Văn hóa lãnh đạo

Hệ thống quan niệm về quyền lực lãnh đạo, quản lý là cách lý giải về

nguồn gốc, bản chất của quyền lực lãnh đạo, quản lý. Nó đóng vai trò

định hướng cho toàn bộ hoạt động lãnh đạo, quản lý, từ việc xác lập các

chuẩn mực, nguyên tắc đến các phương thức. Đây là cơ sở để người lãnh

đạo, quản lý xác định vị trí của mình trong các quan hệ ứng xử. Nó như

là cách thức kết nối giữa chủ thể và khách thể trong lãnh đạo, quản lý.

Nói cách khác, quan niệm về quyền lực là sự tự ý thức: Quyền lực do

đâu mà có? Nhằm mục đích gì? Được sử dụng ra sao? Cần làm gì để

xứng đáng với quyền lực, ứng xử với quyền lực thế nào?.

pdf9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3371 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hóa lãnh đạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn hóa Lãnh đạo Cụm từ “văn hóa” giờ đây đã gần như trở thành phổ biến, được người ta dùng để diễn đạt một đề tài liên quan đến các yếu tố về nhân văn, mang tính cộng đồng, thường thấy xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, chẳng hạn như “văn hóa điện thoại”, “văn hóa giao tiếp”... Nhưng có lẽ cụm từ “văn hóa lãnh đạo” ít được đề cập. Thậm chí, có những vị lãnh đạo còn xa lạ với cụm tù này. Ở một số nước, ngành học đào tạo lãnh đạo có môn học văn hóa lãnh đạo trở thành một môn học. Trong bối cảnh hiện nay khi đất nước đang chuyển mình lớn dậy, sánh vai cùng thế giới, khi quá trình đổi mới và hội nhập thì vai trò của người lãnh đạo - hay nói cụ thể hơn là vai trò của yếu tố con người - có ý nghĩa rất quan trọng trong bộ máy quản lý ở mọi cấp, mọi ngành. Văn hóa lãnh đạo, quản lý là văn hóa của nhà lãnh đạo, quản lý Tiếp cận từ góc độ giá trị, có thể nghiên cứu vấn đề từ một khái niệm chung: Văn hóa lãnh đạo, quản lý với ba cấp độ ý nghĩa. Thứ nhất, văn hóa lãnh đạo, quản lý là khía cạnh tài năng, nghệ thuật, thủ thuật để đạt đến hiệu quả cao nhất trong hoạt động lãnh đạo, quản lý. Theo quan niệm này, có thể hiểu văn hóa lãnh đạo, quản lý là nghệ thuật lãnh đạo, quản lý. Thứ hai, văn hóa lãnh đạo, quản lý là văn hóa của nhà lãnh đạo, quản lý. Đó là những giá trị toát ra từ hoạt động lãnh đạo, quản lý, làm nên hình ảnh, nhân cách, đạo đức của người lãnh đạo, quản lý. Theo cách hiểu này, có thể diễn đạt văn hóa lãnh đạo, quản lý là nhân cách lãnh đạo, quản lý. Thứ ba, văn hóa lãnh đạo, quản lý là một kiểu hoạt động trong hệ thống hoạt động xã hội. Văn hóa lãnh đạo, quản lý là một kiểu quan hệ, đấy là quan hệ tác động dựa trên quyền lực, gắn liền với nhân cách của người lãnh đạo, quản lý, biểu hiện ở hệ thống hành động của họ. Ở cấp độ nhà nước, đó là hạnh phúc của nhân dân và tiến bộ xã hội. Để đạt được hệ giá trị nhất định, lãnh đạo, quản lý phải dựa trên những nguyên tắc, phương thức, hành động khoa học, hiệu quả. Vì vậy, văn hóa lãnh đạo, quản lý còn biểu hiện ở tính chất tiến bộ, phù hợp với quy luật của hệ thống nguyên tắc, phương thức, hành động lãnh đạo, quản lý. Giá trị cao nhất của hệ thống này là tính dân chủ. Một cách nhìn khái quát, có thể định nghĩa văn hóa lãnh đạo, quản lý là tổng thể giá trị hình thành từ quan niệm, chuẩn mực, nguyên tắc và phương thức lãnh đạo, quản lý tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa chủ thể và khách thể trong hoạt động lãnh đạo, quản lý để hướng đến một mục tiêu chung. Hệ thống quan niệm về quyền lực lãnh đạo, quản lý là cách lý giải về nguồn gốc, bản chất của quyền lực lãnh đạo, quản lý. Nó đóng vai trò định hướng cho toàn bộ hoạt động lãnh đạo, quản lý, từ việc xác lập các chuẩn mực, nguyên tắc đến các phương thức. Đây là cơ sở để người lãnh đạo, quản lý xác định vị trí của mình trong các quan hệ ứng xử. Nó như là cách thức kết nối giữa chủ thể và khách thể trong lãnh đạo, quản lý. Nói cách khác, quan niệm về quyền lực là sự tự ý thức: Quyền lực do đâu mà có? Nhằm mục đích gì? Được sử dụng ra sao? Cần làm gì để xứng đáng với quyền lực, ứng xử với quyền lực thế nào?... Khi không xứng đáng, thậm chí không thích hợp với quyền lực, nếu không vượt lên được chính mình, người lãnh đạo, quản lý phải có dũng khí từ bỏ quyền lực. Vì vậy, người lãnh đạo, quản lý phải không ngừng tự học tập để nâng tầm và rèn tâm, đặc biệt là bồi dưỡng lý tưởng. Quyền lực mà vắng bóng lý tưởng sẽ rất dễ tự tha hóa, dễ bị lạm dụng. Để xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý, một trong những vấn đề quan trọng là giáo dục lý tưởng cho chủ thể lãnh đạo, quản lý.. Quan điểm Hồ Chí Minh trong văn hóa lãnh đạo, quản lý Nguyên tắc lãnh đạo, quản lý mà Hồ Chí Minh xây dựng cho toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước ta là tập trung dân chủ. Người giải thích "Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng". Người yêu cầu "Nhà nước ta phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân... làm cho mọi công dân Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước". Dân chủ và tập trung phải đi đôi với nhau. Người khẳng định "Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung". Ý nghĩa của nguyên tắc này chính là ở hiệu quả của công việc chung: "Lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc". Dân chủ vừa là nguyên tắc vừa là giá trị của lãnh đạo, quản lý. Dân làm chủ nên cán bộ là công bộc, là đầy tớ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh "đầy tớ trung thành của nhân dân" là mô hình nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hệ giá trị bất di bất dịch của người cán bộ lãnh đạo, quản lý mà Hồ Chí Minh quan niệm là cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Tóm lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thước đo của trình độ văn hóa lãnh đạo, quản lý là hạnh phúc của nhân dân, lợi ích của nhân dân. Quan niệm của Người về quyền lực, nguyên tắc, phương thức lãnh đạo, quản lý cũng như nhân cách của người lãnh đạo, quản lý chính là kết quả của sự tích hợp giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, giữa truyền thống nhân văn của văn hóa dân tộc với tính nhân văn cách mạng và tính khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin. Và chính Người là biểu tượng đẹp đẽ nhất về văn hóa lãnh đạo, quản lý của Đảng và của Nhà nước ta. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là cách thức cụ thể nhất, hiệu quả nhất để mỗi cán bộ đảng viên tự rèn luyện và xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý cho mình. Xét đến cùng, văn hóa lãnh đạo, quản lý là tổng thể giá trị hình thành từ quan niệm về quyền lực, chuẩn mực, nguyên tắc và phương thức lãnh đạo, quản lý mà mục tiêu cao nhất là hướng tới sự tiến bộ của cộng đồng, hạnh phúc của nhân dân. Xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta là vấn đề mà sinh thời Hồ Chủ tịch hết sức quan tâm. Thượng bất chính, hạ tắc loạn “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”, câu của ông bà ta từng nói, đến bây giờ vẫn còn nguyên ý nghĩa. Người lãnh đạo mà được mọi người, từ cấp dưới, quần chúng nhân dân, cấp trên, đồng nghiệp “tâm phục khẩu phục” thì sẽ có điều kiện để phát huy vai trò lãnh đạo của mình, công việc sẽ “xuôi chèo mát mái” hơn… Tất nhiên, làm được chuyện đó không phải dễ dàng. Có người nói thì nghe hay, nói nhiều nhưng làm lại dở hoặc làm ngược lại với những gì đã nói. Cũng có người ít nói nhưng lại độc đoán, chuyên quyền, ít gần gũi cơ sở, quần chúng… Có người trước mặt thì được khen ngợi này nọ nhưng sau lưng lại không được nể phục. Chung quy, cũng phần nhiều liên quan đến tài và đức của người lãnh đạo. Người lãnh đạo sẽ có uy, được nể trọng khi bản thân họ tôn trọng mọi người và khéo léo trong ứng xử với mọi đối tượng mà mình tiếp xúc. Từ chuyện đơn giản như cái bắt tay (theo kiểu để ban ơn, hờ hững, lỏng lẻo, làm chiếu lệ) đến chuyện thiếu quan tâm đến cuộc sống, tâm tư tình cảm của cấp dưới, dù người lãnh đạo ấy có năng lực điều hành và quản lý tốt. Thậm chí có trường hợp người lãnh đạo không biết cấp dưới gia cảnh thế nào, nhà ở đâu... mặc dù hằng ngày tiếp xúc với nhau trong công việc, cũng có khi thấy mặt mà không biết tên cấp dưới, hoặc kêu nhầm tên. Có lãnh đạo luôn yêu cầu cấp dưới phải tự trọng trong khi bản thân họ thì ngược lại. Làm lãnh đạo không ai phủ nhận họ được quyền phê bình, kiểm điểm, nhắc nhở, khiển trách cấp dưới; nhưng cách phê bình cũng phải thể hiện sự tôn trọng, không thể quát nạt, xúc phạm họ một cách tùy tiện, nhất là trước tập thể, đám đông - cho dù họ thật sự có khuyết điểm. Một điều nữa cũng không nên phát huy là những lãnh đạo đam mê quyền lực, nghĩ mình là tài giỏi hơn người, không xem cấp dưới ra gì. Cũng có người lại hay tự đề cao mình, chê bai người khác, bảo thủ, ít chịu tiếp thu ý kiến trong khi lại hay để ý trù dập cấp dưới, thù dai, thù vặt... Lại có mẫu lãnh đạo quá xuê xoa, bỗ bã, suồng sã cả trong công tác đối với cấp dưới. Lãnh đạo không tạo khoảng cách với quần chúng cấp dưới là điều nên có, nhưng cũng tùy trường hợp, tình huống, không phải lúc nào cũng dễ dãi, tùy tiện, cẩu thả trong quan hệ. Người lãnh đạo sâu sát thực tế, không phô trương, toàn tâm toàn ý cho công việc, không xa hoa lãng phí, biết lắng nghe và thấu hiểu... chắc chắn sẽ tạo được sự tôn trọng, cảm mến từ nhân viên và người đối diện. Họ “cương” lúc cần cương, nhưng cũng “nhu” lúc phải nhu. Về “văn hóa lãnh đạo” có thể còn nhiều điều để nói, nhưng tựu trung hướng đến mục tiêu : để người lãnh đạo được cấp dưới, quần chúng, đối tác “tâm phục khẩu phục” chứ không phải chỉ “khẩu phục” nhưng “tâm không phục”. Không có trường đào tạo lãnh đạo đúng nghĩa, nhưng thiết nghĩ “trường đời” chính là môi trường tốt thử thách bản lĩnh và là thước đo “chất lượng lãnh đạo” trên mọi phương diện từ hiệu quả công việc đến đối nhân xử thế. Bàn về “văn hóa lãnh đạo”, chỉ mong muốn ngày càng có nhiều lãnh đạo được nhân dân tin yêu, mến phục. Có như vậy, dân ta mới nhanh giàu, nước mới nhanh mạnh, đất nước ta vững bền và có vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Theo: dichvudoingoai.com.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvan_hoa_lanh_dao_7907.pdf