Có thể nói Nam Phong là tạp chí dịch giới thiệu thơ cổ điển Trung Quốc nhiều nhất trong số báo, tạp chí từ trước đến nay và Nam Phong là tạp chí dấy lên phong trào dịch thơ cổ Trung Quốc rộng rãi nhất trong mấy mươi năm đầu thế kỷ. Thơ Đường trên Nam Phong được dịch ở nhiều thể khác nhau, từ nguyên thể đến song thất lục bát, lục bát và có cả thể nói như trường dịch của Tương Tiến Tửu của Lý Bạch (Không rõ dịch giả, NP số 161/1931). Rất nhiều trường hợp cùng một bài thơ được nhiều dịch giả tham gia dịch. Khảo sát các bản dịch này sẽ là điều thú vị và có ý nghĩa không nhỏ trong việc tìm hiểu lịch sử dịch thơ Trung Quốc ở Việt Nam.
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2264 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việc nghiên cứu, giới thiệu văn học Trung Quốc trên tạp chí Nam Phong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆC NGHIÊN CỨU, GIỚI THIỆU VĂN HỌC TRUNG QUỐC TRÊN TẠP CHÍ NAM PHONG
NGUYỄN VĂN HIỆU
Khảo sát việc nghiên cứu, giới thiệu văn học Trung Quốc ở Việt Nam là một trong những yêu cầu rất cơ bản để nghiên cứu mối quan hệ văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhất là trong giai đoạn mối quan hệ văn học giữa hai nước có chuyển biến về chất khi Việt Nam xây dựng “nền quốc văn mới” và từng bước hiện đại hoá tiến trình văn học dân tộc.
Đây là vấn đề chưa được nhiều người nghiên cứu đến. Trong bài viết này, chúng tôi bước đầu tìm hiểu việc nghiên cứu, giới thiệu văn học Trung Quốc trên Tạp chí Nam Phong- tạp chí được gọi là tiêu biểu nhất, đậm chất văn hoá- học thuật nhất trong số báo chí 30 năm đầu thế kỷ.
1. Nghiên cứu giới thiệu văn hoá- văn học Trung Quốc, cũng như chủ trương bảo tồn văn hoá dân tộc, thực ra không nằm ngoài chủ đích chính trị của những người sáng lập Nam Phong. Tồn tại suốt 18 năm (1917-1934) với 210 số, Nam Phong tạp chí theo chủ thuyết Albert Sarraut- thay chân Đông Phương tạp chí, ca tụng “Đại pháp”, hô hào xây dựng nền văn hoá mới, dung hoà Đôn- Tây, khuấy lên phong trào say mê nghiên cứu văn hoá để làm lãng quên những vấn đề chính trị- “chủ trương lấy chính trị làm tôn chỉ không bằng làm chủ nghĩa” (Nam Phong được mười tuổi. NP số 119/7/1917). Về phía chủ bút Phạm Quỳnh, trên Nam Phong, Pham Quỳnh tuyên truyền cho “chủ nghĩa quốc gia”, cho “chính sách bảo hộ” một cách không che dấu. Theo Phạm Quỳnh, “về đường chính trị phải ban bố một độc lập ở cái thế giới cạnh tranh này, nên phải nấp bóng dưới một cường quốc, nhờ che chở cho “Quốc học và chính trị, NP số 168/8-9/1931) Phạm Quỳnh kêu gọi: “Nhà văn muốn thờ nước không có phương tiện nào hay bằng: giúp cho nước có một nền quốc văn xứng đáng” (Quốc học và Quốc văn. NP số 161/7/1931), và chính Phạm Quỳnh tự nhận mình là người tiên phong trong phong trào gây dựng văn hoá, ông viết nhiều về tất cả các vấn đề thuộc văn hoá khoa học Đông- Tây nhằm giới thiệu “văn minh thái Tây” cũng như “văn minh Á Đông”…. Phải chăng đó là “chủ nghĩa quốc gia” dưới chiêu bài văn hoá của Phạm Quỳnh?
Nghiên cứu Tạp chí Nam Phong không thể bỏ qua khía cạnh chính trị này. Tuy nhiên, chúng ta không thể không chú ý đến một mặt khác của vấn đề: cùng với Đông Phương Tạp chí trước đó, Nam Phong đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của báo chí Việt Nam, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hoá giai đoạn. Chủ trương xây dựng nền học thuật mới, giới thiệu văn hoá Đông- Tây, bảo tồn quốc hồn, quốc tuý, “đoàn luyện quốc văn” v.v…. Tạp chí Nam Phong đã góp phần không nhỏ trong việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần, học thuật đương thời. Nam Phong thu hút được nhiều tri thức cũng như đông đảo bạn đọc trong nước. Nhưng cây bút chủ lực của Nam Phong phần nhiều là những người uyên thâm cựu học, lại có vốn Tây học. Chính những công trình biên dịch, khảo cứu của họ đã góp phần đem lại cho Nam Phong không khí học thuật vừa thâm trầm vừa mới mẻ. Và không ai trong số họ cũng thấm nhuần “chủ nghĩa quốc gia” của Phạm Quỳnh. Trong số họ có thể có không ít người còn ảo tưởng về chính trị nhưng lại rất nhiệt tâm xây dựng học thuật nước nhà. Không phải ngẫu nhiên nhiều học giả tên tuổi như Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đông Chi.. đã từng ghi nhận công lao của Nam Phong tạp chí, của Phạm Quỳnh đối với sự phát triển của văn học nước ta trong buổi đầu của nền văn học hiện đại. Ngay từ năm 1933, nhà phê bình Thiếu Sơn đã ghi nhận: “Có những kẻ không hiểu biết gì về văn chương Pháp và Trung Hoa, nhưng với tạp chí Nam Phong, họ có thể có được một trình độ tri thức cần thiết cho sự sống hàng ngày… và khi đọc tạp chí này người ta có thể học hỏi được nền văn hoá Đông Phương” (1)
Việc nghiên cứu, giới thiệu văn học Trung Quốc trên Tạp chí Nam Phong và ý nghĩa của nó xuất phát từ yêu cầu chủ quan và khách quan trên.
2. Với 210 số, khổ lớn, dày trên dưới 100 trang, xuất bản đều đặn trong 18 năm (1917-1934), Tạp chí Nam Phong cho ra đời nhiều bài mục, thời sự… trong đó những vấn đề liên quan đến văn hoá- học thuật, văn học Trung Quốc chiếm số lượng không nhỏ, dù mục đích chủ yếu của Nam Phong là tuyên truyền văn hoá thái Tây, chủ yếu là văn minh Pháp trong buổi văn hoá cổ truyền của Trung Quốc không còn đủ sức chống lại sự du nhập mới từ Phương Tây (Lời nói đầu NP số 1/7/1917). Hầu hết các bài viết trên Nam Phong đầu ít nhiều liên hệ đến văn hoá học thuật Trung Quốc dù bàn về giáo dục, quốc học, quốc văn, xã hội… Điểm nổi bật ở đây là tinh thần học thuật, là thái độ ứng xử đối với văn hoá Trung Hoa trong buổi “hỗn hiệp” văn hoá Đông Tây, xây dựng học thuật nước nhà. Điều đó cho thấy mối quan hệ văn hoá nói chung, văn học nói riêng, giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được đặt trên tầm quan hệ mới, phá vỡ mối quan hệ theo đặc trưng giao lưu Trung đại có từ ngàn năm. Ông Tuyết Huy bàn khá thấu đáo về việc cần học chữ Hán, “lựa những chữ Hán có thể dùng làm quốc văn”, “đón được cái mới vẫn tốt, giữ được cái cũ vẫn hay”, và “dịch được nhiều sách thì cái tinh hoa văn hoá vẫn còn” (Bàn về vấn đề học chữ Hán. NP số 24/6/1919). Nguyễn Bá Trác kêu gọi các nhà Tây học “lấy cái con mắt nhà Tây mà phán đoán, mà tả chân ra làm thành sách vở quốc ngữ truyền lại nghĩa lý Hán học cho người đời sau… Tôi chỉ trông rằng sau này sẽ có một ngày kia, học mới học cũ cùng chung đúc lại một lò, mà thành ra một nền văn học riêng củaViệt Nam ta” (Bàn về Hán học, NP số 40/10/1919).Ông Tùng Vân trong “Bàn về lịch sử nước Tàu” viết “Người Nam ta đối với lịch sử nước Tàu,chỉ nên chú ý về lịch sử văn hóamà thôi… xét trong lịch sử Khổng học, đời nào là đời Khổng học mờ tối, và Khổng học có ích cho xã hội thế nào, kẻ khảo về Đông phương học, thực cũng nên biết.” (NP số 80/2/1924). Khảo sách “Xuân Thu tả truyện”, Ông Nguyễn Trọng Thuật viết : “Cái mục đích của sự học vấn là phải lấy phép thực nghiệm mà xét tìm cho kỳ đến chốn chân lý có thể căn cứ được mới thôi” (NP số 127/3/1938). “Khảo về lối văn mới của người Tàu” , ông Nguyễn Tiến Lãng hy vọng “Tân thanh niên và tân học giả nước ta cũng có thể biết tường tận cái chân tướng về cuộc vận động cải tạo rất quan hệ cho văn học và cho cả xã hội Tàu ngày nay, phong trào ấy có nhiều vẻ đáng kể cho ta bắt chước” (NP số 210/12/1934 ). Về tinh thần dịch thuật, Ông Đồ Nam (Nguyễn Trọng Thuật ) viết : “Cái nền dân tộc học thuật đã phải bao hàm, lại phải lấy tiếng nói của dân tộc làm căn bản, thì sự phiên dịch là rất cần”, kể cả “những sách Tây đã dịch ra Hán ta cũng có thể chọn mà dịch lại được” (NP số 196/12/1933)… Tuy có tính chất không thuần nhất trong hàng ngũ các cây bút Nam Phong, nhưng có thể nói , trên đây cũng là tinh thần học thuật khá nhất quán đối với những người khảo dịch văn hoá phương Đông nói chung do yêu cầu khách quan, khoa học của phong trào gây dựng văn hoá- học thuật nước nhà.
3. Về phương diện học thuật, nhìn chung các cây bút Nam Phong chú ý nhiều hơn đến các vấn đề cổ học Trung Hoa và biên dịch nhiều hơn. Về khảo luận đáng chú ý có bài của Trần Trọng Kim về Nho giáo (NP 65,66/1922), Đạo giáo (NP số 67, 8, 74, 75/1923); của An Khê về Triết học Khổng giáo (NP số 83, 86/ 1923), học thuyết các môn đồ Khổng Tử (NP số 91,93/1924 ); các bài Bàn về học thuật nước Tàu (NP số 15/1918), bàn về Hán học (NP số 40/1920 )của Nguyễn Bá Trác… Nhân vật cận hiện đại Trung Quốc, Lương Khải Siêu, cũng được bàn đến, tác phẩm của Lương Khải Siêu cũng được dịch giới thiệu khá nhiều . Về biên dịch, đáng kể các bản dịch của Phạm Quỳnh như “ Khổng Phu Tử luận”, dịch của Edoward Charannes (NP số 13/1918 ), “Khổng giáo luận” của Hovelaque (NP số 50/1921 ), “Cái tư tưởng căn bản của Khổng Mạnh” của giả Nhật, Phục Bộ Vũ Chi Cát (NP số 85/1924 ), “Khảo về triết học nước Tàu” của Auroussean (NP số 87/1924 )v.v… Nhưng dịch giả quan trọng nhất giới thiệu học thuật Trung Hoa trên Nam Phong phải kể đến Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến. Ông có mặt trong 18 năm tồn tại của Nam Phong, chuyên về học thuật Đông Phương . Sự nghiệp dịch thuật của ông khá đồ sộ, cả cổ học Việt Nam lẫn Trung Hoa. Về học thuật Trung Hoa ông dịch đủ mọi lĩnh vực : triết học, xã hội học, văn học, lịch sử, phong tục … Về triết học, đáng kể là công trình dịch tác phẩm “Khảo về học thuật nước Tàu” của Lương Khải Siêu (NP từ số 163/1931 đến 187/1931); Khảo dịch “Mạnh tử quốc văn giải thích” (từ NP số 78/1923 đến số cuối) và “Luận ngữ quốc văn giải thích” (cùng với Nguyễn Đôn Phục ); về văn học, ông dịch các bài khảo về Khuất Nguyên, Đào Uyên Minh, Tô Đông Pha… và đáng kể là ông dịch bộ “Văn học sử nước Tàu” của Vương Mộng Tăng (NP 56 đến số 63/1922), và “Khảo về các lối văn Tàu” (không ghi xuất xứ. Từ NP số 72 đến 76/11923). Đây là hai công trình về văn học Trung Quốc được giới thiệu qui môn nhất từ trước đến đó ở Việt Nam, góp phần không nhỏ trong việc giới thiệu văn học Trung Quốc một cách có hệ thống ở Việt Nam.
Ý nghĩa của việc của việc dịch thuật tác phẩm Trung Quốc của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến nói riêng, của Tạp chí Nam Phong nói chung, có thể mượn lời của Nguyễn Khắc Xuyên để khái quát: “Như các nhà khảo cứu đã nhận xét về Đông Châu: nếu với nền Pháp văn minh thịnh hành ở nước ta, người ta ít chú trọng đến những bài giới thiệu văn học thái Tây của Phạm Quỳnh thì nền Hán học suy vong, người ta càng cần đến những bài dịch khảo cứu về học thuật và tư tưởng nước Tàu. Phải chăng đó là khía cạnh có thể trường tồn được của Nguyễn Hữu Tiến?” (2).
Có thể nói, đến Tạp chí Nam Phong, nhiều vấn đề học thuật Trung Quốc cổ trung đại mới được trình bày một cách phong phú và khá có hệ thống, ở một mức độ nhất định, Nam Phong đã phát ra một cái nhìn có tính khái quát về học thuật Đông Phương trên tinh thần học thuật mới.
Các dịch giả Nam Phong còn ít chú ý những vấn đề học thuật Trung Quốc đương thời. Điều đó cũng dễ hiểu vì bấy giờ Trung Quốc cũng như Việt Nam, đang vận động xây dựng học thuật mới. Mặt khác, phần nào do cái nhìn chủ quan, hạn chế của không ít trí thức Nho học nước ta đương thời. Năm 1933, ông Lê Dư có nhắc đến Hồ Thích và cuộc vận động tân học, nhưng theo ông “sự đó ta đã làm trước nước Tàu ngót nghìn năm rồi” và ông không thể chịu được “lời thơ mới của Hồ Thích xướng ra, không vần không luật” (Nguồn gốc văn học nước nhà và nền văn học mới. NP 190/1933). Người đầu tiên giới thiệu văn mới của Trung Quốc là Nguyễn Tiến Lãng. Trong bài “Văn mới của người Tàu” (Nam Phong. 210/1934) ông ca ngợi Hồ Thích, Trần Độc Tú trong cuộc vận động tân văn học. Về thơ, ông nhắc đến thơ Từ Chi Ma “diễm lệ có đặc tính riêng”, thơ Quách Mạc Nhược “tư tưởng và trang nhã”. Về văn, ông giới thiệu Lỗ Tấn với tác phẩm “Đời Ahy”, nhắc đến Lão Xá, Mao Thuẩn, Đinh Linh… Ông viết: “Xem qua ta đủ thấy người Tàu biết nhận cái ảnh hưởng của thái Tây về hình thức cũng như về tinh thần. Đó cũng là một cái gương cho ta noi theo”.
Trên Nam Phong, khảo cứu chuyên về văn học chưa được dịch và giới thiệu nhiều; bài viết của tác giả Việt Nam về văn học Trung Quốc cũng rất ít. Văn mới Trung Quốc, thực ra phải đến 1945, với Đặng Thai Mai, nền “văn học mới” của Trung Quốc mới được chú ý đúng mức.
4. Tác phẩm văn học dịch cũng chủ yếu là văn học cổ Trung Quốc, trừ một vài truyện ngắn, tiểu thuyết. Có một tình hình chung, việc dịch các tác phẩm văn học phương Tây thường gắn với ý thức nhằm giới thiệu lối văn mới để người trong nước thưởng thức, học theo, và do đó, tác phẩm văn xuôi được giới thiệu nhiều hơn. Phạm Quỳnh dịch truyện ngắn của Georges D’Esparles trên NP số 2/1917 là nhằm giới thiệu “Truyện dịch sau này thuộc về lối “đoản thiên tiểu thuyết” (Comte, Nouvelle). Lối ấy cũng là một lối hay trong văn chương Tây, các nhà văn sĩ ta có thể bắt chước mà làm bằng tiếng Nôm. Vì lối tiểu thuyết dài thì hiện nay người nước ta còn chưa đủ tư cách mà khởi hành được”. Trong khi đó, việc dịch, việc thưởng thức giới thiệu tác phẩm văn học Trung Quốc hầu như gắn với văn chương Á Đông hơn. Nhiều dịch giả hầu như không quan tâm đến việc giới thiệu xuất xứ của tác phẩm dịch, cả về thơ lẫn văn xuôi, có trường hợp không ghi cả tên người dịch, gây khó khăn không ít cho người khảo cú.
- Về thơ, từ Nam Phong số 9/1918, với mục “Dịch thơ Đường”, Đông Châu phụ trách, thơ cổ Trung Quốc được sao lục hoặc dịch mới, xuất hiện khá đều trong mục “Văn uyển”, chỉ riêng thơ Đường đã có trên 300 bản dịch.
Phần sao lục, đáng kể có sao lục của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến- “Bản hội mới sao lục được một tập dịch Đường thơ, không biết của cụ nào. Mỗi kỳ đăng mấy bài in cả nguyên thi chữ Nho để các nhà đọc báo tiện xem” (NP số 9/1918), và sao lục của Lê Dư- “Nay tìm thấy được tập thơ Đường diễn nôm này chưa rõ là nguyên nhân ai diễn”. (NP số 175/1932). Sao lục của Đông Châu và của Lê Dư ngót 200 bản dịch thơ Đường lối thơ rất thoát.
Mục dịch thơ Đường thu hút nhiều dịch giả trong cả nước, nhưng chủ yếu là dịch giả miền Bắc, như Đàm Xuyên, Nguyễn Thế Nức, Trần Sở Kiều, Nguyễn Kiểm, Phạm Hùng Kỳ… đáng kể có Phạm Sỹ Vỹ dịch “Thiên gia thi”, 100 bài, in trên Nam Phong từ số 144/1929 đến số 149/1930, dịch theo nguyên thể, nhiều bài được chọn in trong nhiều tuyển thơ Đường về sau. Dịch giả quan trọng nhất dịch thơ cổ Trung Quốc trên Nam Phong là Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục với gần 100 bản dịch, từ thơ Nam Bắc triều đến Đường, Tống. Vẫn nhiều nhất là thơ Đường. Thơ dịch của ông khi rải rác, khi liền số, suốt từ 1922 đến 1934. Thơ dịch của ông thường có “Lời giải kiêm lời bình”, xuất xứ rõ ràng. Ông chú trọng đến việc dịch theo nguyên thể để “bảo tồn lấy thể cách”, nhưng thi thoảng cũng dịch theo thể thơ lục bát và dịch rất tài hoa như bản dịch “Quy khứ lại từ” của Đào Tiềm (NP số 53/1921). Nhiều bản dịch của ông được coi là mẫu mực và được chọn in trong hầu hết các tuyển thơ Đường. Xuân Diệu đã hết sức ca ngợi bản dịch “Dữ Chu Sơn Nhân” (Đỗ Phủ) của ông (NP số 76/1923).
Có thể nói Nam Phong là tạp chí dịch giới thiệu thơ cổ điển Trung Quốc nhiều nhất trong số báo, tạp chí từ trước đến nay và Nam Phong là tạp chí dấy lên phong trào dịch thơ cổ Trung Quốc rộng rãi nhất trong mấy mươi năm đầu thế kỷ. Thơ Đường trên Nam Phong được dịch ở nhiều thể khác nhau, từ nguyên thể đến song thất lục bát, lục bát và có cả thể nói như trường dịch của Tương Tiến Tửu của Lý Bạch (Không rõ dịch giả, NP số 161/1931). Rất nhiều trường hợp cùng một bài thơ được nhiều dịch giả tham gia dịch. Khảo sát các bản dịch này sẽ là điều thú vị và có ý nghĩa không nhỏ trong việc tìm hiểu lịch sử dịch thơ Trung Quốc ở Việt Nam.
Cổ văn Trung Quốc, so với thơ, không được dịch giới thiệu bao nhiêu, chủ yếu văn Chiến quốc sách, văn Tả truyện, văn đời Đường, Tống, của các dịch giả Hồng Nhân (Phạm Quỳnh), Đông Châu, Tùng Vân, Tuyết Huy, Mân Châu, Nguyễn Mạnh Bỗng, cuối bản dịch thường có lời bàn phụ ca ngợi “văn pháp” hoặc liên hệ hiện trạng xã hội để phê phán.
Tuy giới thiệu không vì mục đích văn học, nhưng về cổ văn Trung Quốc trên Nam Phong phải kể hai bộ phận quan trọng nhất là “Mạnh Tử
quốc văn giải thích” do Đông Châu Hữu Tiến khảo dịch in từ Nam Phong số 78/1923 cho đến số cuối (Từ số 126 có sự cộng tác của Nguyễn Đôn Thục), và bộ “khảo về sách Xuân Thi tả truyện” của Nguyễn Trọng Thuật. Đây cũng là hai công trình khảo dịch thể hiện rất rõ tinh thần khoa học của hai ông, văn dịch sáng rõ, gãy gọn, chú thích rõ ràng.
Trước Tạp chí Nam Phong, truyện Tàu được dịch ở Việt Nam khá nhiều, nhất là từ sau 1906. Nếu trên Đông Dương tạp chí xuất hiện Tam quốc (Phan Kế Bính dịch), Đông Châu liệt quốc (Đỗ Mục dịch) thì trên Nam Phong vắng bóng tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, ngược lại, lại có những tiểu thuyết đương thời của Trung Quốc như tiểu thuyết của Từ Trẩm Á gây xôn xao dư luận bấy giờ.
Truyện ngắn Trung Quốc được in rải rác trên Nam Phong từ số 5/1917 với bốn dịch giả: Nam Thạch Trịnh Xuân Nham, sáu truyện không ghi xuất xứ; của Ngọc Am Võ Liêm Sơn, bốn truyện không ghi xuất xứ; của Đông Châu, năm truyện dịch “Liễu Trai” và một truyện dịch của Từ Trẫm Á (Gương Tự Do); đặc biệt có Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục, ông chọn dịch khá nhiều các chủ đề: “Đàn bà Đông Phương” (Từ NP số 101/1925 đến 154/1930). “Gương Đẹp đàn bà” (Từ NP số 189/1923 đến 192/1934). Đây thực sự là 4 tập truyện ngắn của Trung Quốc với gần 100 truyện, dù Tùng Vân chủ về tính cách đạo đức nhiều hơn.
Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục cũng là người dịch nhiều tiểu thuyết. Ông dịch 4 trong số 5 tiểu thuyết dịch trên Nam Phong: “Tây Thi diễm sử” (không ghi xuất xứ, NP từ số 115 đến 117/1927), “Chồng tôi” của Từ Trẩm Á (từ NP số 119/1927 đến 130/1928), “Nhất nộ vị hồng nhan” (Không ghi xuất xứ, NP từ 131/1928 đến 140/1929) và “Quý Phi Diễm Sử” (NP từ số 155/1930 đến 158/1931). Về tiểu thuyết “Chồng tôi”. Trúc Hà có phê bình: “Tuy dùng nhiều chữ Tàu, mà cũng nhờ dùng một cách tài tình nên câu văn lại thanh thoát gọn gàng, mạch văn thi khi mau khi chậm… Có khi đọc xong dư âm như còn chưa dứt. Xét về phương diện văn chương, thì thật là có giá trị. Nhưng lối văn để riêng cho một hạng người đọc mà thôi” (Khảo về sự tiến hoá của quốc văn trong lối tiểu thuyết – NP số 174/1932). Đó cũng là cái được và chưa được của các dịch giả “truyện Tàu” trên Nam Phong nói chung.
Tiểu thuyết dịch có tiếng vang đương thời là “Tuyết Hồng lệ sử” của Từ Trẩm Á, được ghi rõ là “Chung tình tiểu thuyết”, “Ái tình tiểu thuyết” được dịch trên Nam Phong từ số 77/1923 đến 84/1923, trên 60 trang. Các số Nam Phong sau lại in “Bổ Truyện Tuyết Hồng Lệ Sử” và nhiều bài tựa của độc giả Trung Quốc (Dịch) và độc giả Việt Nam. Có lẽ lường trước sự “bất thường” nên người dịch chỉ ký M.K và người sao lục phải có “Lời chua riêng”, rào trước đón sau, và: “Tuyết Hồng lệ sử là một truyện rất mới cách nay mới độ 15 năm, là một sự nên xem. Nhân vật truyện ấy lại là một người học mới buổi này, lại càng nên xem lắm. Tuy rằng đối với bổn phận của người trong truyện chưa chắc đã hợp với đạo lý, nhưng mà văn hay nên cũng là cái tiểu thuyết có giá trị”.
“Tuyết Hồng lệ sử” do Mai Khê Đoàn Tư Thuật dịch. Truyện viết theo thể nhật ký, phần lớn truyện là thư từ giữa Mộng Hà và Lệ Aûnh, lời văn bóng bẩy, chuyện tình sướt mướt cảm động, đọc không thể không liên tưởng đến “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách. “Bàn về truyện Tuyết Hồng lệ sử (1925) (NP số 99/1925) Minh Phương Nguyễn Như Cường viết: “Than Oâi! Lệ Aûnh chết rồi, Quân Thiếu chết rồi, Mộng Hà cũng chết rồi, Từ Trẩm Á còn làm sống lại nữa mà chi?” đủ thấy “truyện ái tình” đã thổi làn gió mới vào văn đàn Việt Nam, như là bước chuẩn bị cho “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách xuất hiện hai năm sau đó. Trúc Hà viết: “Kể trong các tiểu thuyết dịch của Tàu, quyển “Tuyết Hồng lệ sử” của ông Đoàn Tư Thuật là đặc sắc lắm… Quyển “Tuyết Hồng lệ sử” sở dĩ bị công kích là bởi lời văn hay, khiến cho người xem đọc dễ mê mẫn mà về sau các nhà dịch truyện Tàu xem chừng ảnh hưởng ở đó nhiều” và cùng một thứ văn chương mĩ lệ, hai quyển ấy (Tuyết Hồng và Tố Tâm- Người viết), bởi vậy cũng chịu chung một số mạng. Nhưng cũng nhờ cái số không may đó, cái số bị công kích đó, mà khiến người ta biết nhiều, đọc nhiều, mê nhiều” (Trúc Hà, bài đã dẫn).
Trong số truyện dịch, còn có một truyện đáng chú ý nhưng xưa nay chưa được nghe nói đến- truyện “Hổ cái già” (Nhật ký sợ vợ) in trên Nam Phong từ số 124/1927 đến 128/1928, ngót 50 trang in, do Lạc Khổ dịch, không ghi rõ xuất xứ, chỉ biết “Đây là sổ chép hàng ngày của chàng Long Khâu Sinh chép cái nông nỗi lấy phải vợ là người Tây học không tinh, hiểu lầm hai chữ tự do, không biết cái tinh thần tự do mà tự do xằng, tự do láo, làm tan nát cả cái gia đình của chàng, ông Nhiêm ông nhặt được ở trong đống sách nát đem về san nhuận và phê bình câu thú vị để làm gương cho đời soi chung… Dịch giả thấy truyện cũng lâm ly, mà văn lại ly kỳ, nên lược dịch ra đây” (Lời dịch giải). Truyện viết theo thể Nhật ký gồm 20 mục, mỗi mục có tiêu đề riêng, ghi sự việc xảy ra trong một năm. Văn viết theo lối hoạt kê, rất sinh động, nhưng đậm chất bi hài. Chúng tôi cũng chưa tra cứu được truyện này, chỉ ghi tham khảo.
Qua truyện Trung Quốc dịch nói riêng, truyện trên Nam Phong nói chung, chúng tôi thấy các nhà văn, dịch giả đương thời còn rất bỡ ngỡ trước khái niệm tiểu thuyết. Có khi được ghi là “Dịch tiểu thuyết Tàu” nhưng truyện lại rất ngắn, chỉ hai trang Nam Phong; có khi được ghi “Đoản thiên tiểu thuyết”.
Trên Tạp chí Nam Phong cũng đã xuất hiện ý kiến phê bình việc dịch truyện Tàu, có người đề nghị “nếu dịch tiểu thuyết thì nên dịch tiểu thuyết Tây (Trúc Hà, bài đãdẫn). Tuy vậy, việc dịch truyện Tàu trên Nam có ý nghĩa nhất định trong việc giới thiệu văn học Trung Quốc và rèn luyện câu văn Quốc Ngữ của buổi đầu nền văn học mới.
5. Từ cuối thế kỷ XIX, rõ hơn là từ đầu thế kỷ XX, quan hệ ảnh hưởng giữa văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam là quan hệ kép- “Là một hiện tượng văn học nước ngoài, văn học Trung Quốc ảnh hưởng tới văn học Việt Nam như mọi văn học nước khác. Đồng thời văn học Trung Quốc đã ảnh hưởng đến văn học Việt Nam như một yếu tố nội tại, tiềm ẩn trong truyền thống văn hoá Việt Nam” (Trần Đình Sử) (3). Khảo sát việc nghiên cứu, giới thiệu văn học Trung Quốc ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ là cơ sở của việc tìm hiểu ảnh hưởng kép đó. Chỉ riêng Đường thi, nhiều người đã nói đến ảnh hưởng sâu đậm của thơ Đường trong thơ Mới, phải chăng việc dịch giới thiệu thơ Đường trước đó đã góp phần không nhỏ đối với ảnh hưởng trên?
Trên đây tuy chỉ là những nét khái quát nhưng chúng tôi hy vọng đó là bức tranh chung về tình hình nghiên cứu, giới thiệu văn học Trung Quốc trên Tạp chí Nam Phong, góp phần hình dung một mảng không nhỏ trong cuộc vận hành của tiến trình văn học đầu thế kỷ này.
CHÚ THÍCH
Thiếu Sơn, Phê bình và Cảo luận. Nhà xuất bản Nam Ký Hà Nội, 1993, trang 27.
L.M Nguyễn Khắc Xuyên, Mục lục phân tích tạp chí Nam Phong 1917-1934 Bộ văn hoá giáo dục 1968, trang 16.
Trần Đình Sử, Ý nghĩa lịch sử của văn học Trung Quốc trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, Nghiên cứu nghệ thuật số 9/1994.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nam Phong Tạp Chí, 210 số, từ 1917 đến 1934, Hà Nội.
2. THIẾU SƠN, Phê bình và Cảo Luận, NXB Nam Ký Hà Nội, 1993.
3. NGUYỄN ĐỔNG CHI, Việt Nam Cổ Văn Học Sử, Tủ sách Văn Học, SG, 1970 (Tái bản).
4. DƯƠNG QUẢNG HÀM, Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu SG, 1968 (Tái bản).
5. NGUYỄN KHẮC XUYÊN, Mục Lục Phân Tích Tạp Chí Nam Phong, Bộ Văn Hoá Giáo Dục, SG, 1968.
6. HUỲNH VĂN TÒNG, Lịch sử báo chí Việt Nam, Trí Đăng, SG, 1974.
7. DỊCH QUÂN TẢ, Lịch sử văn học Trung Quốc, Huỳnh Minh Đức dịch, NXB Trẻ 1992 (Tái bản).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Việc nghiên cứu, giới thiệu văn học trung quốc trên tạp chí nam phong.doc