Vấn đề ô nhiễm môi trường trong các khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng và các giải pháp kinh tế

Một đặc điểm khác trong sựphân bốcác KCN, KCXtrên địa bàn TP.HCM là về cơ

cấu của hệthống các KCN, KCXchưa được định hình. Cụthểlà không có sựphân chia chức

năng và xác định vai trò của từng khu trong hệthống. Tuy thành phố, và các tỉnh ven TP.HCM

đều có quy hoạch tổng thểphát triển các cơ sởcông nghiệp riêng, nhưng toàn vùng lại thiếu

quy hoạch chung, thiếu định hướng của cảvùng. Mỗi tỉnh thànhđều cốgắng “thu hút dựán

đầu tư” theo cách của mình mà không quan tâm đến định hướng vùng, ưu tiên vùng.

Vì vậy vềtổng thểsốKCN vừa thừa lại vừa thiếu: thừa vì có quá nhiều KCN có tính

chất giống nhau; mà thiếu những KCN có chức năng chuyên biệt. Chính vì sự “ đa chức năng”

này nên tình trạng chất thải thải ra cũng là tổng hợp của của các nhà máy trong KCN. Chẳng

hạn như DN sản xuất nước mắm đặt gần DN chếbiến cao su ( KCN Tân Tạo, KCN Lê Minh

Xuân, ), DN chếbiến thực phẩm gần với DN nhuộm Với các ngành, lĩnh vực sản xuất

khác nhau thì chất thải cũng khác nhau, đôi khi gây hiệu ứng không tốt cho nhau (như mùi cao

su sẽlẫn trong mùi nước mắm và ngược lại, rất khó chịu và mất mỹquan). Hơn nữa loại ô

nhiễm khác nhau phải sửdụng công nghệxửlý ô nhiễm khác nhau làm cho công tác xửlý tốn

kém và không hiệu quả. Một thực tếcho thấy là dù biết như vậy nhưng hầu như các KCN-KCX vẫn chưa xem trọng và đánh giá cao vềvấn đềnày

pdf48 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2885 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề ô nhiễm môi trường trong các khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng và các giải pháp kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các KCN, KCX do HEPZA đảm trách. Tính đến cuối năm 2005, TP.HCM có tất cả 12 KCN, 3 KCX, 1 khu công nghệ cao và gần 23.000 cơ sở sản xuất vừa và nhỏ. KCX Tân Thuận là đơn vị tiên phong trong công tác BVMT và xây dựng nhà máy XLNT tập trung (khởi công tháng 3/1996) với công suất thiết kế 10.000 m3/ngày. Tiếp theo từ năm 1999 đến năm 2005, 05 KCX và KCN bao gồm: Linh Trung, Linh Trung 2, Lê Minh Xuân, Tân Tạo (Giai đoạn1), Tân Bình tiếp tục tiến hành xây dựng và hoàn thành nhà máy XLNT tập trung. Tuy nhiên, ngay cả ở những KCN đã có trạm XLNT tập trung, thì chất lượng thực tế của các công trình này vẫn còn hạn chế, chưa đạt được những tiêu chuẩn quy định, gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ở một số KCN tập trung các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, thuộc da, hoá chất… Theo đại diện của BQL tại mỗi KCN, mỗi lần kiểm tra luôn có nhiều DN vi phạm việc xả thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm. Doanh nghiệp đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nhưng không vận hành vì tiêu hao thêm nhiều chi phí. Theo ước tính, mỗi KCN lúc bấy giờ thải khoảng từ 3.000-10.000 m3 nước thải/ngày đêm. Riêng lượng chất thải rắn công nghiệp của thành phố đo được khoảng 1.500 - 1.800 tấn/ngày (nguồn: BQL KCX, KCN TPHCM). Phần lớn chất thải công nghiệp có khả năng tái sử dụng nên được thu gom, phân loại và tái chế; các CTNH được xử lý tiêu huỷ bằng phương pháp đốt hoặc đóng rắn,. . . ; phần còn lại (không có khả năng tái chế hoặc CTNH) được nhập chung chôn lấp cùng chất thải rắn sinh hoạt. Việc giám sát chất lượng môi trường được triển khai định kỳ nhưng không phản ánh trung thực mức độ ô nhiễm do HĐSX tại các DN gây ra (do khi kiểm tra phải có văn bản thông báo đến các DN). Các DN chưa thực hiện chế độ báo cáo chất lượng môi trường một cách đều đặn và đúng thời gian. Đồng thời khó khăn lớn nhất là còn ít DN thực hiện chế độ này, ngoại trừ những DN đã được cấp Chứng nhận về Hệ thống quản lý chất lượng (ISO). Lúc 20 này việc ra quyết định xử lý vi phạm hành chính vẫn phải do Thanh tra Sở TNMT đảm trách trong khi đó lực lượng thanh tra môi trường của Sở rất ít, điều này đã tạo điều kiện cho các DN tiếp tục vi phạm nhiều hơn. Ngoài những vấn đề trên, thực tế còn tồn đọng rất nhiều bất cập khác như:  Không có quy chế cụ thể trong việc quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại phát sinh trong quá trình HĐSX của DN.  Bộ KH-CN&MT đã ban hành “Các tiêu chuẩn nhà nước Việt Nam về môi trường” theo Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 25/6/2002 (Phụ lục 6), theo đó thì các Tiêu chuẩn này sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2003 nhưng việc áp dụng đã gặp khó khăn do chất lượng nước thải đầu ra của hệ thống XLNT tập trung tại KCX, KCN phụ thuộc vào lưu lượng dòng chảy của nguồn tiếp nhận. Thực tế thì việc xác định lưu lượng dòng chảy sông, rạch… rất khó khăn.  Lực lượng cán bộ/nhân viên (CBNV) chuyên trách môi trường tại từng KCX, KCN, DN còn rất mỏng. Một số lượng lớn các DN hoàn toàn không có CBNV phụ trách về mảng quan trọng này, chủ yếu là kiêm nhiệm.  Chủ DN còn mang tư tưởng đối phó với cơ quan quản lý nhà nước trong vấn đề BVMT, vô hình chung làm cho môi trường xấu đi.  Hoạt động nâng cao nhận thức BVMT cho các DN trong KCX, KCN chưa được thường xuyên, liên tục. Chủ DN hầu như không quan tâm nhiều đến hoạt động này. Bên cạnh KCN, KCX còn phải kể đến sự tham gia ô nhiễm của các cơ sở công nghiệp nằm ngoài KCN, KCX. Tháng 8/2005, KCN Tân Phú Trung vừa được thành lập hơn 1 năm, vẫn chưa có DN nào vào nhưng lại trở thành điểm bức bách nhất trong các KCN bị ô nhiễm tại TPHCM. Song, nguyên nhân chính lại từ 43 DN vây quanh, mà 2/3 số DN này đều hoạt động trong những ngành sản xuất gây ô nhiễm như cao su, than đá... mà không nằm trong sự quản lý của KCN. Hầu hết các DN này đã tự di dời từ nội thành ra bám vào trục khu vực kênh Thầy Cai, ngoài việc gây ô nhiễm mùi trong không khí, các DN này đều xả chất thải, nước thải trực tiếp ra khu vực kênh khiến dòng kênh suốt chiều dài huyện Củ Chi bị đen ngòm và hôi thối mà đến nay vẫn chưa thể khắc phục được. 21 2.2.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các KCN, KCX TPHCM sau 1/7/2006 Đến khi Luật BVMT số 52/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 và áp dụng vào ngày 01/7/2006 cùng một số Nghị định có liên quan thì chức năng QLNN của HEPZA về BVMT không còn hiệu lực nữa; các công việc phần lớn do UBND Thành phố ủy quyền cho Sở TNMT và UBND cấp Quận/Huyện đảm trách. Công tác QL&BVMT tại các DN KCX, KCN trên địa bàn tính đến nay cơ bản như sau (theo Tham luận Công tác QLMT tại các KCX, KCN TP.HCM – Ngô Anh Tuấn – phó Trưởng ban BQL KCX, KCN TPHCM, 10/2008): 2.2.2.1. Hệ thống xử lý nước thải tập trung.  Nhà máy xử lý nước thải tập trung: Từ năm 2006 đến nay, các KCN còn lại bao gồm: Tân Thới Hiệp, Tây Bắc Củ Chi, Hiệp Phước, Tân Tạo (GĐ2), Vĩnh Lộc, Bình Chiểu đang được chỉ đạo xây dựng nhà máy XLNT tập trung. Đến tháng 9/2008, 12/13 KCX - KCN đã có nhà máy XLNT đi vào vận hành. Riêng KCN Tân Phú Trung đang trong giai đoạn lắp dặt thiết bị cho nhà máy XLNT tập trung. Hiện nay, tổng công suất có khả năng xử lý của các nhà máy tại các KCX, KCN là 53.000 m3/ngày.  Mạng lưới thu gom nước thải: Có 10 KCX, KCN đã hoàn chỉnh mạng lưới thu gom nước thải để đưa toàn bộ nước thải của các DN về nhà máy XLNT tập trung, bao gồm các khu: Tân Thuận, Linh Trung I, Linh Trung II, Tân Bình, Lê Minh Xuân, Tân Tạo, Tân Thới Hiệp, Cát Lái 2, Hiệp Phước, Bình Chiểu. Còn 2 KCN chưa xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới thu gom, cụ thể: KCN Vĩnh Lộc đã hoàn chỉnh cơ bản 80% chiều dài mạng lưới nhánh trên các tuyến đường trong KCN, còn 20% chưa thi công do nằm trên phần đất diện tích 10ha chưa giải tỏa. Ngoài ra, tuyến cống thu gom nước thải chính (dọc Hương lộ 2) dẫn về nhà máy xử lý nước thải tập trung còn vướng 200m2 chưa giải tỏa được của 1 hộ dân. Đối với KCN Tây Bắc Củ Chi, đã hoàn chỉnh 85% mạng lưới thu gom nước thải, còn lại 1.626m cống đang thi công. Riêng KCN Tân Phú Trung, mạng lưới đường ống thu gom nước thải vẫn chưa được xây dựng do quy hoạch điều chỉnh 1/2000 của KCN chưa được phê duyệt nên tuyến cống thu gom được thiết kế tạm nằm dọc đường Tam Tân để đưa nước thải của các DN hiện hữu về nhà máy XLNT tập trung. Tuy nhiên, tuyến 22 cống nằm trong lộ giới quy hoạch của dự án sửa chữa, nâng cấp đường Tam Tân trong năm 2009 – 2010, do vậy phải xây dựng phương án tuyến cống thu gom dọc bên hông các DN hiện hữu. Ban quản lý đã chỉ đạo Công ty phát triển hạ tầng (PTHT) KCN khẩn trương xây dựng để vận hành. 2.2.2.2. Xử lý nước thải cục bộ và đấu nối nước thải của các DN: Hiện nay, trong tổng số 949 DN đang hoạt động, có 330 DN có phát sinh nước thải (chiếm 34,7%). Trong đó có: 253 DN phát sinh nước thải sản xuất qui mô lớn, nước thải ô nhiễm đã lắp đặt hệ thống XLNT cục bộ và được Sở TNMT nghiệm thu; 77 DN chưa xây dựng hệ thống XLNT cục bộ (Hầu hết những DN này có phát sinh lưu lượng nước thải sản xuất thấp, phát sinh không thường xuyên như: nước thải từ các hệ thống xử lý khí thải, vệ sinh thiết bị và nước thải sinh hoạt, nước thải từ nhà ăn). Mặc dù hầu hết các DN phát sinh nước thải sản xuất qui mô lớn, nước thải ô nhiễm đã xây dựng hệ thống XLNT cục bộ nhưng chất lượng nước sau xử lý của một số DN không đạt tiêu chuẩn đấu nối của KCN. Nhiều DN xây dựng hệ thống XLNT cục bộ để đối phó với cơ quan chức năng, chỉ vận hành khi có kiểm tra; hoặc có hệ thống xử lý nhưng đã xuống cấp, hiệu quả xử lý không cao hoặc không vận hành, dẫn đến nhà máy XLNT tập trung của KCN bị quá tải về nồng độ. Về tình hình đấu nối nước thải, cho đến nay, còn 87 DN chưa thực hiện đấu nối hệ thống thoát nước thải vào mạng lưới thu gom chung dẫn về nhà máy XLNT tập trung của KCN. Cụ thể KCN Tân Bình: 2/139 DN đang hoạt động, KCN Tân Tạo (giai đoạn 1): 4/128 DN, KCN Tân Tạo (giai đoạn 2): 18/62 DN, KCN Vĩnh Lộc: 40/88 DN, KCN Lê Minh Xuân: 2/156 DN, KCN Hiệp Phước (khu A): 20/49 DN; KCN Tây Bắc Củ Chi: 01/41 DN. Nguyên nhân chủ yếu của việc chưa thực hiện đấu nối là do giai đoạn đầu thành lập KCN chưa có qui định cụ thể về việc DN phải xây dựng riêng biệt hệ thống thoát nước thải và hệ thống thoát nước mưa, do đó một số DN xây dựng một hệ thống chung cho thoát nước thải và thoát nước mưa gặp khó khăn khi triển khai thi công tách rời 2 hệ thống. Mặt khác, tại một số KCN mạng lưới đường ống thu gom nước thải chưa thi công do vướng một số khu vực chưa giải tỏa nên chưa đấu nối cho một số DN (KCN Vĩnh Lộc, KCN Tân Tạo). 23 (Xem thêm:  Phụ lục 7 - Bảng tổng hợp tình hình XLNT tập trung và đấu nối thoát nước các KCX, KCN TP.HCM  Phụ lục 8 - Tình hình trạm xử lý nước thải cục bộ tại các KCX, KCN TP. HCM) 2.2.2.3. Tình hình xử lý khí thải tại các KCX, KCN: Trong tổng số 949 DN đang hoạt động, có 170 trường hợp phát sinh khí thải đặc trưng, chủ yếu bao gồm các tác nhân chính như: Khí thải lò hơi, hơi axít từ quá trình xi mạ, hơi dung môi của công đoạn sơn (nhà máy gỗ, nhà máy giày), mùi hôi của quá trình thuộc da…và bụi từ các công đoạn sản xuất gỗ, đánh bóng. Hiện đã có 89 trường hợp áp dụng biện pháp thu gom xử lý bụi thải, khí thải đặc trưng, số còn lại không trang bị hệ thống xử lý khí thải do công suất nhỏ, lò hơi vận hành sử dụng dầu DO và quá trình đốt hiệu quả, đồng thời tác nhân phát sinh ô nhiễm ngay tại nguồn xả đạt tiêu chuẩn cho phép. 2.2.2.4. Tình hình thu gom và xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại (CTNH) tại các KCX, KCN: Hiện trên địa bàn TP.HCM có khoảng hơn 20 DN thực hiện công việc thu gom, trung chuyển, phân loại và xử lý chất thải rắn, CTNH. Các DN này đều được Bộ/Sở TNMT cấp Giấy phép hành nghề và thực hiện công tác thu gom chất thải trong KCX, KCN. Tuân thủ theo Quyết định số 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26/12/2006 và của Bộ TN&MT quyết định về việc ban hành Danh mục CTNH và Thông tư của Bộ TN&MT số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26/12/2006 hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý CTNH, các DN KCX-KCN đã từng bước xác lập cho Công ty mình một quy trình thu gom, lưu trữ, chuyển giao chất thải theo đúng quy định hiện hành. Việc xử lý rác thải (Sinh hoạt, công nghiệp và CTNH) tại các KCX, KCN thành phố hầu hết đều có trạm chứa và phân loại rác, nhà làm việc cho đội vệ sinh và lực lượng quét dọn đường, nạo vét mương cống thoát nước, trồng cây xanh, cụ thể là:  Rác công nghiệp còn giá trị sử dụng do các lực lượng dịch vụ tiếp nhận thu gom, vận chuyển, tiêu thụ. 24  Rác thải công nghiệp và rác sinh hoạt do các Công ty Dịch vụ KCX-KCN ký hợp đồng với xí nghiệp công trình công cộng bên ngoài tiếp nhận vận chuyển và đổ đúng nơi quy định của thành phố.  Các loại rác thải phát sinh trong quá trình sản xuất như dầu cặn, bùn lắng sau quá trình xử lý nước thải được kiểm nghiệm phân tích kỹ và giao đơn vị chức năng bên ngoài tiêu hủy  Trường hợp chất thải phát sinh không thường xuyên, BQL phối hợp với cơ quan chuyên ngành, trực tiếp chỉ đạo giải quyết. Tính đến nay, trong tổng số 13 KCX, KCN đang hoạt động trên địa bàn thành phố thì đã có 03 KCX (Tân Thuận, Linh Trung và Linh Trung II) và 02 KCN (Tân Bình, Lê Minh Xuân) có đầu tư trạm phân loại, trung chuyển rác thải các loại; các KCN còn lại thì phần lớn do các đơn vị có chức năng trên địa bàn thành phố thu gom trực tiếp tại các nhà máy có phát sinh. Ngoài ra các trạm XLNT tập trung phát sinh lượng bùn thải sẽ được Công ty PTHT KCN thu gom giao Công ty Môi trường đô thị Thành phố xử lý. Đối với các DN có ý thức cao về công tác quản lý, xử lý CTNH thì tuân thủ đúng quy trình thu gom phân loại đúng quy định và ký kết Hợp đồng với các đơn vị có chức năng để xử lý triệt để. Đối với lượng rác công nghiệp, phế liệu thì DN ký hợp đồng với các đơn vị có chức năng thu gom vận chuyển để đưa về các trạm trung chuyển. Phần lớn các DN này đều tuân thủ đúng theo các nội dung yêu cầu của Sổ Đăng ký chủ nguồn thải CTNH đã được Sở TNMT cấp. Từ năm 2008 đến nay, vấn nạn ô nhiễm do các KCN, KCX đã trở thành nỗi bức xúc của người dân. Đã có nhiều đơn khiếu kiện gửi đến cơ quan chức năng song việc giải quyết ô nhiễm vẫn còn trong vòng luẩn quẩn. KCN Lê Minh Xuân - một trong những KCN đầu tiên của TP.HCM, tiếp tục là điểm nóng về ô nhiễm môi trường. Kết quả mới nhất do Thanh tra Sở TN&MT công bố cho thấy thực tế công tác QLMT tại đây khác xa so với báo cáo của chủ đầu tư là Công ty CP Đầu tư xây dựng Bình Chánh. Tình trạng cây cỏ bị mất màu xanh do ảnh hưởng của hóa chất độc hại thải ra từ các DN hoạt động của KCN Lê Minh Xuân, Tân Tạo, Hiệp Phước, Vĩnh Lộc,… xả chất thải chưa qua xử lý ra thẳng các dòng sông, ảnh hưởng đến đời sống và sức khỏe của người dân vẫn tiếp tục là vấn nạn lớn cho các cơ quan chức năng, là tâm điểm của báo chí và xã hội. 25 2.3. Nghiên cứu các nhân tố tác động đến tình trạng ô nhiễm có liên quan đến phát triển các khu công nghiệp 2.3.1. Các nhân tố có liên quan đến hệ thống pháp lý và tổ chức quản lý Nhà nước đối với vấn đề ô nhiễm. Nhằm đối phó với vấn nạn ô nhiễm, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản Luật, quy định và tiêu chuẩn về môi trường, đó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để QLMT và BVMT. Có thể nói nhân tố hệ thống pháp lý và tổ chức QLNN đối với vấn đề ô nhiễm là một trong những biện pháp cơ bản của hoạt động BVMT ở mỗi quốc gia. Tại các BQL KCN, KCX trên địa bàn TP HCM hiện nay, các văn bản pháp lý được xem là cơ sở cho công tác QLMT bao gồm: (xem chi tiết Phụ lục 9 - 17) 1.Luật bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 ngày 29/11/2005 2.Nghị định 80/2006/NĐ-CP (ban hành ngày 09/08/2006) 3.Nghị định số 21/2008/NĐ-CP (28/02/2008) sửa đổi bổ sung Nghị định 80 4.Thông tư 08/2006/TT-BTNMT ( ban hành ngày 08/09/2006) 5.Nghị định 81/2006/NĐ-CP (ban hành ngày 09/08/2006) 6.Thông tư 07/2007/TT-BTNMT 7.Nghị định 81/2007/NĐ-CP (23/05/2007) 8.Nghị định 88/2007/NĐ-CP 9.Quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT ( Nguồn: Theo tài liệu cung cấp của Phòng Quản lý môi trường – HEPZA) Ngoài những văn bản chính kể trên, theo thống kê của Bộ Tư Pháp, đến nay Việt Nam đã ban hành khoảng 300 văn bản pháp luật BVMT khác, tuy nhiên, hệ thống văn bản này vẫn còn chưa chặt chẽ thậm chí còn thiếu nhiều quy định quan trọng, cụ thể. Ví dụ như: qui định về thuế BVMT; kiểm toán môi trường; quy định chi tiết chế độ bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường; thiếu chính sách cụ thể khuyến khích ngành công nghiệp môi trường, xã hội hóa BVMT ... và chưa có quy định đặc thù về nguyên tắc bồi thường trong lĩnh vực môi trường. Ngoài ra đối với các hoạt động thu gom lưu chứa CTNH trong các KCN còn bị hạn chế do thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể của Nhà nước, như là: “Quy chế quản lý CTNH” mặc dù đã được ban hành từ năm 1999, nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện 26 cụ thể; chưa có các quy định quy phạm kỹ thuật đối với phương tiện thu gom và lưu giữ tạm thời CTCNNH; chưa có quy định về thủ tục xin phép vận chuyển hoặc quá cảnh CTNH… Một vấn đề khác nữa là tính ổn định văn bản pháp luật BVMT của Việt Nam không cao. Có văn bản mới ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung như Nghị định 80/2006/NĐ- CP ban hành năm 2006, qua 1 năm áp dụng đã phải sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 21/2008/NĐ-CP. Các văn bản luật và các quy phạm pháp luật hiện nay có thể nói vừa thiếu vừa không đồng bộ. Ngoài ra, ngay Luật BVMT cũng còn nhiều bất cập. Theo luật này, chỉ có 1 tội danh không phải xử lý hành chính mà được khởi tố ngay, nhưng 9 tội còn lại để có thể khởi tố cần phải có 2 điều kiện bắt buộc là đã xử lý hành chính cơ sở vi phạm nhưng tái phạm hoặc cơ sở để xảy ra hậu quả nghiêm trọng trong khi thế nào là để xảy ra hậu quả nghiêm trọng lại hết sức mơ hồ. Vậy phải chăng Pháp luật đang để lọt lưới nhiều tội danh? Thực tế nhiều vụ việc gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhưng hậu quả ngay tức thì không thể nhìn thấy được mà kéo dài dai dẳng hàng chục năm sau mới bùng phát thành dịch bệnh trong khi chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chỉ là giải pháp tạm thời có tính chất cảnh cáo. Mức phạt cao nhất là 70 triệu đồng trong khi phải đầu tư thiết bị xử lý môi trường hàng tỷ đồng, rõ ràng với mức phạt này các doanh nghiệp sẵn sàng chịu phạt. Theo ông Nghiêm Vũ Khải - phó Chủ nhiệm ủy ban KH, CN&MT, việc chưa có vụ vi phạm về môi trường nào được xử lý nghiêm, phần lớn là còn vướng về pháp luật, trong đó khâu yếu nhất trong xử lý vi phạm về môi trường là năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này còn yếu kém. Ở đây, rõ ràng các nhân tố về pháp lý và quản lý Nhà nước về môi trường đóng một vai trò rất to lớn trong việc kiểm soát ô nhiễm nói chung và ô nhiễm công nghiệp nói riêng, là công cụ cần thiết và hữu hiệu nhất góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh và xử lý những hành vi của con người trong mối quan hệ với môi trường. 2.3.2. Các nhân tố có liên quan đến quy hoạch phát triển kinh tế. Quy hoạch phát triển kinh tế hay rõ hơn là quy hoạch phát triển các KCN, KCX là nhân tố tiền đề cho hoạt động về sau của các KCN, KCX. Quy hoạch gồm có xác định vị trí các khu, cụm công nghiệp; xác định địa hình, hướng gió, nguồn nước; mật độ phân bố,… có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp KCN, KCX lẫn môi trường sống của dân cư khu vực lân cận. Trong quy hoạch các KCN, KCX trước đây chưa thực sự gắn phát 27 triển KCN, KCX với công tác BVMT , tức là chưa phát triển hoạt động của KCN, KCX song hành với sự phát triển của hạ tầng XLNT, công nghệ xử lý thải tiên tiến... mà thực tế trong thời gian qua trên địa bàn thành phố diễn ra thường xuyên tình trạng “ hoạt động trước, báo cáo sau”, xây dựng trái với quy hoạch và không đặt sự phát triển của các KCN, KCX trong mối tương quan với phát triển đô thị bền vững. Như ở phần 2.1 đã đề cập, chính những đặc điểm phát triển của các KCN, KCX có liên quan chặt chẽ đến khâu quy hoạch là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm công nghiệp nặng nề. Chỉ cần sơ suất dù là nhỏ trong quy hoạch cũng có thể sẽ dẫn tới những thiệt hại đáng kể sau này. Khó khăn hiện tại trên địa bàn TPHCM là công tác quy hoạch tổng thể chưa đảm bảo tính “đi trước” do được xây dựng khá muộn, khi đã hình thành một loạt KCN, KCX. Nói cách khác, quy hoạch trên thực tế là chạy theo để khắc phục việc đã rồi, thiếu sự đồng bộ giữa qui hoạch tổng thể và qui hoạch chi tiết các hạng mục hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phục vụ cho các KCN, KCX như nhà ở cho công nhân, điện, nước, đường xá, hệ thống thoát nước, hệ thống xử lý nước thải….Nhân tố quy hoạch được xem là khởi đầu cho quá trình hoạt động của DN KCN, KCX và cho cả sự phát triển sau này. Quy hoạch còn biểu hiện trình độ quản lý và khả năng thu hút nhà đầu tư vào KCN, KCX. Do đó nhân tố này cần phải được đầu tư quan tâm đúng mức hơn nữa. 2.3.3. Các nhân tố có liên quan đến quản lý hành chính, kiểm tra, kiểm soát Các nhân tố liên quan đến quản lý hành chính về vấn đề môi trường nói chung thường dựa vào các biện pháp chỉ huy và kiểm soát từ trên xuống, hoặc kiểm soát trực tiếp bằng luật lệ do cảnh sát môi trường trực tiếp tiến hành. Tác động tích cực vào nhân tố này cho phép các cơ quan QLMT kiểm soát hành vi của các cá nhân hay tập thể trong khu vực mình quản lý, giám sát hậu quả của các hành vi đó đối với môi trường vì nhân tố quản lý hành chính, kiểm tra, kiểm soát luôn có tính cưỡng chế, bắt buộc đối với việc tuân thủ các quy định của pháp luật về BVMT. Tuy nhiên nhân tố này thường chỉ áp dụng đối với các hành vi đang ở mức độ nhẹ, nghĩa là chưa tới mức phải đưa ra truy tố trước pháp luật về các tội danh quy định như trong Luật BVMT. Cho nên ở một khía cạnh nào đó, vai trò của quản lý hành chính, kiểm tra, kiểm soát đảm bảo vừa rất kịp thời trong việc thực thi áp dụng, vừa phù hợp với tầm quản lý 28 và quyền hạn của cấp cơ sở, cơ quan quản lý môi trường. Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN, KCX vẫn còn hạn chế xét về nhiều khía cạnh (lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động, chất lượng kết quả thanh tra, chế tài thanh tra, kiểm tra…). Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác thanh tra còn chưa thật chặt chẽ, chưa có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra còn mỏng, phương tiện làm việc còn hạn chế. Các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động của KCN về các lĩnh vực kế hoạch, đầu tư, môi trường… còn thiếu và chưa đảm bảo tính cương quyết. Người thực thi nhiệm vụ chưa dám mạnh tay với DN (như cúp điện, cúp nước, đình chỉ hoạt động…) vì ngại ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người lao động…Việc thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo, cùng một nội dung chấp hành Luật BVMT nhưng có khi cùng lúc hoặc liên tiếp có các đoàn đến kiểm tra. Có hiện tượng như vậy là do hiện nay có đến 6 cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền được kiểm tra giám sát doanh nghiệp thực hiện Luật BVMT. Đó là: Thanh tra Bộ TN- MT, Thanh tra Sở TN-MT, Phòng TN-MT các quận huyện, Thanh tra môi trường của Ban quản lý KCN, KCX, Cục Cảnh sát môi trường thuộc Bộ Công an, Phòng cảnh sát môi trường thuộc công an tỉnh, thành. Nếu nhân tố pháp lý và QLNN về môi trường được xem là đặt khuôn khổ cho mọi hoạt động hay nhận thức của DN về vấn đề môi trường, còn nhân tố quy hoạch là nền móng, là khởi đầu cho HĐKDSX của DN thì nhân tố quản lý hành chính, kiểm tra, kiểm soát được ví như chất xúc tác trực tiếp thúc đẩy hành vi BVMT, khiến cho DN có thái độ, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với công tác xử lý chất thải tại cơ sở của mình. 2.3.4. Các nhân tố có liên quan đến nội tại doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh sản xuất. Các nhân tố có liên quan đến nội tại DN, cơ sở KDSX bao gồm: quy mô hoạt động, ngành nghề kinh doanh, cơ sở, cấu trúc hạ tầng, trình độ quản lý tại DN, cơ sở SX... Chính những nhân tố này quy định mức độ vận hành và thải loại các loại chất thải ra môi trường ngoài. Tại các KCN, KCX TP.HCM hơn 80% DN hoạt động là các DN vừa và nhỏ, quy mô vốn không nhiều trong khi việc xây dựng hệ thống XLCT lại tốn kém nhiều chi phí (chiếm 15 - 20 % số vốn của DN, quá lớn so với chi phí kinh doanh), lắp đặt lại khó khăn thì việc vận hành lại càng khó khăn hơn. Có nhiều DN đã có hệ thống XLCT nhưng không vận hành hoặc vận hành không đạt tiêu chuẩn, nhiều DN không xây dựng hệ thống XLCT mà cố ý thải trực 29 tiếp ra sông, kênh, rạch… Đó chính là nguyên nhân chủ quan gây ô nhiễm cho các con sông và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân xung quanh KCN, KCX. Kiểm soát, tác động vào chính các nhân tố nội tại của DN là cách chữa bệnh trực tiếp nhất để làm giảm ngay tức khắc việc xả thải gây ô nhiễm môi trường KCN, KCX và các khu vực lân cận. 2.3.5. Các nhân tố có liên quan đến con người và đào tạo nguồn nhân lực (NNL). Nếu con người được được định nghĩa là tổng hòa các mối quan hệ, là chủ thể tác động đến mọi sự vật thì trong vấn đề môi trường, chính con người là chủ thể phải chịu nhiều trách nhiệm nhất cho những hành vi gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Con người càng cố gắng phát triển kinh tế bao nhiêu thì dường như chất lượng môi trường lại là con số nghịch đảo bấy nhiêu. NNL tác động đến yếu tố môi trường tại các KCN, KCX bao gồm 2 thành phần chính là đội ngũ công nhân lao động và tầng lớp quản lý (bao gồm: chủ DN và cán bộ QLMT tại KCN, KCX). Xét về đội ngũ công nhân lao động tại các KCN, KCX TPHCM, đa số đều ở độ tuổi thanh niên, có sức khỏe, khả năng làm việc tốt, song trình độ phần lớn chỉ ở mức phổ thông, chưa qua đào tạo nghề chiếm đến 70%. Chính vì trình độ thấp nên đa số công nhân có ý thức tự giác chưa cao, hành xử tùy tiện, thêm vào đó là mức độ hiểu biết pháp luật tương đối thấp. Trong năm 2008, năm thực hiện nếp sống văn minh đô thị nhưng nhiều công nhân vẫn vứt rác vô tư ngoài đường, trước cổng KCN, KCX gây ô nhiễm và mất mỹ quan KCN, KCX. Trong quá trình làm việc, chính vì không có ý thức về môi trường, về chất độc hại mà DN mình đang phục vụ đang thải loại ra môi trường nên không thể và nếu có cũng không dám phản ánh kịp thời đến BQL của KCN, KCX. Xét về tầng lớp quản lý, phần lớn mặc dù được đào tạo một cách chính quy và là tầng lớp quản lý lãnh đạo nhưng ý thức về BVMT của chủ DN còn yếu kém, thậm chí có thái độ làm ngơ, không đầu tư xây dựng hệ thống xả thải đạt tiêu chuẩn mà cố ý xả thẳng ra bên ngoài. Trong khi lực lượng QLMT tại các KCN, KCX còn quá mỏng, chưa xâu sát toàn bộ hoạt động xử lý thải của DN, cộng thêm trình độ chuyên môn chưa đáp ứng tốt công tác rà soát, kiểm tra,…Theo Th.S Lê Thị Thu Hương - GV Khoa Môi trường - Trường ĐH Lạc Hồng thì: “Phát triển kinh tế đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường bền vững và để tham gia thực hiện các giải pháp công nghệ, tham gia QLMT có hiệu quả, một đội 30 ngũ cán bộ, kỹ sư, kỹ thuật viên có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực môi trường phải được đào tạo và cung cấp cho các KCN”. Hiện tại nguồn nhân lực phục vụ trong lĩnh vực công nghệ quản lý môi trường hướng tới phục vụ cho các KCN, KCX TP.HCM đang rất thiếu hụt. Theo thống kê củ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
  • pdf7.Phuluc1va2.pdf
  • pdf8.Phuluc3.pdf
  • pdf9.Phuluc4.pdf
  • pdf10.Phuluc5.pdf
  • pdf11.Phuluc6.pdf
  • pdf12.Phuluc7.pdf
  • pdf13.Phuluc8.pdf
  • pdf14.Phuluctu9den16.pdf
  • pdf15.Phuluc17.pdf
  • pdf16.Phuluc18.pdf
  • pdf17.Phuluc19.pdf
  • pdf18.Phuluc20.pdf
  • pdf19.Phuluc21.pdf
  • pdf20.Phuluc22.pdf
  • pdf21.Phuluc23.pdf
  • pdf22.Phuluc24.pdf
  • pdf23.Phuluc25.pdf
  • pdf24.Phuluc26.pdf
  • pdf25.muclucphuluc.pdf
  • pdfDANH MUC TAI LIEU THAM KHAO.pdf
Tài liệu liên quan