phát triển của dân tộc, chúng ta luôn bị ép, thậm chí còn cản phá bởi thế lực bên ngoài. 25
8- Mặc dù hội nhập có cả tích cực và tiêu cực, song đối với Việt Nam để có thể thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá,. 25
9- Phát triển nguồn nhân lực đi đôi với giữ vững truyền thống tư tưởng đạo đứccủa con người Việt Nam 26
10- Có biện pháp an ninh, chính trị vững vàng: 27
IV- Kết luận: 29
30 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò mới của Công ty xuyên quốc gia (TNCs), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển.
Như vậy, sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh của các Công ty xuyên quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phần xoá bỏ sự ngăn cách, biệt lập trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân tộc từng bước tham gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế, đồng thời nó cũng đem lại nét mới từ những bản sắc riêng của các quốc gia bổ sung vào nền kinh tế toàn cầu, làm gia tăng tính đa dạng của nó
* Thứ hai là vai trò của các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực
Các định chế kinh tế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Sự tồn tại và hoạt động của các định chế toàn cầu và khu vực lại góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu thế toàn cầu hoá.
Trong các tổ chức kinh tế – thương mại – tài chính toàn cầu và khu vực có ảnh hưởng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế phải kể đến WTO, IUF, WB và các tổ chức khu vực EU, NAFTA, APEC.v.v với các mục tiêu chức năng của mình, các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy các hoạt động kinh tế quốc tế, điều phối và quản lý các hoạt động này. Cho dù tính hiệu quả của các tổ chức này còn khác nhau xuất phát từ quan điểm lợi ích quốc gia, sống không ai thừa nhận sự cần thiết và vai trò của chúng, thậm chí còn đặt ra yêu cầu về hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới nguyên tắc hoạt động của chúng
a- Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đây là tổ chức có vai trò hàng đầu trong thúc đẩu sự phát triển của xu hướng toàn cầu hoá kinh tế. WTO tiền thân là hiệp định về thuế quan và mậu dịch (GATT) ra đời năm 1947 như một hợp đồng quốc tế đặt ra luật lệ cho mậu dịch thế giới, chủ yếu là ký kết các hiệp định giảm thuế quan và những hạn chế khác đối với các sản phẩm chế tạo của các nước công nghiệp hoá. Ngày 1/1/1995 WTO ra đời thay cho GATT. WTO có chức năng điều hành và thực thi các hiệp định thương mại đa phương và hiệp định giữa một số bên cấu thành WTO, WTO hoạt động với tính chất một diễn đàn cho các cuộc thương lượng mậu dịch đa phương, tìm kiếm các giải pháp xử lý tranh chấp thương mại, giám sát các chính sách thương mại quốc gia và hợp tác với các thiết chế quốc tế khác liên quan tới hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu. Với chức năng như trên thực tế trong thời gian tồn tại của mình WTO đã đóng góp đáng kể vào thúc đẩu tự do hoá thương mại toàn cầu. Tất nhiên lợi ích của quá trình này đối với các quốc gia, luật chơi của WTO còn nhiều vấn đề phải bàn cãi, song thực tế dường như tất cả các quốc gia (cả phát triển và đang phát triển) đều muốn trở thành thành viên của WTO.
b- Các tổ chức tài chính - tiền tệ lớn như WB, IUF cũng đóng vai trò lớn trong thúc đẩy nền kinh tế thế giới theo xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá. các tổ chức này tham gia vào điều chỉnh quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia thành viên và thực hiện cho vay để hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế – xã hội. nếu WB cho vay theo các dứan và chương trình phát triển dài hạn, thì IUF chủ yếu cho các nước bị thâm hụt cán cân thanh toán vay ngắn và trung hạn
c- Liên hợp quốc: Cùng với vai trò của các định chế kinh tế có tính toàn cầu như trên, việc thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế không thể không nói đến vai trò của Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là các tổ chức kinh tế thuộc Liên Hiệp Quốc, ví dụ như hội nghị Liên Hiệp Quốc về hợp tác và phát triển (LINCTAD).
Vai trò của Liên Hiệp Quốc đối với việc thúc đẩy xu thế toàn cầu khoá kinh tế thể hiện trên hai mặt
Thứ nhất là khía cạnh gián tiếp Liên Hiệp Quốc tổ chức đa phương, đa chức năng có tính toàn cầu. Chương trình nghị sự của Liên Hiệp Quốc không chỉ bó hẹp trong phạm vi kinh tế mà bao gồm cả việc duy trì hoà bình an ninh, giải quyết các vấn đề văn hoá xã hội. Các hoạt động trong lĩnh vực phi kinh tế cũng tạo ra sự ràng buộc gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của các quốc gia thành viên và vì vậy tác động đến sự phối hợp hợp tác của các nước trong các hoạt động kinh tế
Thứ hai là tác động trực tiếp đến thúc đẩy liên kết kinh tế trong phạm vi toàn cầu thông qua các tổ chức chức năng về kinh tế như UNCTAD.
d- Cùng với các tổ chức có tính toàn cầu như trên, các tổ chức khu vực như EU, ASEAN,v.v cũng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Vai trò và tác động của các tổ chức này rất khác nhau do trình độ phát triển của các nước thành viên do mức độ gắn kết và mục tiêu hoạt động .v.v tác động của các tổ chức này đến xu thế toàn cầu hoá thể hiện trên hai hướng chính:
- Thứ nhất việc tham gia vào tổ chức này cho phép các quốc gia được hưởng ưu đãi hoạt động kinh doanh khu vực, thúc đẩy các quốc gia trong khu vực tiến đến những chuẩn mực chung trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở các hoạt động hợp tác song phương và đa phương đã làm tăng lên sự gắn bó tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, thực chất nó phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc trong nội bộ tổ chức.
- Thứ hai, hoạt động của các tổ chức này từ thấp đến cao sẽ đẩy đến hình thành một thị trường thống nhất trong khu vực buộc các quốc gia tham gia phải có lịch trình hội nhập tích cực để hoà đồng vào khu vực
Nói tóm lại, các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả vừa là động lực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Thiếu vắng các tổ chức này, quá trình trên diễn ra sự phát triển và chậm chạp. Thực tế của quá trình quốc tế hoá ở những thời kỳ đầu cho thấy rõ điều đó. Cùng với các nhân tố như đã trình bày, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu đã thúc đẩy xu thế quốc tế hoá phát triển lên bước mới từ cuối những năm 70 trở lại đây và được gọi là toàn cầu hoá.
- Thứ ba, là vai trò của chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát triển từ thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độc của toàn cầu hoá phụ thuộc nhiều vào chính sách phát triển của các quốc gia. Các chính sách này có phù hợp vào xu thế chung của tự do hoá hay không, các chính phủ có ủng hộ vào việc đó hay không? có tích cực tham gia vào phá bỏ hàng rào hạn chế luôn chuyển của các yếu tố sản xuất hay không đều tác động lớn tới xu thế toàn cầu hoá.
Nói tóm lại, toà cầu hoá kinh tế không phải là hiện tượng mới. Nó như tác giả Niall Fijzenrald “toàn cấu hoá không phải là sản phẩm sáng tạo của việc kinh doanh, không phải là một âm mưu của chủ nghĩa tư bản nhằm tạo ra một “thế giới tập đoàn”, cũng không phải là điều tưởng tượng của thế giới học thuật. Toàn cầu hoá là mở rọng tự do hoá quốc tế về tư bảnvà thương mại do sự thôi thúc của những thay đổi về dân số, chính trị, kinh tế và công nghệ và đẩy nhanh bởi các phương tiện liên lạc cao tốc. Nó vừa là nguyên nhân, vừa là kết của của một quan niệm mang tính chất quốc tế sau hàng thập kỷ tồn tại, chế độ bảo hộ nền công nghiệp trong nước đã bị thất bại, cho rằng thị trường mở cửa tạo ra của cải
IV- Các tác động của toàn cầu hoá kinh tế:
- Các đặc trưng của toàn cầu hoá mà chúng ta đã nêu nói nên một điều rằng: toàn cầu hoá đã và đang phát triển mở rộng mạnh mẽ, nó là một xu thế khách quan của thời đại, các quốc gia dù muốn hay không thì vẫn phải lao vào cuộc chơi có tính hai mặt đó. Các quốc gia hiện nay vẫn đang luôn tích cực để làm “trong sáng” quá trình toàn cầu hoá kinh tế và đã gặt hái được không ít những lợi ích mà nó mang lại và không ngừng thúc đẩy nó lên một cách mạnh mẽ. Nhưng một vấn đề quan trọng đặc ra hiện nay là làm thế nào để có thể vận dụng một cách triệt để những lợi ích mà nó mang lại? Điều đó không phải là dễ và cũng không phải là quá khó. Một trong những yếu tố và cũng là nguyên nhân quan trọng cho sự thành công của các quốc gia khi tham gia và quá trình đó là: Cần phải biết xác định những tác động tích cực mà nó mang lại để phát huy nó trở thành một thế mạnh của mình và xác định những mặt tiêu cực của nó để hạn chế một cách tối thiểu ảnh hưởng của nó tới nền nền kinh tế, chính trị của mình. Vậy đâu là tác đọngtích cực và đâu là tác động tiêu cực của nó, điều đó sẽ được làm sáng tỏ trong phần này.
1- Tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế:
Mặt tích cực của toàn cầu hoá kinh tế thẻ hiện ở chỗ: trước hết thông qua tự do hoá thương mại sự thu hoá đầu tư và chuyển dao công nghệ, nó tạo cơ hội cho sự phát triển của kinh tế toàn cầu nói chung và từng quốc gia nói riêng.
- Thứ hai, nó thúc đẩy quá trình cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ, buộc các nền kinh tế phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp, mở rộng nền kinh tế thị trường, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh
- Thứ ba, nó tạo ra một môi trường thuận lợi trong việc nắm bắt thông tin, tri thức mới, giao lưu văn hoá thế giới, trên cơ sở đó các quốc gia buộc phải cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, chuẩn hoá nền tài chính quốc gia nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Thứ tư, nó làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy sự phát triển, tính xã hội hoá của lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế toàn cầu hoá phát triển ở mức ngày càng cao hơn.
2- Tác động tiêu cực của toàn cầu hoá kinh tế
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, toàn cầu hoá kinh tế bộc lộ những mặt tiêu cực
- Thứ nhất, nó khiến cho sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng, dễ dẫn tới tình trạng chủ quyền quốcgia từng bước bị suy giảm không chỉ bên lĩnh vực kinh tế mà còn cả bên lĩnh vực chính trị, văn hoá, đặc biệt là đối với những nước chậm hoặc đang phát triển; đồng thời, cũng làm gia tăng tính phục thuộc về vốn và công nghệ của nền với bên ngoài, mà sự phụ thuộc này dễ gây ra những tác động dây chuyền tiêu cực trong nền kinh tế thế giới (tính lan chuyền nhanh và mạnh của khủng hoảng kinh tế/.
- Thứ hai, nó tạo ra sự phản hoá xã hội ngày càng sâu sức hơn, khoảng cách giàu nghèo ngày một tăng các tệ nạn xã hội, tội phạm và buôn lậu quốc tế có cơ hội và môi trường để gia tăng
- Thứ ba, nó kéo theo tình trạng làm giảm môi trường sinh thái, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống của nhân loại.
- Thứ tư, sự phân phối không đều lợi ích thu được từ quá trình toàn cầu hoá kinh tế tất yếu dẫn đến sự mâu thuẫn giữa các quốc gia.
Với ưu thế vượt trội hơn hẳn về tiềm lực tài chính và trình độ khoa học -công nghệ so với các nước đang phát triển, các nước tư bản khống chế cục diện kinh tế toàn cầu. Mâu thuẫn này thể hiện rõ qua những buộc biểu tình rầm rộ, thậm chí dẫn đến bạo loạn đẫm máu trên đường phố ở một số nước nhằm phản đối sự bất bình đẳng trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế
- Thứ năm, tác động của toàn cầu hoá kinh tế trong mặt tiêu cực của nó đối với chính trị: Quá trình toàn cầu hoá kinh tế càng được tăng cường thì chủ quốc gia của mỗi nước càng bị hạn chế và thu hẹp một cách tương đối thúc đẩy các nguồn vốn đầu vào hình thành các “bong bóng xà phòng”, nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên phạm vi rộng lớn; khoảng cách giầu nghèo trên thế giới và trong mỗi quốc gia ngày càng mở rộng hơn; môi trường toàn cầu hoá là điều thuận lợi cho các nước phương tây tiến hành chiến tranh kinh tế, chiến tranh tâm lý, “diễn biến hoà bình” không buộc các nước đang hoặc chậm phát triển theo sự áp đặt của họ.
Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình phức tạp, đầy những mâu thuẫn; giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, giữa trung tâm và ngoại vi, giữa Bắc và Nam, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ và công bằng xã hội, giữa toàn cầu hoá và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.v.v Hiện nay toàn cầu hoá đã diễn ra trên những chiều hướng trái ngược nhau, xu hướng tự do hoá kinh tế đồng hành với xu hướng bảo hộ mậu dịch, toàn cầu hoá đi liền với phản toàn cầu hoá, phát triển đồng thành với nhân tố phản phát triển
Đúng như văn kiện Địa hội IX của Đảng ta khẳng định: ’toàn cầu hoá là xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia xu thế này đang bị một số nước phát triển và tậo đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối chứa đựng nhiều mâu thuẫn vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác bừa đấu tranh”.
V- Việt Nam cần tập trung cơ hội vượt qua thách thức để hội nhập kinh tế có hiệu quả; chủ chương nguyên tắc hoạt động:
Ngày nay, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế là xu hướng chung của các quốc gia, các dân tộc, không phân biệt trình độ kinh tế, chế độ chính trị xã hội. Đây là vấn đề có tầm chiến lược đói với nhiều nước, trước hết là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan trong thế giới ngày nay. Đối với các nước đang và kém phát triển (trong đó Việt Nam) thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường ngắn nhất rút ngắn tụt hậu so với các nước và có điều kiện phát huy tốt hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Như vậy, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là: Hội nhập hay không hội nhập, mà phải là hội nhập như thế nào có thể tận dụng tốt cơ hội, giảm thách thức trong quá trình phát triển của mình trong điều kiện thế giới có nhiều biến động khó dự đoán hết.
Quá trình toàn cầu hoá, cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế, là một xu thế khách quan tạo nên những thời cơ và vận hội cho các quốc gia; đồng thời đặt ra không ính thách thức cho các nước, nhất là các nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa, thì việc nhìn nhận một cách khách quan về những thời cơ và thách thức đối với kinh tế toàn cầu hoá tạo ra là hết sức cần thiết:
1- Thuận lợi rất cơ bản đầu tiên của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là Đảng và Nhà nước có quan điểm và đường lối đúng và có sự năng động điều chỉnh về chủ trương, chính sách phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong mỗi thời kỳ. Vào giữa và cuối những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế Việt Nam phát triển chậm, không ổn định. Trong bối cảnh cực kỳ khó khăn đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng và các hội nghị Ban chấp hành TW khoá VI đã lắm bắt được xu thế khách quan của thời đại, đề ra đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước trong đó có những quan điểm cơ bản về mở rộng kinh tế đối ngoại theo phương châm’đa phương hoá, đa dạng hoá”. Tiếp theo, Đại hội VII, VIII và IX Đảng ta đã tiếp tục khẳng định thực hiện chủ trương đó.
Tính đến đầu năm 2003, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 90 nước, quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 60 nước, ký kết nhiều hiệp định thương mại với hơn 60 nước, ký kết nhiều hiệp định thương mại nền ngoại giao đa phương hoá và đa dạng hoá của Việt Nam phát triển vượt bậc cả về lượng và chất: tích cực hội nhập ASEAN, tham gia AFTA, và ASEM, phát triển ngày càng sâu rộng quan hệ trên nhiều phương diện với các nước Tây - Bắc Âu và EU, đã gửi đơn gia nhặp WTO. Đây là những thành tự quan trọng góp phần tẩo thế lực mới cho việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hoá - hiện đại hoá đất nước.
2- Thuận lợi cơ bản thức ai để Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là: những thành tự to lớn của quá trình đổi mới, môi trường hoà bình và ổn định nhiều mặt, tiềm năng lớn cả về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người, vị trí địa lý kinh tế quan trọng. Đến nay, sau 17 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tự quan trọng để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
3- Những thời cơ mới để Việt Nam phát triển
- Mở rộng thị trường ra nước ngoài, tìm thị trường mới ho hàng hoá Việt Nam trên cơ sở các hiệp định song phương, đa phương đã ký kết. Việc mở rộng ra thị trường nước ngoài đápứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nếu chúng ta thực hiện đầy đủ các cam kết của AFTA vào năm 2006 thì các hàng công nghiệp chế biến mang thương hiệu Việt Nam, có thể tiêu thụ ở tấy cả các nước ASEAN. Thị trường có số dân hơn nửa tỷ người và GDP trên 700 tỷ USD. Trong tương lai gần khi gia nhập WTO thì Việt Nam sẽ hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc và hàng Việt Nam xuất khẩu vào 148 nước thành viên của tổ chức này được thuận lợi hơn.
- Cơ hội thu hút nguồn vốn từ nước ngoài:
Theo số liệu của bộ kế hoạch và đầu tư, nhận được khi ký kết ODA là 20 tỷ USD, trong đó giải ngân được hơn 10 tỷ USD, đối với FDI có trên 3800 dự án với tổng vốn đăng ký trên 42 tỷ USD. Chính nhờ nguồn vốn này chúng ta xây dựng được nhiều công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, hoạt động có hiệu quả
- Nhiều thời cơ tiếp nhận và đổi mới công nghệ trong thiết bị;
Ngày nay, tốc độ phổ cập tri thức mới, kỹ thuật và công nghệ mới rất nhanh chóng, đa dạng thông qua nhiều hình thức thông tin khác nhau, nhất là con đường nghiên cứu ứng dụng, và tiếp chuyển giao công nghệ. Nhờ đó các nước đang phát triển có cơ hội và thụ hưởng thành tựu khoa học kỹ thuật mới.
- Mở cửa, tạo điều kiện phát huy nội lực:
Nguồn nhân lực Việt Nam hiện khá dồi dào về số lượng và có ưu thế nổi trội về chất lượng ở một số lĩnh vực công nghệ hiện đại như công nghệ thông tin điện tử, công nghệ sinh học Nếu như chúng ta đứng ngoài nền kinh tế thế giới thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn lực đó. Hội nhập kinh tế quốctế sẽ giúp khai thông các mối quan hệ, giao lưu nguồn nhân lực Việt Nam và thế giới. Nhờ hội nhập có thể mở rộng hợp tác trao đổi chuyên gia để đưa đội ngũ cán bộ khoa học của Việt Nam ra làm việc ở nước ngoài, xuất khẩu lao động và việc sử dụng lao động thông qua các hoạt động gia cong chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời có thể nhập khẩu các loại lao động kỹ thuật cao, có công nghệ mới, các bằng sáng chế mà Việt Nam chưa có.
Sự phát triển của các ngành lĩnh vực kinh tế mới như hoạt động thương mại, dịch vụ, công nghiệp bảo vệ nông phẩm, chế biến sản xuất, hàng thủ công mỹ nghệ sẽ tạo nhiều việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tính năng động, sáng tạo trong tư duy và cách làm ăn kinh tế theo cơ chế mới được đẩy mạnh, nhu cầu học tập và tìm hiểu kinh nghiệm quản lý tiên tiến được coi trọng, góp phần quan trọng vào dân chủ hoá đời sống kinh tế.
Tham gia nền kinh tế thế giứi, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp cận các thị trường lớn một cách bình đẳng, sẽ có một vị thế tốt hơn để mở rộng quan hệ buôn bán với các nước. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới cách tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ và trang thiết bị, tiếp thu những phương pháp quản lý tiên tiến, từ bỏ nối làm việc hành chính quan liêu, cửa quyền, bảo thủ, trì trệ.
2- Quá trình toàn cầu hoá tạo ra những thời cơ thuận lợi và nếu biết khai thác, tận dụng thì Việt Nam sẽ càng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thành công nhưng ngay trong quá trình này, Việt Nam sẽ gặp phải những thác thức, khó khăn không nhỏ.
a- Khó khăn là thách thức chủ quan nhất mà Việt Nam cần nỗ lực vượt qua là thực trạng nền kinh tế có nhiều mặt lạc hậu so với khu vực và thế giới nhưng phải chấp nhận là tư cách thành viên cạnh tranh bình đẳngvới các nước khác.
b- Trình độ quản lý kinh tế của Việt Nam nhìn chung còn thấp, phải cố gắng rất lớn mới có thể đáp ứng yêu cầu tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
c- Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam còn chậm. Trong khi rất nhiều nước vận hành theo cơ chế thị trường từ nhiều thập kỷ này chính chúng ta mới chỉ đi những bước đầu trong thời gian ngắn thị trường chưa phát triển, hệ thống chính sách kinh tế chưa đồng bộ, môi trường pháp luật chưa hoàn thiện. nhìn chung, cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật của Việt Nam so với các nước còn nhiều khác biệt và bất cập. Mặt khác, sự hiểu biết về các thông lệ và pháp luật kinh tế của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
Khi nhập WTO và các tổ chức thương mại khác ngoài những lợi ích như được hưởng chế độ tối huệ quốc hoặc có thể cải thiện vị thế thương mại Việt Nam trên trường quốc tế thì chúng ta cần vượt qua những rào cản rất lớn. Đó là chúng ta phải chia sẻ thị phần trong nước với nước ngoài ở những lĩnh vực mà lâu nay đều do các nhà đầu tư trong nước chiếm lĩnh như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, tư vấn
Trong xu thế cạnh tranh toàn cầu và khu vực diễn ra ngày càng gay gắt thì việc Việt Nam tham gia vào hội nhập sau nhiều quốc gia khác cũng là một khó khăn. Là quốc gia đi sau, Việt Nam sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm, nhưng trong xu thế cạnh tranh đầy biến động không phải lúc nào chúng ta cũng tránh được những vấn đề nguy hiểm mà buộc phải đối mặt với nó
d- Công nợ lớn và sử dụng vốn kém hiệu quả
Mặc dù hiện nay tổng dư nợ nước ngoài so với GDP của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn (trên 40% trong những năm gần đây), nhưng xét trên góc độ an ninh tài chính, có một số khía cạnh cần quan tâm.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu đãi cho các dự án còn thấp và chưa được chú ý đúng mức. Một số dự án gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn để trả nợ nước ngoài, nhất là các dứan ở các ngành: mía, đường, dâu tằm tơ, cơ khí, chế biến thuỷ sản Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là khi xây dựng các dự án này đã không xác định rõ mục tiêu, hạng mục đầu tư và tính đồng bộ, nguyên liệu không đủ Do đó hiệu quả còn thấp, gây khó khăn.
e- Sự yêu kém trong việc tiếp nhận các nguồn vốn và công nghệ cũng là một thách thức trong tiến tiến trình hội nhập của Việt Nam
g- Thách thức mang tính tổng hợp là nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và chủ quyền quốc gia;
- Xương sống của quá trình toàn cầu hoá của các nước phát triển với hơn 300.000 chi nhánh khắp nơi trên thế giới hợp thành. Các công ty này với tham vọng là thôn tính các Công ty bản địa đang có xu hướng xáp nhập, chuyển đần từ độc quyền đơn sang độc quyền nhóm để cùng nhau thống trị nền kinh tế thế giới
Những phân tích trên cho thấy bức tranh khá rõ ràng là toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động đến Việt Nam trên nhiều phương diện. Thời cơ và thuận lợi có rất nhiều nhưng khó khăn và thách thức có không ít. Tuy nhiên không vì những thách thức to lớn đó mà Việt Nam đứng ngoài cuộc. Ngược lại phải kịp thời nắm bắt thời cơ,vận hội, phát huy những thuận lợi, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động sáng tạo theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng và chủ trương, chính sách của Nhà nước.
* Chủ trương nguyên tắc hoạt động :
Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới ngày nay không thẻ tồn tại và phát triển nếu đứng biệt lập. Vấn đề đặt ra cần có cách nhìn khách quan về những thưòi cơ và thách thức, do toàn cầu hoá mang lại, để có thể phân định một cách đúng đắn giữa thời cơ và thách thức, cái được và cái mất. Tuy nhiên việc đó không dễ dàng, vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết nội tại, trong thời cơ có thách thức, trong thách thức có luận lợi. Như vậy, để tranh thủ thời cơ, vận hội phát huy thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; Việt Nam cần có chiến lược đúng đắn, đề ra những chủ trương, biện pháp thực hiện đúng đắn:
- Hội nhập chủ động là phương châm hợp lý bảo đảm cho chúng ta hoà nhập với cộng đồng thế giới mà không bị hoà tan, tức vẫn bảo đảm được bản sắc, giữ vững được nền độc lập. Để chủ động hội nhập và đòi hỏi chúng ta phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ những kiến thức nghiệp vụ quản lý, phương tiện giao tiếp phải tiến hành tổ chức nghiên cứu thường xuyên và chuyên sâu về tình hình quốc tế, về các tổ chức kinh doanh quốc tế nói chung đặc biệt các đối tượng làm ăn chính.
- Vấn đề then chốt để hội nhập có hiệu quả là phải nâng cao hiệu lực cạnh trah của nền kinh tế dân tộc
Muốn vậy phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Về mặt quản lý, tổ chức hội nhập phải nhanh chóng khắc phục yếu kém đang cản trở hội nhập. Phải đảm bảo tính nhất quán của hệ thống luật lệ, chính sách đơn giản hoá các thủ tục hành chính làm cho nó phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Hội nhập quốc tế có nhiều tầng cấp, chúngta phải tranh chủ kết hợp tất cả các hình thức từ song phương đến đa phương, từ việc tham gia vào các định chế toàn cầu, khu vực đến ký các hợp đồng thoả thuận, sử dụng các biện pháp kinh tế và phi kinh tế một ách linh hoạt để điều chỉnh nhịp độ hội nhập.
- Hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa cạnh tranh chúng ta tham gia hợp tác nhưng phải luôn chú ý cảnh giác tránh thu thiệt, không chỉ trên kinh tế mà còn trên phương diện khác. Chúng ta hội nhập trên cơ sở hợp tác nhưng phải đấu tranh cho quá trình hội nhập bình đẳng.
- Để hội nhập tốt, để hạn chế những tiêu cực, chúng ta cần tổ chức thông tin về sự cần thiết cũng như những điều cần chú ý trong tiến trình hội nhập. Cần coi hội nhập không chỉ coi là công việc của cơ quan Nhà nước mà là sự nghiệp toàn dân, của các doanh nghiệp và đoàn thể xã hội.
Vậy phải tổ chức tìm hiểu giới thiệu về toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế một cách rộng lãi.
- Mặc dù hội nhập có cả tích cực, song đối với Việt Nam, để có thể thực hiện quá trình công nghiệp hoá, đòi hỏi chúng ta, nói như thủ tướng Phan Văn Khải, cần phải “chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, nhiệm vụ cấp bách nhất là chuẩn bị thực hiện lịch trình AFTA, tham gia vào diễn đàn APEC, đẩy mạnh đàm phán tham gia WTO.
VI- Biện pháp cần thực hiện hội nhập có hiệu quả:
Như chúng ta đã biết thì toàn cầu hoá đang là một xu thế tất yếu và khách quan. Các nước dù muốn hay không muốn thì vẫn bị lôi vào vòng xoáy của thời đại đó. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với nước ta bây giờ l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0132.doc