MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC LÀM CỦA
NỮ THANH NIÊN Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH 8
1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài có liên quan tới đề tài 8
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan tới đề tài 16
1.3. Tổng quan các kết quả nghiên cứu đã đạt được liên quan tới đề tài và
các vấn đề đặt ra 23
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CỦA NỮ
THANH NIÊN Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH 28
2.1. Khái niệm và đặc điểm việc làm của nữ thanh niên 28
2.2. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm của nữ thanh niên ở
các huyện ngoại thành 44
2.3. Phương thức tạo việc làm và tiêu chí đánh giá việc làm của nữ thanh
niên ở các huyện ngoại thành 53
2.4. Kinh nghiệm của một số nước và địa phương về giải quyết việc làm
của nữ thanh niên ở các huyện ngoại thành trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội 65
Chương 3: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA NỮ THANH NIÊN Ở CÁC
HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010 - 2018 76
3.1. Những thuận lợi, khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội các
huyện ngoại thành Hà Nội ảnh hưởng đến việc làm của nữ thanh niên 76
3.2. Thực trạng việc làm của nữ thanh niên ở các huyện ngoại thành
Hà Nội 87
3.3. Đánh giá chung về việc làm của nữ thanh niên ở các huyện ngoại
thành Hà Nội 111
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VIỆC LÀM
CỦA NỮ THANH NIÊN Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ
NỘI ĐẾN NĂM 2025-2030 118
4.1. Phương hướng phát triển việc làm của nữ thanh niên ở các huyện
ngoại thành Hà Nội 118
4.2. Những giải pháp chủ yếu để phát triển việc làm của nữ thanh niên ở
các huyện ngoại thành Hà Nội 129
KẾT LUẬN 143
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 145
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 146
PHỤ LỤC 154
167 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việc làm của nữ thanh niên ở các huyện ngoại thành Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khích phát triển hoạt động này để thu hút lao động nông nhàn trong
đó chính sách tập trung vào khuyến khích các hoạt động chế biến nông sản và
các tài nguyên thiên nhiên tại địa phương.
69
Bốn là, hỗ trợ xây dựng nhà máy ở nông thôn
Nhờ đẩy mạnh đầu tư phát triển, công nghiệp ở đô thị đã đạt mức toàn
dụng về quy mô vào những năm 1970, vì vậy các nhà máy được khuyến khích
chuyển về khu vực nông thôn để giải quyết việc làm và tạo thêm thu nhập phi
nông nghiệp cho nông dân. Tuy nhiên, thực hiện chính sách di dời nhà máy về
nông thôn theo phương châm "mỗi làng một nhà máy" không đạt được như mục
tiêu đã đề ra do chi phí quá cao về xây dựng cơ sở hạ tầng để đặt nhà máy tại
từng làng.
Dự án phát triển cụm công nghiệp nông thôn đầu tiên được thực hiện vào
năm 1984 là dự án đầu tiên trong triển khai thực hiện Luật Pháp Nguồn thu nhập
phi nông nghiệp. Nhờ rút ra bài học kinh nghiệm từ chính sách hỗ trợ đưa nhà
máy về từng làng ở nông thôn của thập kỷ trước, dự án cụm công nghiệp nông
thôn đã giảm được nhiều chi phí. Các dự án này đã góp phần giải quyết việc làm,
nâng cao mức thu nhập cho người dân, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ
cấu lao động ở nông thôn.
2.4.2. Kinh nghiệm của một số thành phố trong nước
2.4.2.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh
Cùng với thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong hai đầu tàu
kinh tế lớn nhất của cả nước. Theo Niên giám thống kê năm 2015 của Cục
Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay thành phố có 24 quận huyện, trong
đó có 19 quận và 5 huyện ngoại thành. Thành phố Hồ Chí Minh rộng 2.095 km2
thì tổng diện tích 5 huyện ngoại thành đã chiếm hơn ba phần tư (1.601 km2) và
dân số ở 5 huyện ngoại thành là hơn 1,6 triệu người [33, tr.10]. Quá trình ĐTH
đã khiến cho lao động từ các địa phương di cư đến Thành phố Hồ Chí Minh tìm
việc làm có xu hướng gia tăng. Vì vậy, giải quyết việc làm cho lao động khu vực
nông thôn ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh cũng là vấn đề hết sức nan giải.
Dưới đây là một số giải pháp Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhằm giải
quyết việc làm cho TNNT ngoại thành.
Thứ nhất, PTKT trang trại ở các huyện ngoại thành
Theo số liệu của Chi cục Phát triển nông thôn Thành phố (Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn), Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 2.294 trang
70
trại với 6.370 ha, tổng vốn đầu tư khoảng 3.200 tỷ đồng, giải quyết việc làm
thường xuyên cho khoảng 6.700 lao động [33, tr.47]. Trong giai đoạn đầu của
quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh,
trang trại nuôi trồng thủy sản là loại hình trang trại có mức đầu tư cao và hiệu
quả lớn, thu nhập có thể lên đến vài trăm triệu đồng/ha/năm. Sự xuất hiện của
những trang trại này đã tạo ra sự chuyển dịch mạnh mẽ của vùng đất Cần Giờ và
Nhà Bè. Nhưng hiện nay, trang trại trồng lan, cây kiểng và cá cảnh lại nổi lên
với mức thu nhập cao nhất và phù hợp với nền nông nghiệp đô thị. Xu hướng
phát triển các loại hình phát triển trang trại như: trang trại hạt nhân, hợp tác xã
của những chủ trang trại, trang trại sinh thái kết hợp du lịch ngày càng cao. Mô
hình trang trại này phù hợp với lao động nông thôn, trong đó có cả NTN nên tạo
ra rất nhiều công ăn việc làm cho họ.
Thứ hai, đào tạo nghề cho thanh niênở các huyện ngoại thành
Một mặt, chính quyền thành phố kết hợp với tổ chức đoàn TNCS Thành
phố Hồ Chí Minh triển khai thực hiện tích cực các phong trào của Trung ương
đoàn về việc làm của NTN, cụ thể:Với hạn chế trình độ học vấn và kỹ năng nghề
nghiệp thấp, vấn đề đào tạo và giải quyết việc làm cho NTN đang là yêu cầu cấp
bách đặt ra cho các tổ chức chính quyền, đặc biệt là các tổ chức Đoàn từ Trung
ương đến cấp cơ sở. Thanh niên nói chung, NTN nói riêng là nguồn nhân lực
quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH. Nữ thanh niên đang có hạn chế lớn
là trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp thấp Phần lớn NTN hiện nay thiếu
việc làm, ít có cơ hội được đào tạo nghề nghiệp. Thực tế này đặt ra nhiệm vụ
quan trọng của tổ chức Đoàn trong việc tập hợp và giải quyết việc làm cho lực
lượng này.
Trước những khó khăn trong lập nghiệp tại địa phương, rất nhiều bạn trẻ
đã tìm giải pháp thoát ly lên thành phố. Tỷ lệ NTN xa quê hương đi làm ăn xa
chiếm 20-30%. Song, do phần lớn NTN có trình độ học vấn và tay nghề thấp nên
chỉ tìm được những công việc không ổn định, thu nhập bấp bênh và gặp rất nhiều
rủi ro như bán hàng rong, hoặc lao động tại các KCN với mức lương thấp. Hầu
hết NTN hiện nay chỉ tìm được những công việc đơn giản, làm theo thời vụ, với
mức thu nhập thấp. Ngay cả đối với những bạn trẻ trụ lại ở địa phương, để PTKT
71
gia đình cũng chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, không áp dụng được những tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nên năng suất và sản lượng không cao.
Ðể giải quyết thực trạng này, Trung ương Ðoàn TNCS HCM đã đề ra
nhiều giải pháp. Trong đó, Nghị quyết số 04 về tăng cường vai trò của Ðoàn
thanh niên trong việc vận động, tổ chức thanh niên tham gia PTKT, phát động
TNNT thi đua thực hiện phong trào "Bốn mới" nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, gồm: kỹ thuật mới, ngành nghề mới, thị trường mới và mô hình mới
tại các địa phương trong cả nước. Ðoàn thanh niên phối hợp các ngành chức
năng tổ chức tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về khuyến nông, lâm, ngư
cho hàng triệu đoàn viên, phối hợp Ngân hàng chính sách xã hội tín chấp cho
thanh niên vay vốn phát triển sản xuất. Mô hình thanh niên xung phong tham gia
PTKT xã hội tiếp tục được các cấp bộ Ðoàn triển khai, như: Dự án 18 làng thanh
niên lập nghiệp dọc đường Hồ Chí Minh, trồng mới 5 triệu ha rừng, xóa 1.000
cầu khỉ ở đồng bằng sông Cửu Long... Các hoạt động này đã góp phần quan
trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đưa tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cổ vũ tuổi trẻ
làm giàu chính đáng trên quê hương mình. Trong bối cảnh đất nước đang hội
nhập mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, nhiều cơ hội mới mẻ đang mở ra cho tuổi trẻ
Việt Nam, song cũng đòi hỏi thanh niên phải vận động mạnh mẽ, chủ động, năng
động, sáng tạo hơn. Chính vì thế, các cấp bộ Ðoàn cần tiếp tục đẩy mạnh các
hoạt động đang triển khai, đồng thời, nghiên cứu tìm ra những cách làm mới hỗ
trợ TNNT giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, có đời sống vật chất, tinh thần
ngày càng cao.
Mặt khác, Thành phố Hồ Chí Minh còn thực hiện một số giải pháp như
tăng cường quản lý nguồn lao động ở các huyện ngoại thành, xác định nghề
nghiệp và việc làm có ưu tiên cho NTN được làm việc tại khu, cụm công nghiệp
trên địa bàn; ưu tiên về các điều kiện vay vốn khởi nghiệp... Đồng thời, thực hiện
chương trình việc làm ở khu vực ngoại thành trong quá trình đô thị hóa như đào
tạo nghề, bố trí việc làm, tư vấn và giới thiệu việc làm cho lao động nông thôn
(đặc biệt là NTN) gắn đào tạo nghề khu vực ngọai thành với xuất khẩu lao động.
Giải quyết việc làm cho lao động nữ ở khu vực nông thôn theo dự án nhỏ, vay
72
vốn từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. Hình thành các nguồn quỹ hỗ trợ việc làm ở
khu vực ngoại thành như: quỹ hỗ trợ đào tạo nghề của các hội và đoàn thể (Hội
nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn TNCS HCM).
2.4.2.2. Kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng
Ðà Nẵng là địa phương có tốc độ ĐTH cao. Ðằng sau hàng nghìn dự án
được đầu tư, làm mới hiện nay ở thành phố này là cuộc sống của hàng chục
nghìn người dân bị ảnh hưởng, đặc biệt là cuộc sống của những người lao động
nông thôn bị thu hồi đất để phục vụ cho quy hoạch thành phố. Cũng giống như
thủ đô Hà Nội, Đà Nẵng cũng phải đứng trước bài toán giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn, trong đó có NTN khi mở rộng quy hoạch thành phố. Để tạo
việc làm cho lực lượng NTN, thành phố Đà Nẵng đã và đang thực hiện các giải
pháp như sau:
Một là, chủ động trong quy hoạch, phối hợp nhịp nhàng giữa chính quyền
với doanh nghiệp và người dân để tạo việc làm của NTN
Công khai hóa các quy hoạch về sử dụng đất nông nghiệp, các kế hoạch
thực hiện dự án xây dựng, bàn giao đất, phương án đền bù, vấn đề tái định cư
để người dân nắm rõ các chủ trương từ đó chuẩn bị tâm lý trước, có thời gian để
chuyển đổi ngành nghề và có ý thức chủ động trong việc phát triển sinh kế cho
gia đình, tránh tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và những
nguồn hỗ trợ từ bên ngoài, như vậy mới có thể đảm bảo an sinh xã hội một cách
bền vững. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng phối hợp
với các sở, ban, ngành, các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội của từng địa
phương chủ động, tích cực tuyên truyền, phổ biến cho người lao động thấy được
lợi ích của việc học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp, tìm việc làm hoặc tự tạo
việc làm. Đồng thời tăng cường phối hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các
cơ sở đào tạo nghề trong việc tổ chức các lớp dạy nghề để chuẩn bị cung cấp
nguồn lao động khi dự án hoàn thành, ưu tiên đào tạo nghề và giải quyết việc
làm cho gia đình có nhiều ruộng đất bàn giao, gia đình chính sách, gia đình có
nhiều lao động phổ thông Sở lao động, thương binh và xã hội có bộ phận
chuyên trách chủ động hợp tác với doanh nghiệp trong việc xây dựng chương
trình, giáo trình, tư vấn và giới thiệu, tạo việc làm cho học viên sau khi tốt
73
nghiệp. Đồng thời thành phố ban hành chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và xã hội
hóa trong công tác đào tạo nghề; chuyển đổi dạy nghề theo nhu cầu xã hội và
phù hợp với trình độ, năng lực hiện tại của người lao động nông thôn.
Hai là, các cấp chính quyền thành phố tạo cơ chế chính sách phù hợp để
xã hội hóa phương thức tạo việc làm của NTN
Trong chính sách phát triển KT-XH của thành phố hàng năm có trích một
tỷ lệ ngân sách nhất định để hỗ trợ các chương trình tạo việc làm cho lao động
nông thôn, trong đó phối hợp với tổ chức Đoàn của địa phương để ưu tiên NTN
là đối tượng có tính đặc thù.Khuyến khích các tổ chức tín dụng trên địa bàn cho
vay vốn ưu đãi về lãi suất, thời gian và các điều khoản về tài sản thế chấp để
NTN có thể tự tạo việc làm, chuyển đổi ngành nghề. Cho vay hỗ trợ đối với
NTN được tuyển dụng xuất khẩu lao động về các khoản phí có liên quan đồng
thời đơn giản hóa một số thủ tục trong quy trình vay vốn.
Nhân rộng mô hình dạy nghề gắn với giải quyết việc làm có hiệu quả, cụ
thể là nguồn vốn vay, lãi suất cho vay, hỗ trợ kinh phí để hướng dẫn kỹ thuật,
tìm đầu ra cho sản phẩm, đăng ký thương hiệu sản phẩm, hỗ trợ một số cơ sở hạ
tầng thiết yếu như nhà xưởng, trang thiết bị phục vụ sản xuất. Đặc biệt, đẩy
mạnh Chương trình xây dựng NTM, quy hoạch xây dựng phát triển sản xuất, quy
hoạch vùng nguyên liệu và ngành nghề nông thôn làm cơ sở dự báo, xây dựng kế
hoạch phát triển các mô hình phát triển sản xuất và dạy nghề sát hơn với nhu cầu
thực tế tại địa phương.
Ba là, phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề mới và nhân rộng
những mô hình kinh tế làm ăn có hiệu quả
Đây là một trong những biện pháp ổn định lâu dài để tạo việc làm cho
người lao động nhất là đối với lao động NTN, lao động diện di dời giải tỏa có
trình độ học vấn thấp hoặc chưa qua đào tạo nghề. Các cấp đảng ủy và chính
quyền cần có chính sách hỗ trợ về nguồn vốn để mở rộng quy mô sản xuất, hỗ
trợ về thị trường tiêu thụ, mặt bằng sản xuất đồng thời có chính sách khen
thưởng những hộ gia đình làm ăn giỏi, động viên họ trong việc giải quyết việc
làm cho lao động tại địa phương.
Đô thị hóa là một yêu cầu khách quan, mang tính tất yếu để mở rộng
74
không gian và phát triển đô thị. Giải phóng mặt bằng, thu hồi đất sản xuất nông
nghiệp để xây dựng các KCN và phát triển cơ sở hạ tầng đã làm cho Đà Nẵng
thay da đổi thịt từng ngày. Song hành với công tác quy hoạch, chỉnh trang đô thị,
thành phố Đà Nẵng cũng đã có những chủ trương, chính sách để tạo việc làm
cho người lao động nông thôn, góp phần đảm bảo an sinh, xã hội trên địa bàn
thành phố. Thông qua những giải pháp nêu trên, thành phố giải quyết hiệu quả
hơn vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, lao động diện di dời, giải tỏa trong
quá trình CNH, ĐTH.
2.4.3. Những bài học kinh nghiệm về phát triển việc làm của nữ thanh
niên ở các huyện ngoại thành Hà Nội
Có thể thấy, phát triển việc làm của thanh niên nói chung, NTN nói riêng
được rất nhiều địa phương ở trong và ngoài nước chú trọng. Qua nghiên cứu một
số kinh nghiệm phát triển việc làm của NTN ở trên, có thể rút ra một số bài học
như sau:
- Thứ nhất, phải tích cực đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho NTN. Đặc
biệt gắn công tác đào tạo nghề với việc làm. Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy nghề, nâng cấp trường dạy nghề của địa phương; khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề; nâng cao chất lượng dạy nghề tại
các cơ sở dạy nghề ở địa phương, từng bước nâng cao kỹ năng thực hành nghề
để tập trung đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt là lao động NTN. Công
việc này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với doanh
nghiệp và người lao động nông thôn trong công tác đào tạo nghề. Chính quyền
địa phương đứng ra phụ trách khâu kiểm tra, giám sát chất lượng lao động của
NTN. Doanh nghiệp đảm bảo việc làm cho họ còn bản thân NTN phải không
ngừng học hỏi, tham gia tích cực vào các khóa dạy nghề, phấn đấu vượt qua
những bài kiểm tra về tiêu chuẩn chất lượng mà doanh nghiệp và chính quyền
địa phương kiểm soát.
- Thứ hai, tận dụng những lợi thế có sẵn của làng nghề truyền thống để
tăng số lượng việc làm cho NTN. Quan tâm đầu tư, hỗ trợ về nhiều mặt như
đầu tư kết cấu hạ tầng, vốn, khoa học kỹ thuật, nguyên liệu đầu vào, tiêu thụ
sản phẩm đầu ra. Phát triển làng nghề truyền thống của thành phố, thu hút đối
75
là lực lượng NTN tham gia làm nghề truyền thống, có việc làm thường xuyên
lúc nông nhàn.
- Thứ ba, nghiên cứu các chính sách kinh tế vĩ mô như các chính sách ưu
đãi thuế cho doanh nghiệp tuyển dụng lao động NTN, ưu đãi thuế cho các đối
tượng NTN tự khởi nghiệp. Hỗ trợ NTN khởi nghiệp bằng chính sách vay vốn
lãi suất thấp, giảm các thủ tục giấy tờ để NTN dễ dàng tiếp cận với nguồn tài
chính lập nghiệp.
- Thứ tư, hỗ trợ các mô hình thanh niên làm kinh tế giỏi, liên kết thanh
niên ở địa phương để tạo thành các câu lạc bộ cùng nhau khời nghiệp. Duy trì
các hoạt động giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm ở địa phương, tạo động lực thúc đẩy
sức trẻ và tinh thần ham học hỏi của thanh niên.
- Thứ năm, phát triển việc làm của NTN thông qua các chính sách về xuất
khẩu lao động. Xuất khẩu lao động là xu thế khách quan hiện nay, cũng là kênh
thu hút người lao động, giúp họ nâng cao trình độ lao động và thu nhập. Xuất
khẩu lao động giúp người lao động có thêm nhiều hiểu biết, được cọ xát với
nhiều môi trường mới, qua đó dần nâng cao tay nghề, trình độ cùng những kiến
thức khác về ngôn ngữ, luật pháp, văn hóa nước bạn.
- Thứ sáu, thúc đẩy xây dựng bình đẳng giới. Phụ nữ cũng có khả năng lao
động tốt như nam giới nếu như họ được tạo điều kiện để phát triển. Việc phân
biệt nam nữ nói chung, trong lao động nói riêng hạn chế khả năng lao động của
nữ giới, gây ra nhiều tổn thương cho phái yếu. Cần nâng cao nhận thức cho mọi
người về bình đẳng giới, khuyến khích phụ nữ hang say lao động sản xuất, góp
phần nâng cao đời sống cho bản thân cũng như góp phần vào công cuộc xây
dựng quê hương.
76
Chương 3
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA NỮ THANH NIÊN
Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010- 2018
3.1. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH
TẾ - XÃ HỘI CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC
LÀM CỦA NỮ THANH NIÊN
3.1.1. Điều kiện tự nhiên các huyện ngoại thành Hà Nội
Nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Hồng, Hà Nội được xem là
vùng đất hội tụ nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển thành trung tâm
văn hóa - kinh tế - chính trị - xã hội của cả nước. Kể từ khi mở rộng địa giới năm
2008, tốc độ phát triển của Hà Nội ngày càng tăng mạnh, đồng thời cũng kéo
theo rất nhiều vấn đề khó khăn về kiểm soát dân cư, các điều kiện hạ tầng xã hội,
đất đai, môi trường... Trong đó, tạo việc làm cho người lao động các huyện ngoại
thành Hà Nội cũng là một áp lực lớn đối với thủ đô nói chung, chính quyền các
huyện ngoại thành nói riêng. Để góp phần tìm kiếm giải pháp tạo việc làm cho
NTNNT, đòi hỏi phải phân tích những mặt thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự
nhiên, vị trí địa lý của các huyện ngoại thành Hà Nội.
- Vị trí đia lý: Hà Nội là thủ đô của cả nước, nơi có vị trí vô cùng thuận
lợi cho giao thương cũng như gìn giữ nhiều giá trị văn hóa, lịch sự. Về vị trí tiếp
giáp, phía Bắc Hà Nội là tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, phía Nam là tỉnh Hà
Nam, Hòa Bình, phía Đông là tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên và cuối
cùng phía Tây là tỉnh Hòa Bình và Phú Thọ. Tháng 8/2008 thành phố Hà Nội mở
rộng, nâng tổng diện tích toàn thành phố lên 3.324,92 km2 [36]. Hà Nội hiện có
17 huyện ngoại thành với 380 xã và 21 thị trấn. Các huyện ngoại thành là cửa
ngõ kết nối trực tiếp với các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ nên có nhiều thuận lợi
trong việc liên kết, hợp tác đầu tư, trao đổi hàng hoá với các địa phương này.
Ngoài ra, các huyện ngoại thành Hà Nội còn là nơi quy tụ của nhiều danh thắng
đẹp, tạo điều kiện thuận lợi cho PTKT du lịch như Làng cổ Đường Lâm, vườn
quốc gia Ba Vì, Việt phủ Thành Chương
77
Hình 3.1: Bản đồ địa giới hành chính các huyện ngoại thành thành phố Hà Nội
Nguồn: [36].
- Khí hậu: Khí hậu các huyện ngoại thành Hà Nội khá tiêu biểu cho kiểu
khí hậu Bắc Bộ với đặc điểm là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa
nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít. Ðặc điểm khí hậu rõ nét nhất là sự thay đổi và
khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Từ tháng 5 đến tháng 9 là mùa nóng và mưa,
nhiệt độ trung bình 29,2ºC. Từ tháng 11 đến tháng 3 nǎm sau là mùa đông, thời
tiết khô ráo, nhiệt độ trung bình 15,2ºC. Giữa hai mùa đó lại có hai thời kỳ
chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10). Cho nên có thể nói rằng các huyện ngoại
thành Hà Nội có đủ bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông. Bốn mùa thay đổi như vậy
đã làm cho khí hậu thêm phong phú, đa dạng. Điều này rất thuận lợi cho các
huyện ngoại thành PTKT nông nghiệp, đa dạng hóa các loại cây trồng, vật nuôi.
- Sông ngòi, đầm, hồ: Cùng với Hà Nội, các huyện ngoại thành Hà Nội
nằm trong khu vực hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, phân bố không đều
78
giữa các vùng, có mật độ thay đổi trong phạm vi khá lớn. Nhờ có nhiều hồ, đầm
tự nhiên và hệ thống sông, kênh đào để tiêu và tưới nước nên có giá trị trong
phát triển ngành thủy sản, du lịch sinh thái...
- Đất đai: Đất đai ở khu vực các huyện ngoại thành Hà Nội chủ yếu là đất
nông nghiệp. Trước đây, tỉ lệ đất nông nghiệp ở các huyện chiếm hơn một nửa,
nhưng hiện nay, do chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nhiều nơi nên diện tích đất
nông nghiệp được chuyển đổi cơ cấu sử dụng rất nhiều, chủ yếu phục vụ cho
giao thông vận tải và xây dựng đô thị. Dù vậy, Hà Nội vẫn có tỉ lệ đất nông
nghiệp khá cao, tập trung nhiều ở các huyện ngoại thành phía Bắc, song do đô
thị hóa mạnh mẽ, đất nông nghiệp đang bị chuyển đổi dân sang đất xây dựng.
Bảng 3.1: Cơ cấu đất sử dụng tính đến 31/12/2016
Đơn vị tính: %
Tổng diện
tích
Trong đó
Đất sản xuất
nông nghiệp
Đất lâm
nghiệp
Đất
chuyên dùng
Đất ở
Thành phố Hà Nội 100 46,8 6,6 18,7 11,9
Toàn vùng 100 50,3 9,5 17,4 11,7
- Sóc Sơn 100 47,2 13,1 14,7 17,3
- Đông Anh 100 53,2 - 19,0 13,5
- Gia Lâm 100 50,9 0,3 19,1 12,5
- Thanh Trì 100 38,1 - 22,7 15,5
- Mê Linh 100 56,9 0,1 16,7 12,4
- Ba Vì 100 42,1 24,1 11,1 4,1
- Phúc Thọ 100 49,2 - 12,4 13,5
- Đan Phượng 100 43,9 - 14,8 13,6
- Hoài Đức 100 52,0 - 18,3 23,9
- Quốc Oai 100 53,0 7,4 17,9 12,5
- Thạch Thất 100 40,6 13,8 28,7 10,1
- Chương Mỹ 100 59,5 1,3 16,8 6,9
- Thanh Oai 100 63,6 - 16,8 6,9
- Thường Tín 100 50,3 - 19,1 11,7
- Phú Xuyên 100 52,7 - 18,8 8,2
- Ứng Hòa 100 60,4 - 15,2 8,6
- Mỹ Đức 100 41,7 15,6 13,1 8,2
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2016 [31].
79
Diện tích đất ở khu vực đồi núi thấp của huyện Sóc Sơn trong tương lai có
thể chuyển sang phát triển lâm nghiệp với mục tiêu chủ yếu là bảo vệ môi
trường. Diện tích đất phù sa dọc theo các sông lớn chảy qua thủ đô sẽ là những
khu vực phù hợp cho phát triển công nghiệp. Diện tích nuôi trồng thủy sản chủ
yếu nằm trên địa bàn các huyện ngoại thành trong đó tập trung cao nhất ở Thanh
Trì. Điều này cũng phù hợp với sự phân bố địa hình trong khu vực Hà Nội.
Thanh Trì là huyện có độ cao địa hình thấp nhất với diện tích mặt nước khá lớn
nên kéo theo sự phát triển của ngành nuôi thủy sản. Ngược lại Sóc Sơn là huyện
có độ cao địa hình lớn, chủ yếu là dạng địa hình gò đồi thấp nên không có điều
kiện phát triển ngành nghề này.
Có thể khái quát điều kiện tự nhiên các huyện ngoại thành Hà Nội có ảnh
hưởng hai mặt đến việc làm của NTN trên địa bàn.
Thứ nhất, về thuận lợi: Diện tích rộng, hệ thống giao thông đa dạng thuận
lợi, khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng 4 mùa rõ rệt, đất đai mầu mỡ, địa hình
khá bằng phẳng... có thể phát triển nhiều ngành nghề cả nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ... Đây là thuận lợi căn bản tạo ra nhiều việc làm, trên nhiều lĩnh
vực cho NTN các huyện ngoại thành Hà Nội
Thứ hai, về khó khăn: Sự phân chia 17 huyện ngoại thành theo địa giới
hành chính về 4 hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Trong đó, có huyện đồng bằng,
huyện đồi núi và huyện đan xen... với các điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, giao
thông... khác nhau. Từ đó, các phương thức tạo việc làm của NTN cũng khác
nhau, trong điều kiện phân bổ các nguồn lực và chính sách việc làm được thực
hiện từ một trung tâm. Điều này tất yếu có những bất cập trong triển khai thực
hiện.Vì vậy, các nội dung liên quan đến việc làm cuả NTN các huyện ngoại
thành càn phải tính đến các yếu tố đặc thù.
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội các huyện ngoại thành Hà Nội
3.1.2.1. Về kinh tế
Sau khi được sát nhập vào thủ đô, rất nhiều huyện ngoại thành Hà Nội có
sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Bảng 3.2 cho thấy, tốc độ tăng trưởng bình quân
của các huyện ngoại thành sau khi Hà Nội mở rộng là gần đạt 11,5%. Đến năm
2010, con số này giảm xuống còn 11,3% và giảm hơn nữa vào năm 2016 là còn
10,5%. Như vậy, sau khi mở rộng một thời gian, tốc độ tăng trưởng của các
huyện ngoại thành Hà Nội có xu hướng chậm lại hơn so với lúc mới sát nhập.
80
Kết quả từ chương trình xây dựng NTM đã thay đổi bộ mặt KT-XH các
huyện ngoại thành, đem lại mức thu nhập ngày càng cao cho người dân. Thu
nhập của người dân tăng rõ rệt từ 5,8 triệu năm 2005 lên 23,50 triệu năm 2016.
Bảng 3.2: Một số chỉ tiêu kinh tế chính giai đoạn 2005 - 2016
2005 - 2010 2010 2016 2010 - 2016
Tốc độ tăng trưởng (%) 11, 49 11,3 10,5 10,83
Cơ cấu kinh tế (%) 100 100 100 100
- Nông, lâm, thủy sản 38,33 27,56 18,43 23,0
Trồng trọt, lâm nghiệp 59,34 45,50 41,14 43,32
Chăn nuôi, thủy sản 39,47 52,30 55,89 54,10
Dịch vụ nông nghiệp 1,19 2,20 2,97 2,59
- Công nghiệp - Xây dựng 40,84 43,93 53,03 48,47
- Thương mại - Dịch vụ 20,83 28,51 28,54 28,53
Thu nhập bình quân đầu người
(triệu đồng/người/năm)
5,80 14,00 33,00 23,50
Nguồn: Tổng hợp và tính toán dựa trên Báo cáo kinh tế - xã hội hàng năm
của các huyện ngoại thành Hà Nội [13].
Tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế ở các huyện ngoại thành được
đánh giá là theo xu hướng giảm xuống, đồng thời các ngành công nghiệp và dịch
vụ theo xu hướng tăng lên. Giai đoạn 2005-2010, cơ cấu nông, lâm và thủy sản
đạt 38,33% thì giai đoạn 2010 - 2016 chỉ còn 23%. Trong khi đó, công nghiệp và
xây dựng tăng từ 40,84% lên 48,47%. Còn thương mại và dịch vụ cũng tăng hơn
8% từ 20,83% giai đoạn 2005 -2010 lên 28,53% giai đoạn 2010 - 2016.
Có thể thấy, ngành dịch vụ đã và đang có sự phát triển đáng kể, đóng góp
lớn vào sự tăng trưởng kinh tế của các huyện ngoại thành Hà Nội và đây chính là
ngành có thể tạo ra nhiều việc làm cho NTN trong tương lai, song sự phát triển
hiện tại chưa tương xứng với tiềm năng về điều kiện tự nhiên, lịch sử - văn hóa
của vùng; chưa đáp ứng yêu cầu quy hoạch là vành đai xanh và du lịch sinh thái
của thành phố Hà Nội.
3.1.2.2. Đặc điểm xã hội - văn hóa
Tổng dân số thành phố Hà Nội năm 2017 là 7.742.200 người, trong đó các
huyện ngoại thành tính đến là 3.843,9 nghìn người, chiếm 49,64% dân số toàn
81
thành phố, mật độ dân số đạt 1.359 người/km2, thấp hơn nhiều so với mật độ dân
số trung bình của thành phố Hà Nội (2.222 người/km2). Sau khi mở rộng, dân số
Hà Nội tăng thêm khoảng 70 nghìn người dân tộc thiểu số. Trong đó, NTN
người dân tộc thiểu số chiêm hơn 1/3 tổng số này và có điều kiện sống hết sức
khó khăn. Phần lớn NTN dân tộc thiểu số không học hết trung học cơ sở, thiếu
rất nhiều kĩ năng lao động và tự ti trong giao tiếp với bên ngoài.
Sự phân bố dân cư ở các huyện ngoại thành Hà Nội không có sự đồng đều, nơi
đồng bằng thì nhiều người hơn, ví dụ như ở Đông Anh, Gia Lâm, trong k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- viec_lam_cua_nu_thanh_nien_o_cac_huyen_ngoai_thanh_ha_noi.pdf