Có 9 biện pháp trung và dài hạn do EASG đề xuất. Trung Quốc dự định đăng cai Hội nghị Cấp cao về đầu tư và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) vào nửa đầu năm 2005.
Các nước ASEAN+3 tiếp tục tổ chức thảo luận về thời điểm thích hợp để họp Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và ý tưởng về cộng đồng Đông Á. ASEAN và Nhật Bản đã phát triển các văn bản thảo luận về EAS. Malaysia đã đề nghị đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á vào năm 2005.
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN+3 được tổ chức vào ngày 14/09/2004 đã thông qua đề xuất thành lập Nhóm Chuyên gia gồm các học giả và nhà nghiên cứu để nghiên cứu tính khả thi của EAFTA.
Các biện pháp khác đang được thảo luận tại các cuộc họp chuyên ngành ASEAN+3 gồm:
1) “Thiết lập một công cụ tài chính khu vực” và “theo đuổi một cơ chế tỷ giá hối đoái có sự điều phối chặt chẽ hơn” thông qua Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN+3
2) “Thúc đẩy hợp tác môi trưởng biển khu vực chặt chẽ hơn nữa trong toàn khu vực
3) “Xây dựng một khung khổ chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động về năng lượng” thông qua Hội nghị Bộ trưởng Năng lượng ASEAN+3.
43 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2139 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việt Nam-ASEAN 13 năm hội nhập và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chức năm 2006 vào năm 2004 do sức ép từ phía Mĩ và Liên Minh Châu Âu.
Hội nghị chính thức họp trong 3 ngày. Kế hoạch lịch trình các phiên họp như sau:
Phiên họp nội bộ giữa các nhà lãnh đạo nước thành viên
Phiên hội nghị giữa các nhà lãnh đạo với các ngoại trưởng của các nước thành viên trong Diễn đàn An ninh ASEAN
Phiên họp giữa các nhà lãnh đạo ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật bản, Hàn Quốc)
Phiên họp riêng biệt, được biết đến như là khu vực hợp tác kinh tế chặt chẽ ASEAN-CER (Australia, New Zealand)
Các kỳ Hội nghị cấp cao ASEAN
Kỳ
Thời gian
Quốc gia
Địa điểm tổ chức
Cấp cao I
23-24/2/1976
Indonesia
Bali
Cấp cao II
4-5/8/1977
Malaysia
Kuala Lumpur
Cấp cao III
14-15/2/1987
Philippines
Manila
Cấp cao IV
27-29/1/1992
Singapore
Singapore
Cấp cao V
14-15/12/1995
Thailand
Bangkok
Cấp cao VI
15-16/12/1998
Vietnam
Hanoi
Cấp cao VII
5-6/11/2001
Brunei
Bandar Seri Begawan
Cấp cao VIII
4-5/12/2002
Cambodia
Phnom Penh
Cấp cao IX
7-8/10/2003
Indonesia
Bali
Cấp cao X
29-30/11/2004
Laos
Vientiane
Cấp cao XI
12-14/12/2005
Malaysia
Kuala Lumpur
Cấp cao XII
11-14/1/2007
Philippines
Cebu
Cấp cao XIII
18-22/11/2007
Singapore
Singapore
Cấp cao XIV
12/2008
Thailand
Bangkok
Cấp cao XV
2009
Vietnam
Trong suốt hội nghị lần V ở Bangkok, các nhà lãnh đạo quyết định họp “không chính thức” giữa mỗi cuộc họp chính thức:
Hội nghị cấp cao ASEAN không chính thức
K ỳ
Thời gian
Quốc gia
Địa điểm tổ chức
Cấp cao I
30/11/1996
Indonesia
Jakarta
Cấp cao II
14-16/12/1997
Malaysia
Kuala Lumpur
Cấp cao III
27-28/11/1999
Philippines
Manila
Cấp cao IV
22-25/11/2000
Singapore
Singapore
Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) lần 3 tại Singapore vào ngày 21/11/2007. Tổng bí thư Trung Quốc Ôn Gia Bảo, những nhà lãnh đạo các nước thành viên ASEAN và Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand tham gia hội nghị.
6.2.Hội nghị thượng đỉnh Đông Á
Các quốc gia tham gia của Hội nghị thượng đỉnh Đông Á: :
Các nước ASEAN ASEAN+3 ba thành viên khác Nga
Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) là một diễn đàn gồm các quốc gia ở Á Châu được các nhà lãnh đạo của 16 quốc gia Đông Á và khu vực lân cận tổ chức, với ASEAN là trung tâm. Hội nghị thảo luận các vấn đề bao gồm: thương mại, năng lượng, an ninh và hội nghị đóng vai trò trong việc xây dựng mối quan hệ cồng đồng.
Thành viên của hội nghị bao gồm 10 nước ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand, đại diện gần như một nửa dân số thế giới. Nga đăng kí làm thành viên của hội nghị và vào năm 2005 là khách mời của hội nghị thượng đỉnh Đông Á lần I khi nhận được lời mời của nước chủ nhà Malaysia.
Hội nghị thượng đỉnh lần I được tổ chức tại Kuala Lumpur vào 14/12/2005 và kế đó các cuộc họp được tổ chức sau cuộc họp định kì hàng năm của các nhà lãnh đạo ASEAN
Hội nghị
Quốc gia
Địa điểm
Thời gian
Ghi chú
Thượng đỉnh Đông Á lần I
Malaysia
Kuala Lumpur
14/12/2005
Quan sát viên Nga tham dự
Thượng đỉnh Đông Á lần II
Philippines
Cebu City
15/1/2006
Thay lịch trình từ 13/12/2006
Tuyên bố của Cebu về an ninh năng lượng Đông Á
Thượng đỉnh Đông Á lần III
Singapore
Singapore
21/11/2007
Tuyên bố của Singapore về thay đổi khí hậu, năng lượng và môi trường
Đồng ý thành lập học viện nghiên cứu kinh tế cho ASEAN và Đông Á
Thượng đỉnh Đông Á lần IV
Thailand
Bangkok
12/2008
TBC
6.3.Diễn đàn khu vực
█ █ Các nước thành viên ASEAN
█ █ Các nước giám sát ASEAN
█ █ Các nước thành viên ứng cử vào ASEAN
█ █ ASEAN+3
█ █ █ Hội nghị thượng đỉnh Đông Á
█ █ █ █ █ █ Diễn đàn khu vực ASEAN
Diễn đàn khu vực ASEAN là cuộc đối thoại chính thức, trịnh trọng từ nhiều phía trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Vào 7/2007 có 27 nước tham gia diễn đàn. Mục tiêu diễn đàn khu vực ASEAN là nhằm thúc đẩy đối thoại và hội đàm, xúc tiến xây dựng sự tin tưởng và ngoại giao trong khu vực. Diễn đàn khu vực ASEAN được tổ chức lần đầu vào năm 1994. Thành viên tham dự hiện tại của Diễn đàn khu vực ASEAN bao gồm: tất cả thành viên của khối ASEAN, Úc, Bangladesh, Canada, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Liên Minh Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Bắc Triều Tiên, Mông Cổ, New Zealand, Pakistan, Papu, Nga, Đông Ti-Mo, Mĩ, Sir Lanka. Nước Cộng Hoà Trung Hoa(Đài Loan ) bị loại trừ kể từ khi thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN, và những vấn đề lien quan đến Đài Loan không được thảo luận tại cả cuộc họp Diễn đàn khu vực ASEAN và không được phát biểu trong những tuyên bố của chủ tịch ARF.
6.4.ASEAN+3:
ASEAN+3: là một diễn đàn hợp tác giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á(ASEAN) và ba quốc gia Đông Á gồm Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Thành viên:
Thành viên hiện tại bao gồm:
10 nước thành viên ASEAN:
Indonesia
Malaysia
Philippines
Singapore
Thailand
Brunei
Vietnam
Laos
Burma
Cambodia
Thêm ba quốc gia Đông Á:
Trung Quốc
Nhật Bản
Hàn Quốc
Lãnh đạo các quốc gia ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Cộng hoà Triều Tiên. (2001)
6.4.1.Lịch sử:
Cuộc họp các nhà lãnh đạo được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1997, ý nghiã và tầm quan trọng của tổ chức này được củng cố bởi cuộc Khủng hoảng Tài chính Châu Á. Tổ chức được thể chế hoá từ năm 1999. Tuy nhiên những năm gần đây có ý kiến cho rằng ý nghĩa của tổ chức này đang dần mờ nhạt do sự có mặt của Hội Nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), nhưng điều này không có nghĩa rằng nó quay về thời kì đầu phát triển của hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.
6.4.2.Thành tựu:
ASEAN+3 trong việc thiết lập Sáng kiến Chiềng Mai vừa được công nhận như là hình thức cơ bản cho sự ổn định tài chính ở Châu Á, mà sự kém ổn định đó chính là một nhân tố dẫn đến cuộc Khủng hoảng kinh tế Châu Á.
6.4.3.Bối cảnh:
Hợp tác ASEAN+3 bắt đầu vào tháng 12 năm 1997 với việc nhóm họp Hội nghị Thượng đỉnh không chính thức giữa các nhà Lãnh đạo ASEAN và những nhà lãnh đạo từ Đông Á, là Trung Quốc, Nhật Bản và Cộng hoà Triều Tiên (Hàn Quốc) bên lề Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN không chính thức lần thứ hai tại Malaysia.
Tiến trình ASEAN+3 được thể chế hoá vào năm 1999 khi các nhà Lãnh đạo đưa ra Tuyên bố chung về Hợp tác Đông Á tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN+3 lần thứ 3 tại Manila. Các nhà Lãnh đạo ASEAN+3 đã thể hiện quyết tâm và niềm tin vào việc tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa hợp tác Đông Á ở mọi cấp độ và trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế và xã hội, chính trị và các lĩnh vực khác.
Kể từ đó, một loạt các văn kiện then chốt đã được thông qua để đưa ra định hướng cho hợp tác ASEAN+3. Những văn kiện này bao gồm Báo cáo của Nhóm Tầm nhìn Đông Á (EAVG) năm 2001 và Báo cáo của Nhóm Nghiên cứu Đông Á (EASG) năm 2002.
6.4.4. Hợp tác Kinh tế và Chính trị
Hợp tác Kinh tế và Chính trị giữa các nước ASEAN+3 đang tiến triển tốt đẹp. Các nước ASEAN+3 thường xuyên tổ chức các cuộc tham vấn và đối thoại thường xuyên ở cấp thượng đỉnh, bộ trưởng, quan chức cao cấp và chuyên viên/ nhóm công tác để tăng cường và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác giữa các bên.
ASEAN+3 đã hợp tác trong việc giải quyết đe doạ khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia. Hội nghị tham vấn quan chức cấp cao ASEAN+3 về tội phạm xuyên quốc gia (SOMTC+3) được tổ chức vào tháng 6/2003 tại Hà Nội. Hội nghị Bộ trưởng ASEAN+3 về tội phạm xuyên quốc gia được tổ chức vào 10/01/2004 tại Bangkok, và tại đây các Bộ trưởng cũng đã thông qua kế hoạch xử lý tội phạm xuyên quốc gia trên 8 lĩnh vực là: khủng bố, buôn bán thuốc phiện bất hợp pháp, buôn bán người, cướp biển, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm thông tin mạng.
Hội nghị SOMTC+3 được tổ chức vào ngày 29/09/2004 tại Bandar Seri Begawan đã nhất trí phát triển chương trình làm việc cụ thể trong tám lĩnh vực của chương trình hợp tác chung. Từng lĩnh vực sẽ do một “nước đầu tầu” trong ASEAN chủ trì với sự hỗ trợ của các nước Cộng Ba.
6.4.5.Hợp tác Kinh tế, Thương mại và Tài chính
Hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, tài chính đã đạt được tiến bộ to lớn. Tổng kim ngạch thương mại giữa các nước ASEAN và các nước Cộng Ba đạt 195,6 tỷ đôla Mỹ năm 2003 so với 170,8 tỷ năm 2002, tăng 14,49%.
Các thoả thuận thương mại song phương giữa ASEAN và Trung Quốc, giữa ASEAN và Nhật Bản đã được thiết lập, hiệp định giữa ASEAN với Hàn Quốc đang được đàm phán. Những thoả thuận này sẽ làm cơ sở cho khả năng thiết lập Khu vực Mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA) trong tương lai không xa.
Về hợp tác tài chính, một thoả thuận tài chính khu vực có tên là “Sáng kiến Chiang Mai” (CMI) đã được đưa ra. CMI gồm Thoả thuận hoán đổi ASEAN mở rộng (ASA) và một mạng lưới các thoả thuận hoán đổi song phương (BSAs) giữa các nước thành viên ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. ASA hiện đã đạt mức 1 tỷ đôla Mỹ, trong khi có 16 BSAs đã được ký kết với trị giá 36,5 tỷ đôla Mỹ. Các nước ASEAN+3 cũng đang tìm cách để tăng cường hiệu quả của CMI.
Về hợp tác tài chính tiền tệ, đã có tiến bộ lớn trong việc phát triển thị trường trái phiếu Châu Á (ABMI). Các nước ASEAN+3 đang nỗ lực để sửa đổi các quy định hiện tại để tạo thuận lợi cho việc phát hành và đầu tư vào trái phiếu được định giá bằng đồng bản địa theo ABMI. Trang Web trái phiếu trực tuyến (The AsianBondsOnline Website -ABW) được đưa ra vào tháng 5/2004.
6.4.6.Thực thi các biện pháp của Nhóm Nghiên cứu Đông Á (EASG)
Báo cáo cuối cùng của EASG đã được các nhà Lãnh đạo thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN+3 năm 2002 tại Căm-pu-chia. Báo cáo này gồm 17 biện pháp ngắn hạn, 9 biện pháp trung và dài hạn.
Các biện pháp ngắn hạn của EASG
Kể từ khi thông qua báo cáo cuối cùng của EASG năm 2002, các nước ASEAN+3 đã tiến hành thực hiện 17 biện pháp ngắn hạn theo EASG. Các nước ASEAN+3 đã đồng ý hoàn thành tất cả các biện pháp ngắn hạn vào lễ kỷ niệm 10 năm ASEAN+3 vào năm 2007.
Bốn biện pháp ngắn hạn:
1) “Thực thi một chương trình phát triển nhân lực tổng thể cho Đông Á” bằng cách thiết lập Nhóm Nghiên cứu ASEAN+3 về Tạo Thuận lợi và Xúc tiến Trao đổi và Phát triển Nguồn Nhân lực” của Nhật Bản.
2) “Xây dựng một mạng lưới các chuyên gia cố vấn Đông Á”(NEAT) của Trung Quốc và Thái Lan.
3) “Thiết lập Diễn đàn Đông Á” (EAF) của Hàn Quốc và Malaysia.
4) “Thành lập Hội đồng Kinh doanh Đông Á” (EABC) của Malaysia. Một số biện pháp đã được thực thi thông qua hợp tác chuyên ngành ASEAN+3 như ‘dành đối xử ưu đãi và cơ chế GSP cho các nước kém phát triển” và “cơ chế tăng cường hợp tác đối với các vấn đề an ninh không truyền thống”.
Các biện pháp trung và dài hạn của EASG
Có 9 biện pháp trung và dài hạn do EASG đề xuất. Trung Quốc dự định đăng cai Hội nghị Cấp cao về đầu tư và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) vào nửa đầu năm 2005.
Các nước ASEAN+3 tiếp tục tổ chức thảo luận về thời điểm thích hợp để họp Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) và ý tưởng về cộng đồng Đông Á. ASEAN và Nhật Bản đã phát triển các văn bản thảo luận về EAS. Malaysia đã đề nghị đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á vào năm 2005.
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN+3 được tổ chức vào ngày 14/09/2004 đã thông qua đề xuất thành lập Nhóm Chuyên gia gồm các học giả và nhà nghiên cứu để nghiên cứu tính khả thi của EAFTA.
Các biện pháp khác đang được thảo luận tại các cuộc họp chuyên ngành ASEAN+3 gồm:
1) “Thiết lập một công cụ tài chính khu vực” và “theo đuổi một cơ chế tỷ giá hối đoái có sự điều phối chặt chẽ hơn” thông qua Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN+3
2) “Thúc đẩy hợp tác môi trưởng biển khu vực chặt chẽ hơn nữa trong toàn khu vực
3) “Xây dựng một khung khổ chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động về năng lượng” thông qua Hội nghị Bộ trưởng Năng lượng ASEAN+3.
6.4.7.Cơ chế thể chế
Hiện có 48 cơ chế điều phối 16 lĩnh vực hợp tác trong khuôn khổ ASEAN+3, bao gồm kinh tế, tài chính và tiền tệ, chính trị và an ninh, du lịch, nông nghiệp, môi trường, năng lượng và sản phẩm công nghệ thông tin (ICT).
Cơ quan ASEAN+3 được thiết lập tại Ban Thư ký ASEAN vào tháng 12 năm 2003 để trợ giúp các đồng Chủ tịch ASEAN+3 điều phối và quản lý hợp tác ASEAN+3.
6.5.Diễn đàn hợp tác Á – Âu
Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM - The Asia-Europe Meeting) được chính thức thành lập vào năm 1996 trong hội nghị cấp cao đầu tiên tại Bangkok. ASEM là một diễn đàn liên khu vực bao gồm Ủy ban châu Âu và 27 nước thành viên của Liên minh châu Âu (EU) và 13 thành viên của nhóm ASEAN cộng 3 và Ấn Độ ,Mông Cổ và Pakistan.
Những tiến trình chính hợp thành ASEM bao gồm:
Đối thoại chính trị.
An ninh và kinh tế.
Giáo dục và văn hoá
hay còn gọi là 3 cuộc đối thoại nòng cốt.
Nhìn chung, các tiến trình đều được xem xét và đồng thuận của các bên liên quan phụ thuộc vào các mối quan hệ giữa châu Âu và châu Á ở các cấp. Điều này được xem là cần thiết cho sự bình đẳng toàn cầu trong chính trị và kinh tế. Các tiến trình được các nhà lãnh đạo của các nước hội thảo 1 năm 2 lần, luân phiên tại các nước thành viên, ngoài chính trị, kinh tế, văn hóa còn có nhiều hội thảo khác.
Tháng 2 năm 1997, các nước thành viên ASEM đã sáng lập Tổ chức Á - Âu (ASEF - Asia-Europe Foundation) có trụ sở tại Singapore nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa người dân hai châu lục qua các cuộc giao lưu tri thức, văn hóa, và con người. Tổ chức hoạt động bằng sự đóng góp của chính phủ các nước thành viên, nhưng ngân sách hoạt động của nhiều dự án còn được đảm nhận bởi nhiều tổ chức và tập đoàn tài chính khác trong các nước ASEM. ASEF đã đưa ra nhiều dự án khác nhau, như kêu gọi thành lập Diễn thuyết Á - Âu, cuộc thi và trưng bài tranh của các nghệ sĩ trẻ Á - Âu, Hội nghị chuyên đề về quyền con người, mạng hợp tác Á - Âu ....
Các hội nghị đã được tổ chức tại:
1996 ASEM 1, Bangkok, Thái Lan
1998 ASEM 2, London, Anh
2000 ASEM 3, Seoul, Hàn Quốc
2002 ASEM 4, Copenhagen, Đan Mạch
2004 ASEM 5, Hanoi, Việt Nam
2006 ASEM 6, Helsinki, Phần Lan (Ấn Độ, Mông Cổ và Pakistan cũng được mời tham gia trong các hội nghị sau.[1])
2008 ASEM 7, sẽ được tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc vào ngày 24, 25 tháng 10 năm 2008.
Hội nghị ASEM lần thứ 8 giữ các Bộ trưởng Ngoại giao được tổ chức vào 28,29 tháng 5 năm 2007 tại Hamburg, Đức với sự tham gia của 10 nước ASEAN, 27 thành viên EU, Ủy ban Châu Âu, Châu Âu đại nghị Javier Solana, Tổng Thư ký ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Pakistan, và Mông Cổ. Hội nghị ASEM lần thứ 9 giữ các Bộ trưởng Ngoại giao sẽ được tổ chức vào năm 2009 tại Việt Nam
6.6.Hội nghị cấp cao Nga:
Hội nghị cấp cao ASEAN-Nga là một cuộc họp giữa các nhà lãnh đạo của các quốc gia thành viên và Tổng Thống Nga.
7.THÀNH TỰU:
7.1. Những thành tựu về mặt kinh tế:
Thành tựu chính của ASEAN là sự duy trì của một thời kỳ liên tiếp hoà bình và sự ổn định mà trong thời gian đó những nước thành viên riêng lẻ có khả năng để tập trung vào đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và hiện đại hóa. Thuyết động lực của nền kinh tế Đông Nam Á là điều gì đó mà các nước tự giành về cho chính mình.Trong khoảng 25 năm từ 1970 đến 1995,GDP của ASEAN tăng lên với lãi suất trung bình hàng năm là 7%.Ngày nay, Đông Nam Á có một thị trường lớn khoảng 500 triệu người và tổng GDP nhiều hơn 700 tỉ USD. .
Trong nhiều năm, toàn bộ thương mại của ASEAN tăng lên từ 10 tỉ USD vào năm 1967,14 tỉ USD vào năm 1970,134 tỉ USD vào năm 1980,302 tỉ USD vào năm 1990 đến 650 tỉ USD vào năm 1995. Với giá trị thương mại được sát nhập của nó, ASEAN là tổ chưc thương mại lớn thứ 4 trên thế giới sau Mỹ, Nhật và Châu Âu .
ASEAN thuộc vùng Đông Á rộng lớn, đang hướng đến sự bình đẳng về kinh tế với Bắc Mỹ và Liên hiệp Châu Âu. Vào năm 1960 GDP của những nước Đông Á chỉ có 4% của GNP thế giới, thì vào năm1992 là 25% và dự kiến là 33% trước năm 2010. Những ngân hàng trung ương Đông Á hiện giữ gần 45% dự trữ nước ngoài của thế giới.
Những nỗ lực hiên đại hóa của ASEAN đã mang lại những thay đổi trong cấu trúc sản xuất của vùng. Giữa năm1970 và 1993, cổ phiếu của ngành hàng đầu giảm từ 27% xuống 20%, khu vực thứ hai đang gia tăng một cách đáng kể từ 26% đến 33%, trong khi khu vực thứ ba duy trì cổ phiếu của nó tại 47%. Những xu hướng tương tự được phản ánh trong sự hợp thành lực lượng lao động của vùng. Tỉ lệ lực lượng lao động nông nghiệp của vùng sụt từ 61% trong giữa thập niên 70 xuống 53% vào năm 1990. Công nghiệp và khu vực dịch vụ đã nhanh chóng trở thành những ngành chính thu hút lực lượng lao động của vùng. Những sự phát triển này giúp cho nỗ lực của các thành viên ASEAN đạt được địa vị của nền kinh tế công nghiệp hóa.
Mặc dù không có bất cứ sự phủ nhận nào đối với thành tựu của các thành viên ASEAN nhưng hiệu quả của hợp tác kinh tế ASEAN đã trở thành đề tài của những lời phê bình lẫn lộn, phần lớn vì sự đánh giá không đầy đủ của những nhà phê bình ASEAN về một số sự ràng buộc cơ bản mà kinh tế ASEAN phải đấu tranh. Nền kinh tế ASEAN gồm nhiều thành phần khác nhau trong phạm vi phát triển, bắt đầu với những bổ sung rất nhỏ, kết quả của chính sách kinh tế phổ biến có thể tạo ra kẻ thắng và người thua. Đồng thời, không có nhiều khu vực mậu dịch. Tất cả trông tới những thị trường ngoài nước trong đó họ là những đối thủ cạnh tranh. Nỗ lực để tránh một hoàn cảnh nơi mà có những kẻ thắng may mắn và người thua có thể làm tê liệt hoàn toàn mọi nhóm khác. Nhưng trong trường hợp của các nước ASEAN, nó chỉ làm họ thận trọng cân nhắc trong những giai đoạn khởi sinh. Sự phát triển của những phương thức có hiệu quả của hợp tác kinh tế nội bộ ASEAN đã bị trói buộc thành những chuyến đi dài dòng.
Cột mốc đầu tiên trong hợp tác kinh tế ASEAN là Thượng đỉnh ASEAN đầu tiên được tổ chức ở Bali vào năm 1976. Gắn với Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN, một trong số hai tài liệu lịch sử đỉnh cao là một chương trình hoạt động đã xuất trình ba dụng cụ quan trọng của hợp tác kinh tế ASEAN: dự án Công nghiệp ASEAN (AIP), sự sắp đặt thương mại ưu tiên (PTA) và tập đoàn Công nghiệp (AIC). Sau đó,AIC được bổ sung bởi liên doanh Công nghiệp ASEAN (AIJV).Những nhà lãnh đạo ASEAN cũng quyết định bắt đầu nỗ lực trên những lĩnh vực như thức ăn, năng lượng, hợp tác để cải thiện thị trường bên ngoài ASEAN và phối hợp những vị trí của họ trên vấn đề kinh tế toàn cầu.
Năm kế tiếp ,tại Thượng đỉnh Kuala Lumpur, ASEAN mãnh liệt tiến đến hợp tác kinh tế với những bạn hàng thương mại chính thông qua quan hệ đối thoại với Nhật bản, Australia và New Zealand. Đây là sự bắt đầu của những liên kết rộng lớn của ASEAN với những đối tác đối thoại mà phần lớn là những nguồn từ thương mại, tư bản, công nghệ và sự giúp đỡ phát triển chính của vùng.
Hội nghị Thượng đỉnh về vấn đề kinh tế mới ASEAN năm1987. Tại đó, lãnh đạo các nước ASEAN đồng ý các biện pháp và hiểu rõ việc mở rộng phạm vi Hiệp định thuế ưu đãi (PTA) thông qua các biện pháp như giảm số lượng các bản ghi trong danh sách loại trừ, làm tăng lợi nhuận của việc ưu đãi cho các nước ASEAN- nội dung yêu cầu trong các quy định về nguồn gốc.ASEAN cũng quyết định làm cho liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) linh hoạt hơn,nhanh hơn để thực hiện và hấp dẫn hơn cho nhà đầu tư tư nhân. Dễ dàng hợp tác trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng, đồ tiêu dùng, thương mại dịch vụ, năng lượng, giao thông tin và truyền thông ,thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp cũng được khuyến khích.Hơn nữa,lãnh đạo các nước ASEAN tuyên bố năm 1992, ngày 25 Năm Kỷ Niệm các nước ASEAN, như là "Năm viếng thăm ASEAN".
Sau Hội nghị Thượng đỉnh Singapore năm 1992 của hợp tác kinh tế cao hơn ASEAN để nâng lên trình độ cao hơn,các Bộ Trưởng kinh tế ASEAN ký kết Hiệp định về Chương trình Ưu đãi Thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cho Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA). Quyết định để tạo ra một khu vực thương mại tự do đã được coi như là một chất lượng nhảy vọt trong lịch sử các hợp tác kinh tế ASEAN. Ban đầu Hiệp định CEPT bao gồm cả vốn đầu tư sản xuất các sản phẩm hàng hóa và xử lý các sản phẩm nông nghiệp. Sau đó được mở rộng cho các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến. Hai năm sau việc triển khai thực hiện ban đầu của nó, ASEAN quyết định đẩy nhanh các khung thời gian của AFTA từ 15 đến 10 năm.Ngoài việc giảm thuế và loại bỏ những rào cản phi thuế quan,thương mại có các biện pháp cũng đang được thực hiện,chẳng hạn như, thông qua Hiệp định nhập khẩu ASEAN, việc thực hiện các hệ thống Green Lane cho các sản phẩm CEPT để xúc tiến thuế nhập khẩu,thông qua các mẫu đơn thuế nhập khẩu phổ biến, loại bỏ phí trả thêm và cân đối các tiêu chuẩn,thuế nhập khẩu và giá trị.
Với một tầm nhìn để hợp lý hóa và mở rộng phạm vi điều chỉnh của công nghiệp hiện có trong việc triển khai thực hiện sắp xếp sau đây của Hệ thống CEPT cho AFTA, các Bộ Trưởng kinh tế ASEAN đã thông qua một hợp tác công nghiệp mới của ASEAN (AICO) trong năm 1996. Hệ thống AICO nhằm mục đích đẩy mạnh công nghiệp sản xuất giữa các công ty phụ thuộc ASEAN. Theo chương trình này, các sản phẩm ACIO, nhờ vào sự chấp thuận của họ, ngay lập tức sẽ được hưởng ưu đãi cước phí từ 0-5%. Đây là một sáng kiến chính sách để thúc đẩy hơn nữa trong khu vực ASEAN như là một khu vực đầu tư.
Hợp tác kinh tế giữa ASEAN và các quốc gia láng giềng của nó đã được theo đuổi cả trên nền tảng song phương và khu vực. Nhận thấy tiềm năng kinh tế của lưu vực sông Mekong ở trung tâm của đất liền khu vực Nam Á, một khuôn khổ cơ bản cho các nước ASEAN - Hợp tác phát triển lưu vực sông Mekong đã được thông qua vào tháng 6 năm 1996. Chương trình lưu vực sông Mekong bổ sung các hoạt động hợp tác khác đang được thực hiện bởi các Ủy ban Sông Mekong, các nhà tài trợ quốc gia như Nhật Bản và Hàn Quốc, các cơ quan đa phương như Ngân hàng phát triển châu Á.
Tại mức độ phụ, ASEAN ủng hộ việc hình thành và hoạt động của "khu vực tăng trưởng tự nhiên" liên quan đến khu vực giáp nhau của nhiều bang. Hiện có ba tốc độ tăng trưởng hoạt động trong khu vực,được gọi tên là Tam giác tăng trưởng Singapore-Johor-Riau (SIJORI), Tam giác tăng trưởng Indonesia-Malaysia-Thái Lan (IMT-GT), và Khu vực tăng trưởng phía đông ASEAN Brunei-Indonesia-Malaysia-Philippines (BIMP-EAGA).
Sau ba thập kỷ , các ngành nghề chính của hợp tác kinh tế ASEAN có thể được làm tròn lên như sau:
Hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư bắt đầu với việc giới thiệu Hiệp định thuế quan ưu đãi ASEAN (PTA) năm 1977 và sẽ lên đến tốc độ cao trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN.ASEAN cũng đã thông qua một Kế hoạch hành động cho việc khuyến khích Đầu tư trực tiếp nước ngoài và Đầu tư Intra-ASEAN hướng về Khu vực đầu tư ASEAN đến năm 2010 và tự do luồng vốn đầu tư đến năm 2020.
Hợp tác về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nhằm thúc đẩy sự tự tin của các nhà đầu tư và các nguồn của công nghệ cũng được tiến hành.
Hợp tác trong ngành công nghiệp bắt đầu với việc triển khai thực hiện các dự án công nghiệp ASEAN (AIP) năm 1976, theo sau là công nghiệp liên doanh ASEAN (AIJV) được giới thiệu vào năm 1983 và Chương trình bổ sung nhãn mác (BBC) vào năm 1988. Năm 1996, Hợp tác công nghiệp ASEAN đã được thông qua để thay thế các chương trình trước đó.
Hợp tác trong lĩnh vực tài chính,ngân hàng là nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, tự do chuyển động của vốn đầu tư và các nguồn lực tài chính,bao gồm cả tự do hoá hơn nữa của việc sử dụng các loại ngoại tệ của ASEAN trong thương mại và đầu tư.Hội nghị bộ trưởng ASEAN trong hợp tác tài chính cũng bao gồm các lĩnh vực ngân hang, vấn đề thuế hải quan, vấn đề bảo hiểm,thuế và công khai tài chính, chính sách tiền tệ hợp tác và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ tài chính.
Hợp tác trong lĩnh vực thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp đã bắt đầu gần như ngay lập tức sau khi thành lập các nước ASEAN với các thỏa thuận để tạo ra một ủy ban về Thực phẩm và sản xuất, Cung cấp và Hợp tác thủy sản trong năm 1968. Hiểu biết rõ về đặc điểm cơ bản của đất trồng trọt của vùng và chú ý đến tính dễ bị tổn thương của nó để mở rộng sự dao động trong sản xuất và cung cấp thực phẩm cơ bản,ASEAN thành lập một Dự trữ an ninh lương thực và khẩn cấp của ASEAN và Dự trữ gạo năm 1979.Kể từ đó,nhiều hình thức khác của hợp tác trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp theo sau, chẳng hạn như Vòng tròn chất lượng,sự phân chia đào tạo đào tạo và mở rộng nguồn tài nguyên. Thành viên của ASEAN cũng quyết tâm hợp tác kỹ thuật để quản lý tốt hơn, bảo tồn,phát triển thị trường và tài nguyên rừng.
Hợp tác trong lĩnh vực khoáng sản và năng lượng đang được theo đuổi trên cơ sở thoả thuận một khuôn khổ và chương trình hành động trong hỗ trợ của công nghiệp hóa của các nước thành viên để đáp ứng các nhu cầu của các ngành sản xuất và xây dựng. ASEAN đang phát triển Hệ thống thông tin tài nguyên,khoáng sản như là một cơ sở dữ liệu cho trao đổi thông tin và phổ biến cho các chính sách và các nhà đầu tư. Trung tâm nghiên cứu và đào tạo quản lý năng lượng ASEAN-EC,được thành lập từ 1988 với tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật từ Liên minh châu Âu, đã được phục vụ như là trung tâm xuất sắc cho các nghiên cứu năng lượng và hợp tác liên doanh giữa các nước ASEAN và giữa các nước thành viên ASEAN và châu Âu Tổ chức công đoàn.
Hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc đang được thực hiện thông qua việc thực hiện một Kế hoạch hành động trong Giao thông vận tải và Truyền thông đa phương để phát triển giao thông vận tải và thương mại,đạt được liên-kết nối trong viễn thông và làm cân đối đường giao thông vận tải và các quy định pháp luật.Một số t