Để thanh toán tiền lương, thưởng và các phụ cấp trợ cấp cho người lao động, hàng tháng kế toán doanh nghiệp phải lập "Bảng thanh toán tiền lương" cho từng tổ, đội, phân xưởng sản xuất và các phòng ban căn cứ vào kết quả tính lương cho từng người. Trong bảng thanh toán tiền lương có ghi rõ từng khoản tiền lương gồm lương sản phẩm, lương thời gian, các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản khấu trừ và số tiền người lao động được lĩnh. Các khoản thanh toán trợ cấp BHXH cũng được lập tương tự. Sau khi kế toán trưởng kiểm tra, xác nhận, ký, giám đốc ký duyệt, "Bảng thanh toán lương và BHXH" sẽ là căn cứ để thanh toán lương BHXH cho từng người lao động.
21 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 7040 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò và bản chất của tiền lương và các khoản trích theo lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công) chính là phần thù lao lao động được biểu hiện bằng tiền mà các doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng công việc của họ. Về bản chất tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, được thoả thuận hợp lý của người mua và người bán sức lao động. Trong xã hội phát triển, tiền lương trở thành một bộ phận của họ. Mặt khác, tiền lương còn là đòn bảy kinh tế. Để khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thích và tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc của họ. Nói cách khác, tiền lương là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động.
Cũng như các loại hàng hoá khác trên thị trường, tiền lương cũng tuân theo quy luật cung cầu, quy luật giá cả trên thị trường và theo quy định của Nhà nước. Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tiền lương không gắn chặt với số lượng và chất lượng lao động vì thế nó không tạo được động lực phát triển sản xuất. Chỉ từ khi đổi mới cơ chế nền kinh tế, nó mới thực sự đóng vai trò thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Như vậy, ta có thể tổng hợp khái niệm về tiền lương: "Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử dụng lao động phải cho cho người cung ứng sức lao động, tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước". Tiền lương vừa là một phạm trù về phân phối vừa là một phạm trù của trao đổi và tiêu dùng.
Trên thực tế, tiền lương chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó đáp ứng được nhu cầu của người lao động. Xã hội càng phát triển, trình độ và kỹ năng làm việc của người lao động ngày càng cao, tiền lương không chỉ đáp ứng được nhu cầu tinh thần của người lao động. Người lao động không quan tâm đến khối lượng tiền nhận được mà thực chất là họ quan tâm đến khối lượng hàng hoá dịch vụ mà họ có thể mua được bằng tiền của mình. Do vậy, đã tồn tại hai khái niệm là tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào trình độ lao động và kinh nghiệm của họ.
Tiền lương thực tế là số lượng mà các loại hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cần thiết mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
Mối liên hệ giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.
Tiền lương thực tế =
Vậy, tiền lương thực tế phụ thuộc nhiều vào tiền lương danh nghĩa và chỉ số giá cả hàng hoá, dịch vụ. Nếu tiền lương danh nghĩa cao mà chỉ số giá cả cũng cao thì tiền lương thực tế thấp. Chỉ khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn tốc độ tăng thêm của chỉ số giá cả thì thu nhập thực tế của người lao động mới tăng. Tiền lương thực tế là yếu tố quyết định khả năng tái sản xuất.
Theo điều 55 của Bộ Luật Lao động ghi: "Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và trả theo năng suất lao động, chất lượng lao động và hiệu quả công việc".
b) Bản chất của các khoản trích theo lương
Các khoản trích theo lương gồm có: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn.
* Bảo hiểm xã hội
Theo khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế ILOS, Bảo hiểm xã hội được hiểu là sự bảo vệ của xã hội với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, bị giảm thu nhập do ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngaòi ngân sách Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Nguồn hình thành quỹ BHXH:
Theo Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau:
- Người sử dụng lao động đóng bằng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động
- Các nguồn khác: được viện trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước
* Bảo hiểm y tế
Nhằm xã hội hoá việc khám chữa bệnh, người lao động còn được hưởng các khoản khám chữa bệnh không mất tiền bao gồm các khoản viện phí, thuốc men trong thời gian sinh đẻ nếu họ có thẻ bảo hiểm y tế và các khoản khám chữa bệnh đó nằm trong phạm vi bảo hiểm. Thẻ BHYT được trích mua từ quỹ BHYT.
Theo Nghị định 47-CP ngày 6/6/1994 quy định, tỷ lệ trích BHXH 3% tiền lương, trong đó 2% tính vào chi phí sản xuất kinh doanh do chủ doanh nghiệp (người sử dụng lao động) trả, 1% tính trừ vào thu nhập của người lao động. BHXH mang tính chất bắt buộc với mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
c) Kinh phí công đoàn
Công đoàn là một tổ chức của người lao động, do người lao động lập ra, hoạt động vì lợi ích của người lao động. Công đoàn đại diện cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, vừa bảo vệ quyền lợi vừa trực tiếp hướng dẫn và giáo dục thái độ lao động cho họ. Đây là một tổ chức cần thiết trong mọi doanh nghiệp. Để có nguồn kinh phí cho hoạt động của tổ chức công đoàn, hàng tháng các doanh nghiệp phải trích một tỷ lệ quy định trên tổng tiền lương tiền công và phụ cấp thực tế phải trả lao động để hình thành kinh phí công đoàn.
Theo chế độ hiện hành, tỷ lệ trích kinh phí công đoàn là 2% được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh do chủ doanh nghiệp chịu. Trong 2% này thì 1% nộp cho hoạt động công đoàn cấp trên, 1% còn lại dành cho hoạt động công đoàn cơ sở.
1.1.3. Yêu cầu của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
1.1.3.1. Yêu cầu quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương
Xuất phát từ tầm quan trọng của tiền lương và các khoản trích theo lương đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng, cũng như toàn bộ nền kinh tế nói chung, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt yêu cầu quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương.
- Theo dõi chặt chẽ số lượng lao động trong doanh nghiệp, thời gian làm việc, trình độ của người lao động. Từ đó, lựa chọn hình thức trả lương phù hợp với mỗi người, phải tổ chức phân công lao động sao cho họ có thể phát huy hết khả năng của mình để phục vụ cho công ty.
- Xây dựng kế hoạch tiền lương, tổ chức thực hiện kế hoạch tiền lương sao cho tiết kiệm, có hiệu quả, đúng chính sách của Nhà nước thực hiện các chế độ thống kê về lao động tiền lương một cách chính xác, trung thực, kịp thời.
- Tổ chức thực hiện nâng cấp, nâng bậc nâng lương cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp sao cho công bằng, công khai, đúng chính sách.
- Định kỳ làm tốt công tác thanh toán tiền lương và các khoản trích theo lương của doanh nghiệp đối với người lao động. Mặt khác, theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi của người lao động đối với tổ chức công doàn.
1.1.3.2. Nhiệm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương không chỉ liên quan đến quyền lợi của người lao động mà còn liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để phục vụ sự quản lý tiền lương có hiệu quả, kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở doanh nghiệp cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổ chức ghi chép, phản ánh, tổng hợp một cách trung thực, kịp thời, đầy đủ tình hình hiện có và sự biến động về số lượng, chất lượng lao động, tình hình sử dụng thời gian lao động và kết quả lao động.
- Tính toán chính xác, kịp thời, đúng chính sách, chế độ các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản trợ cấp phải trả cho người lao động. Phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác tình hình thanh toán các khoản tiền lương cho người lao động.
- Thực hiện việc kiểm tra tình hình huy động và sử dụng lao động, tình hình chấp hành các chính sách, chế độ về lao động tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ. Tình hình sử dụng quỹ tiền lương, quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ.
- Tính toán và phân bổ chính xác đúng đối tượng các khoản tiền lương và các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh. Hướng dẫn và kiểm tra các bộ phận trong đơn vị thực hiện đầy đủ, đúng đắn chế độ ghi chép ban đầu về lao động tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ, đề xuất các biện pháp nhằm khai thác có hiệu quả, tiềm năng lao động, tăng năng suất lao động. Đấu tranh chống những hành vi vô trách nhiệm, vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm chính sách chế độ sử dụng chỉ tiêu KPCĐ, chế độ phân phối theo lao động.
- Lập báo cáo về lao động tiền lương và các khoản trích theo lương, phân tích tình hình sử dụng lao động, quỹ tiền lương, quỹ BHXH, quỹ BHYT. Đề xuất biện pháp để khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động, tăng năng suất lao động, ngăn ngừa những vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm chính sách chế độ an toàn lao động, tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.3.1. Các hình thức tiền lương
Do tiền lương được trả căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng công việc nên việc tính lương và trả lương cho người lao động được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ vào điều kiện sản xuất kinh doanh, tính chất công việc và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Mục đích của chế độ tiền lương là luôn phải quán triệt nguyên tắc phân phối lao động. Trên thực tế nước ta thường áp dụng các hình thức trả lương như sau:
1.3.1.1. Hình thức trả lương theo thời gian
Theo hình thức này, tiền lương trả cho người lao động được tính theo thời gian làm việc, cấp bậc và thang lương theo tiêu chuẩn Nhà nước quy định. Tuỳ theo yêu cầu và khả năng quản lý thời gian lao động của doanh nghiệp việc tính trả lương theo thời gian lao động có thể tiến hành trả lương theo thời gian giản đơn và trả lương theo thời gian có thưởng.
- Trả lương theo thời gian giản đơn: chế độ trả lương này là chế độ trả lương mà tiền lương nhận được của mỗi người lao động do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian làm việc thực tế nhiều hay ít quyết định. Chế độ trả lương này chỉ thực hiện khi dịnh mức lao động và đánh giá công việc thật chính xác.
Công thức tính:
Lcn =
Trong đó: Lcn: Lương người lao động
Lmin: lương tối thiểu
Kcn: hệ số lương cấp bậc
T: Thời gian làm việc thực tế
Có 4 loại tiền lương theo thời gian giản đơn:
+ Lương giờ: là tiền lương được trả cho 1 giờ làm việc và được xác định bằng số tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn theo quy định của luật lao động (không qua 8 giờ/ngày).
+ Lương ngày: là tiền lương trả cho một tuần làm việc được xác định trên cơ sở lấy lương tháng chia cho số ngày làm việc trong tháng.
+ Lương tuần: là tiền lương trả cho một tuần làm việc được xác định trên cơ sở lấy lương tháng chia cho số ngày làm việc trong tháng.
+ Lương tuần: là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động.
Nhược điểm của hình thức trả lương theo thời gian giản đơn là mang tính chất bình quân, không khuyến khích sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nhiên liệu, tập trung công suất máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động.
- Trả lương theo thời gian có thưởng: chế độ trả lương này là sự kết hợp chế độ trả lương theo thời gian giản đơn và tiền thưởng khi đạt được chỉ tiêu về số lượng và chất lượng công việc đã quy định. Chế độ trả lương này chủ yếu áp dụng với công nhân phụ làm việc phục vụ như công nhân sửa chữa, điều chỉnh thiết bị. Ngoài ra còn áp dụng đối với công nhân chính làm việc ở những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hoá, tự động hoá hay các công việc phải tuyệt đối đảm bảo chất lượng. Chế độ trả lương này tính lương cho công nhân gồm: tiền lương theo thời gian giản đơn cộng với thưởng. Nó không những phản ánh trình độ thành thạo và thời gian làm việc thực tế mà còn gắn với thành tích công tác. Do đó cùng với ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kĩ thuật chế độ trả lương này ngày càng được áp dụng rộng rãi.
1.3.1.2. Hình thức trả lương theo sản phẩm
Hiện nay có rất nhiều đơn vị kinh tế cơ sở thuộc các thành phần kinh tế khác nhau áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm với nhiều chế độ linh hoạt.
Hình thức trả lương này có nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương theo thời gian và có những tác dụng sau:
+ Quán triệt hơn nguyên tắc phân phối theo lao động (theo số lượng và chất lượng sản phẩm) gắn liền với thu nhập về tiền lương và kết quả sản xuất của mỗi người kích thích năng suất lao động.
+ Khuyến khích mỗi người lao động ra sức học hỏi nâng cao trình độ tay nghề, cải tiến phương pháp lao động, sử dụng tốt máy móc thiết bị để nâng cao năng suất lao động.
Hình thức trả lương này căn cứ vào kết quả, số lượng và chất lượng sản phẩm, công việc lao vụ đã hoàn thành và đơn giá tiền lương cho một sản phẩm, lao vụ đó.
Tuỳ theo mối quan hệ giữa người lao động với kết quả lao động, tuỳ theo yêu cầu về quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm tăng nhanh sản lượng và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có thể thực hiện theo các hình thức tiền lương sản phẩm như sau:
+ Tiền lương theo sản phẩm trực tiếp, không hạn chế là: tiền lương thực lĩnh bằng số lượng sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành nhân với đơn giá tiền lương sản phẩm, không hạn chế số lượng sản phẩm hoàn thành, hình thức này áp dụng cho công nhân trực tiếp sản xuất.
+ Tiền lương theo sản phẩm có thưởng: là hình thức trả lương theo sản phẩm trực tiếp hoặc gián tiếp kết hợp với chế độ tiền thưởng trong sản xuất.
+ Tiền lương theo sản phẩm gián tiếp: theo hình thức này người ta căn cứ vào kết quả lao động của công nhân trực tiếp sản xuất và người phụ việc phục vụ để tính trả lương gián tiếp cho công nhân phụ việc.
+ Tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến: theo hình thức này ngoài lương tính theo sản phẩm trực tiếp, còn theo mức độ vượt định mức sản xuất sản phẩm để tính thêm một khoản tiền lương theo tỷ lệ luỹ tiến, áp dụng khi cần đẩy mạnh sản xuất hoặc công việc.
1.3.1.3. Hình thức trả lương khoán
- Hình thức trả lương khoán là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc mà họ hoàn thành. Hình thức trả lương này áp dụng cho những công việc mà nếu giao cho từng chi tiết, từng bộ phận sẽ không có lợi mà phải giao toàn bộ công việc cho cả nhóm hoàn thành trong thời gian nhất định, có một số hình thức trả lương khoán như sau:
+ Trả lương khoán gọn theo sản phẩm cuối cùng: hình thức này thường áp dụng cho những doanh nghiệp mà quá trình sản xuất phải qua nhiều giai đoạn công nghệ.
+ Trả lương khoán quỹ lương: tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà hình thành quỹ lương để phân chia cho người lao động.
1.3.1.4. Các chế độ trả lương phụ, thưởng, trợ cấp
a) Chế độ phụ cấp
Người lao động trong doanh nghiệp ngoài chế độ tiền lương còn được hưởng các loại chế độ phụ cấp theo quy định của thông tư Liên bộ số 20/LB-TTVN ngày 02/6/1993 của Liên bộ Lao động - Thương binh xã hội- Tài chính. Thông tư này quy định có 7 loại phụ cấp sau:
+ Phụ cấp làm đêm: Nếu người lao động làm thêm giờ vào ban đêm (22 giờ đến 6h sáng) thì ngoài số tiền trả cho số giờ làm thêm người lao động còn được hưởng phụ cấp làm đêm. Phụ cấp làm đêm được tính như sau:
=
Trong đó:
- 30%: đối với những công việc không thường xuyên làm về ban đêm.
- 40%: đối với những công việc thường xuyên làm việc theo ca (chế độ làm việc 3 ca) hoặc chuyên làm việc ban đêm.
+ Phụ cấp lưu động: Nhằm bù đăpc cho những người làm một hoặc một số nghề hoặc công việc phải thường xuyên đổi nơi ở và làm việc; điều kiện sinh hoạt không ổn định, gặp nhiều khó khăn. Loại phụ cấp này chỉ áp dụng với nghề và công việc có tính chất lưu động chưa được định rõ trong mức lương. Nghề hoặc công việc lưu động nhiều, phạm vi rộng, địa hình phức tạp và khó khăn thì được hưởng phụ cấp cao. Phụ cấp lưu động được trả theo số ngày thực tế lao động và được tính trả cùng kỳ với trả lương và hạch toán vào giá thành hoặc chi phí lưu thông.
+ Phụ cấp trách nhiệm: Nhằm bù đắp cho những người vừa trực tiếp sản xuất vừa làm công việc chuyên môn nghiệp vụ vừa kiêm nhiệm công tác quản lý không thuộc chức vụ lãnh đạo bổ nhiệm hoặc những người làm công việc đòi hỏi trách nhiệm cao chưa được xác định trong mức lương. Phụ cấp trách nhiệm được tính trả cùng kỳ với lương hàng tháng. Đối với doanh nghiệp, loại phụ cấp này được tính vào đơn giá tiền lương và hạch toán vào giá thành hoặc chi phí quản lý.
+ Phụ cấp thu hút: áp dụng đối với CNVC đến làm việc tại những vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế ở các đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn do chưa có cơ sở hạ tầng, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Cách tính phụ cấp thu hút như sau:
= x
Có các mức phụ cấp 20%, 30%, 50%, 70% tính trên lương cấp bậc, chức vụ, lương chuyên môn nghiệp vụ. Thời gian hưởng phụ cấp từ 3 đến 5 năm tuỳ thuộc vào điều kiện sinh hoạt khó khăn dài hay ngắn của từng vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và đảo xa đất liền.
+ Phụ cấp đắt đỏ:
áp dụng đối với những nơi có chỉ số giá sinh hoạt (lương thực, thực phẩm dịch vụ) cao hơn do với chỉ số giá sinh hoạt bình quân chung của cả nước từ 19% trở lên.
+ Phụ cấp độc hại:
áp dụng cho các doanh nghiệp làm việc trong môi trường độc hại (hoặc nguy hiểm chưa xác định trong mức lương.
b) Chế độ thưởng
Ngoài chế độ tiền lương, các doanh nghiệp còn tiến hành xây dựng chế độ tiền thưởng cho các cá nhân, tập thể có thành tích sản xuất kinh doanh.
Tiền thưởng thực chất là khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt đầy đủ nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong cơ cấu thu nhập của người lao động thì tiền lương có tính ổn định thường xuyên còn tiền thưởng chỉ là phần thu nhập thêm và phụ thuộc vào các chỉ tiêu thưởng, phụ thuộc vào thành tích lao động.
Nguyên tắc thực hiện chế độ thưởng:
+ Đối tượng xét thưởng: lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp từ 1 năm trở lên và có đóng góp vào kết quả sxkd của doanh nghiệp.
+ Mức thưởng: mức thưởng 1 năm không thấp hơn 1 tháng lương theo nguyên tắc sau:
- Căn cứ vào kết quả đóng góp của người lao động đối với doanh nghiệp thể hiện qua năng suất, chất lượng công việc.
- Căn cứ vào thời gian làm việc tại doanh nghiệp, người có thời gian công tác nhiều hơn thì được hưởng nhiều hơn.
- Chấp hành tốt nội quy, kỷ luật của doanh nghiệp.
+ Các loại thưởng: Tiền thưởng bao gồm: Thưởng thi đua (lấy từ quỹ khen thưởng) và thưởng trong sản xuất kinh doanh như nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vật tư, phát minh sáng kiến (lấy từ quỹ lương).
- Tiền thưởng thi đua (không thường xuyên): loại thưởng này không lấy từ quỹ lương mà được trích từ quỹ khen thưởng. Khoản này được trả dưới hình thức bình xét trong một kỳ.
- Tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh (thường xuyên): hình thức thưởng này có tính chất lương. Đây thực chất là một phần của quỹ lương được tách ra để cho cho người lao động dưới hình thức tiền thưởng cho một tiêu chí nhất định. Trong đó, tiền thưởng về chất lượng sản phẩm được tính trên cơ sở tỷ lệ quy định chung (không quá 40% chênh lệch giá giữa sản phẩm có phẩm cấp cao so với sản phẩm có phẩm cấp thấp); Tiền thưởng về tiết kiệm vật tư được tính trên cơ sở giá trị tiết kiệm được so sánh với định mức (tỷ lệ quy định không vượt quá 40%).
Quỹ tiền thưởng được trích lập từ lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế lợi tức, thanh toán công nợ, tiền phạt tối đa không quá 5% quỹ tiền lương thực hiện của doanh nghiệp. Để tiền thưởng trở thành công cụ khuyến khích vật chất phải kết hợp chặt chẽ với các hình thức và các chế độ thưởng cùng với việc xác địh rõ quỹ tiền thưởng của doanh nghiệp trước khi trả lương.
1.4. Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương
1.4.1. Nguyên tắc hạch toán:
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động trong các doanh nghiệp, tiền lương phụ thuộc vào vị trí và trách nhiệm của người lao động với công việc. Số tiền phải trả cho mỗi cá nhân là khác nhau. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác hạch toán tiền lương là phải hạch toán trên nguyên tắc chính xác tuyệt đối, đảm bảo sự công bằng trong doanh nghiệp.
Công tác hạch toán tiền lương được tiến hành theo hai phương pháp là hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp.
1.4.2. Hạch toán chi tiết
Tổ chức hạch toán chi tiết các nghiệp vụ về tiền lương trong doanh nghiệp là sự quan sát, phản ánh, giám đốc trực tiếp về số lượng lao động, thời gian lao động và kết quả lao động. Trên cơ sở đó sẽ tính toán và xác định số tiền lương phải trả cho từng lao động trong doanh nghiệp.
1.4.2.1. Hạch toán số lượng lao động
Để quản lý số lượng lao động, các doanh nghiệp sử dụng sổ danh sách lao động. Sổ này do phòng lao động tiền lương lập, căn cứ vào sổ lao động hiện có của doanh nghiệp. Sổ danh sách lao động không chỉ được lập chung có toàn doanh nghiệp mà còn được lập riêng cho từng bộ phận trong doanh nghiệp để nắm tình hình phân bổ, sử dụng lao động hiện có của từng đơn vị.
Cơ sở để ghi danh sách lao động là những chứng cứ ban đầu về tuyển dụng, thuyên chuyển công tác, nâng bậc, thôi việc Các chứng cứ này do phòng tổ chức lao động tiền lương lập mới khi có sự thay đổi về số lao động.
Mỗi biến động đều được ghi chép kịp thời vào sổ sách lao động để trên cơ sở đó làm căn cứ cho việc tính lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động kịp thời.
1.4.2.2.Hạch toán thời gian lao động
Hạch toán sử dụng thời gian lao động phải đảm bảo ghi chép, phản ánh kịp thời, chính xác số ngày công, gìơ công làm việc thực tế hoặc ngừng sản xuất, nghỉ việc của từng lao động, từng phòng ban trong doanh nghiệp. Hạch toán sử dụng thời gian lao động có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý lao động, kiểm tra việc chấp hành kỷ luật lao động, làm căn cứ tính lương, thưởng chính xác cho người lao động.
Chứng từ ban đầu quan trọng nhất để hạch toán thời gian lao động trong các doanh nghiệp là "bảng chấm công" (mẫu 02-LĐtiền lương và các khoản trích theo lương, chế độ chứng từ kế toán). Mọi thời gian thực tế làm việc, nghỉ việc, vắng mặt của người lao động đều phải ghi chép hàng ngày vào bảng chấm công. Bảng chấm công được lập cho từng bộ phận, tổ đội lao động sản xuất và dùng trong một tháng. Tổ trưởng sản xuất hoặc trưởng các phòng ban là người trực tiếp ghi bảng chấm công căn cứ vào số lao động có mặt, vắng mặt hàng ngày ở đơn vị mình. Cuối tháng, bảng chấm công được dùng để tổng hợp thời gian lao động.
1.4.2.3. Hạch toán kết quả lao động
Đi đôi với việc hạch toán số lượng và thời gian lao động việc hạch toán kết quả lao động là một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác quản lý và hạch toán lao động ở các doanh nghiệp sản xuất.
Hạch toán kết quả lao động phải đảm bảo phản ánh chính xác số lượng và chất lượng sản phẩm hoặc khối lượng công việc hoàn thành của từng người, từng bộ phận. Làm căn cứ tính lương, tính thưởng và kiểm tra sự phù hợp của tiền lương phải trả với kết quả lao động thực tế, tính toán xác định năng suất lao động, kiểm tra tình hình thực hiện định mức lao động của từng người, từng bộ phận và cả doanh nghiệp.
Để hạch toán kết quả lao động trong các doanh nghiệp người ta sử dụng các chứng từ ban đầu khác nhau, tuỳ thuộc vào loại hình và đặc điểm sản xuất của từng doanh nghiệp. Các chứng từ ban đầu được sử dụng phổ biến để hạch toán kết quả lao động và các báo cáo về sản xuất như: Phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành (Mẫu 06-LĐtiền lương và các khoản trích theo lương, chế độ chứng từ kế toán). Bảng theo dõi công tác ở tổ, phiếu khoán, hợp đồng giao khoán, phiếu báo làm thêm giờ Chứng từ hạch toán kết quả lao động được lập do tổ trưởng ký, cán bộ kiểm tra kỹ thuật xác nhận. Các chứng từ này được chuyển cho phòng lao động tiền lương xác nhận và chuyển về phòng kế toán để làm căn cứ tính lương, tính thưởng. Hạch toán kết quả lao động là cơ sở để tính lương cho người lao động hay bộ phận lao động hưởng lương theo sản phẩm. Đồng thời kế toán tính trợ cấp BHXH cho người lao động căn cứ vào: giấy nghỉ ốm, biên bản điều tra tai nạn lao động, giấy chứng sinh
1.4.2.4. Tính lương, thưởng cho người lao động
Công việc tính lương, thưởng cho người lao động và các khoản phải trả khác cho người lao động được thực hiện tập trung tại phòng kế toán doanh nghiệp. Thời gian để tính lương thưởng và các khoản phải trả khác cho người lao động theo tháng. Tất cả chứng từ làm căn cứ để tính phải được kế toán kiểm tra trước khi tính lương, thưởng và bảo đảm được yêu cầu của chứng từ kế toán.
Sau khi đã kiểm tra chứng từ kế toán tính lương, trợ cấp, phụ cấp kế toán tiến hành tính theo các hình thức chế độ đang áp dụng tại doanh nghiệp.
Để thanh toán tiền lương, thưởng và các phụ cấp trợ cấp cho người lao động, hàng tháng kế toán doanh nghiệp phải lập "Bảng thanh toán tiền lương" cho từng tổ, đội, phân xưởng sản xuất và các phòng ban căn cứ vào kết quả tính lương cho từng người. Trong bảng thanh toán tiền lương có ghi rõ từng khoản tiền lương gồm lương sản phẩm, lương thời gian, các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản khấu trừ và số tiền người lao động được lĩnh. Các khoản thanh toán trợ cấp BHXH cũng được lập tương tự. Sau khi k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kk279c.doc