Việt Nam thương mại thời mở cửa

LỜI NÓI ĐẦU 3

PHẦN I 4

Phần cơ sở lý luận 4

I. Hạn ngạch nhập khẩu (Import quota). 4

1. Khái niệm. 4

2. Nhà nước áp dụng biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch chủ yếu là nhằm một số mục đích. 5

3. Các mặt hàng được cấp hạn ngạch nhập khẩu. 7

4. So sánh tác động của hạn ngạch nhập khẩu và thuế quan tới thương mại, dịch vụ. 8

II. Hạn ngạch xuất khẩu (export quota). 19

1. Khái niệm. 19

2. Mục đích của Nhà nước khi áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. 20

3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraints-ver). 21

III. Các loại hạn ngạch khác. 23

IV. Các hàng rào thương mại phi thuế quan khác. 23

V. Những quy định việc xuất nhập khẩu hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch. 25

1. Căn cứ để xác định danh mục, số lượng(hoặc trị giá) của mặt hàng xuất nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch. 25

2.Thủ tục ấn định hạn ngạch. 26

3. Nguyên tắc và thủ tục phân bố hạn ngạch. 26

4. Quản lý Nhà nước về hạn ngạch và nghĩa vụ của cả doanh nghiệp được phân bổ hạn ngạch. 27

PHẦN II 28

Thực trạng và giải pháp trong phân bổ hạn ngạch. 28

I. Thực trạng của việc phân bổ hạn ngạch ở nước ta. 28

1. Hạn ngạch nhập khẩu. 28

2. Hạn ngạch xuất khẩu. 32

II. Kinh nghiệm áp dụng, sử dụng hạn ngạch ở các nước. 42

III. Những kiến nghị ,biện pháp sử dụng có hiệu quả hạn ngạch. 46

1. Những quy định chung. 46

2. Trình tự thực hiện. 47

3. Quy trình thực hiện đấu thầu. 48

4. Tiêu chuẩn xét thầu. 49

5. Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trúng thầu. 49

KẾT LUẬN 52

TÀI LIỆU THAM KHẢO 52

 

doc54 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việt Nam thương mại thời mở cửa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu đăng ký với Bộ Thương mại và được cấp giấy phép không hạn chế. 2. Mục đích của Nhà nước khi áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng xuất khẩu đặc biệt, quý hiếm, những nguyên liệu, tài nguyên của đất nước, hoặc những mặt hàng mang tính chiến lược đối với nền kinh tế. Nguyên nhân chính là do: Cấm vận buôn bán: Hiện nay có nhiều nước đang sử dụng hạn ngạch xuất như là một công cụ để cấm vận buôn bán giữa các nước với nước mình hoặc giữa các nước với nhau. Bằng cách hạn chế hoặc là không cho xuất sang một nước nào đó các nước có thể làm cho các nước khác gặp phải khó khăn về kinh tế-xã hội vì tự do thương mại đã khiến cho các nước phụ thuộc lẫn nhau. Mặt khác để bảo vệ tiềm năng, bảo vệ động vật và cây trồng, bảo vệ di sản văn hoá, đồ cổ. Khi xuất hàng hoá sang các nước phải làm sao để xuất được hàng hoá mà có kết tinh lao động trong nước và các yếu tố khác mà không làm thiệt hại đến tài nguyên của đất nước. Trong trường hợp này tốt nhất nên tập trung xuất khẩu những hàng hoá đã qua chế biến tinh, không nên xuất khẩu những hàng hoá mà chưa qua chế biến hoặc mới chỉ chế biến thô. 3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraints-ver). Trong những năm 70 và 80 các hàng rào thương mại phi thuế quan phát triển rất nhanh. Đó là các thoả thuận hạn chế xuất khẩu một số hàng hoá cụ thể sang một số thị trường cá biệt được thoả thuận tự nguyện của các nhà sản xuất. Các thoả thuận này có thể là chính thức hoặc không chính thức. Hiện nay các thoả thuận như thế bao hàm hầu hết số lượng buôn bán về ô tô, thép, hàng dệt và quần áo may sẵn giữa các nước đang phát triển. Hậu quả của hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng tương tự như hạn ngạch nhập khẩu nhưng có 3 sự khác biệt làm cho nó kém tác dụng hơn theo quan điểm của các nước nhập khẩu. Một là, tiền thuê hạn ngạch do hạn chế xuất khẩu tự nguyện hoàn toàn thuộc về dân cư của nước xuất khẩu. Điều đó có nghĩa là nước nhập khẩu bị thiệt và so với thuế quan thu nhập của Chính phủ chuyển cho nước ngoài. Hai là, nước nhập khẩu phải thanh toán ở mức giá nội địa đầy đủ mà không phải ở mức giá thế giới cho các hàng hoá nhập khẩu.Trong trường hợp này tương quan giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu sẽ xấu đi và đường cong định giá của nước nhập khẩu dịch chuyển sang phải. Ba là, hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính phân biệt đối xử nên chỉ áp dụng cho các nước cung ứng sản phẩm với chi phí thấp nhất. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng có thể buộc các nhà nhập khẩu phải chấp nhận nhập khẩu của các nước có chi phí cao hơn làm tăng khoản tiền phải trả của các nước nhập khẩu và phân phối không có hiệu quả các nguồn lực của thế giới. Các nước xuất khẩu thích áp dụng hạn chế xuất khẩu tự nguyện hơn so với hạn ngạch nhập khẩu hoặc thuế quan vì thiệt hại đối với nước nhập khẩu sẽ là lợi ích đối với nước xuất khẩu (Tiền thuê quota + Pd >Pw) (Đồ thị ). Trong thương mại quốc tế khía cạnh phân biệt đối xử phụ thuộc vào sự có mặt của các nhà cung ứng thay thế và chỉ xảy ra khi các nước nhập khẩu chấp nhận và khuyến khích các nhà cung ứng này mà thôi. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện kém tác dụng hơn các hàng rào thương mại khác nhưng dưới góc độ thể chế nó được các nước nhập khẩu ủng hộ. Tăng thuế quan và hạn ngạch đều trái với quy định chung của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vì vậy áp dụng các giải pháp đều có thể bị trả đũa bằng cấm vận quốc tế. Để tránh được hậu quả đó nước nhập khẩu mua chuộc các nhà cung ứng nước ngoài bằng cách đưa ra những lợi ích hạn chế của xuất khẩu tự nguyện. Các nước xuất khẩu nhận thấy rằng không chấp nhận những đề nghị đó có thể dẫn đến những hành động đơn phương của các nước nhập khẩu và vì vậy sự so sánh không phải là giữa hạn chế xuất khẩu tự nguyện sẽ cân bằng được các lợi thế và tránh được hậu quả của các hàng rào thương mại tự nguyện sẽ cân bằng được các lợi thế và tránh được hậu quả của các hàng rào thương mại khác. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cho phép các nhà nhập khẩu thực hiện giá cả độc quyền, họ sẽ không bán thấp hơn khi nhập khẩu bổ sung. Trong trường này tiền thuê hạn ngạch đối với một số lượng nhập khẩu cố định tăng lên. Phương thức này đã được người Nhật áp dụng nhằm hạn chế xuất khẩu ô tô sang Mỹ và vô tuyến độ nét cao đối với Cộng đồng Châu Âu (EC). Mục đích chính của xuất khẩu tự nguyện là chấp nhận các ngành công nghiệp đạt đến gần trình độ tối đa hoá lợi nhuận. III. Các loại hạn ngạch khác. Ngoài hạn ngạch xuất nhập khẩu hiện nay còn có một số loại hạn ngạch khác như hạn ngạch công nghiệp, hạn ngạch sản xuất, hạn ngạch gia công tái xuất, hạn ngạch hội chợ triển lãm. Tuy nhiên vì các loại hạn ngạch này không được áp dụng rộng rãi trừ hạn ngạch công nghiệp và hạn ngạch sản xuất. Chủ yếu có hạn ngạch xuất nhập khẩu tác động tới thương mại và dịch vụ. Hạn ngạch sản xuất: Ngoài việc trực tiếp tham gia vào thị trường và mua các sản phẩm do vậy làm tăng tổng cầu Chính phủ còn có thể làm cho giá cả của sản phẩm tăng bằng cách giảm cung. Chính phủ có thể làm điều này bằng các sắc lệnh - Chính phủ chỉ cần quy định hạn ngạch cho mỗi mặt hàng. Bằng cách ấn định hạn ngạch thích hợp giá cả có thể bị đẩy lên bất kỳ mức mong muốn nào. IV. Các hàng rào thương mại phi thuế quan khác. Nhìn chung tất cả các điều kiện áp dụng cho hàng hoá nước ngoài và nội địa đều có tác dụng như hàng rào thương mại. Tuy nhiên hầu hết các hàng rào phi thuế quan thường dẫn đến giảm các quan hệ buôn bán và thường rất khó đo lường ảnh hưởng của nó. Trong phần này chúng ta sẽ xem xét một số hàng rào phi thuế quan liên quan đến thuế quan và hạn ngạch như thế nào. Phương thức định giá của hải quan là hàng rào phi hạn ngạch dễ nhận thấy nhất. Bằng cách định giá hàng nhập khẩu ở mức giá cao hơn, nhân viên hải quan đã tăng tiền thuế phải trả. Sử dụng phương thức định giá của hải quan như là một hàng rào thương mại chỉ làm tăng chi phí nhập khẩu tương tự như thuế quan nhưng không làm tăng thu nhập cho Chính phủ của nước nhập khẩu. Nhiều khi nó mang tính chất chuyển đổi thuế hải quan. Quy định về thành phần sản phẩm có nguồn gốc địa phương cũng là một hàng rào thương mại quan trọng. Các quy định này bảo vệ các nhà sản xuất sản xuất phụ tùng nội địa tương tự như hạn ngạch nhập khẩu. Cũng do quy định về thành phần địa phương, các doanh nghiệp buộc phải thực hiện một số hoạt động có hiệu quả hơn so với thực hiện ở nước ngoài. Tuy nhiên các quy định này không khuyến khích đầu tư nước ngoài mà chỉ làm tăng hoạt động buôn bán và có thể làm tăng chi phí do hàng hoá không được kết thúc quá trinhg sản xuất tại nơi có chi phí thấp nhất. Sự ưu đãi của Chính phủ luôn luôn là khu vực màu mỡ cho sự phân biệt giữa nhà cung ứng nước ngoài và nội địa, chẳng hạn việc đấu thầu các dự án công cộng chỉ dành cho các nhà cung ứng nội địa. Hàng rào phi thuế quan này tăng cùng với sự tăng trưởng của khu vực Nhà nước. Sự ưu đãi của Chính phủ cũng tác động tương tự như thuế quan nhưng không có thu nhập. Trên thực tế đo lường ảnh hưởng của công cụ này rất khó khăn, đặc biệt là đối với những dự án lớn do không có thị trường mở để quan sát giá cả thế giới cho các dự án đó. Chính phủ có thể sử dụng các dịch vụ marketing và các dịch vụ bán lẻ riêng để tạo ra các hàng rào thương mại. Các cửa hàng bán đồ uống địa phương ở Canada với độc quyền bán rượu đã quy định giá cao hơn đối với rượu nhập khẩu nhằm khuyến khích tiêu thụ rượu nội địa mặc cho đó là những sản phẩm khác biệt. Các hàng rào phi thuế quan mang tính kỹ thuật như khác biệt về đơn vị đo trọng lượng, kích thước, ngôn ngữ trên bao bì đóng gói khó tiếp cận hơn. Quan trọng hơn nữa là những tiêu chuẩn về sức khoẻ, an toàn, môi trường...cũng đòi hỏi những chi phí bổ sung đối với các doanh nghiệp nước ngoài và gây ra những cản trở cho việc thâm nhập thị trường. Tất cả các hàng rào phi thuế quan đã miêu tả trên đây đều nhằm giảm nhập khẩu và có ảnh hưởng tương tự như thuế quan. Các nhà sản xuất nội địa được bảo hộ sẽ có lợi còn người tiêu dùng bị thiệt. Với các hàng rào phi thuế quan thu nhập của Chính phủ thường không tồn tại bởi thuế quan tương ứng đã bị ngăn chặn hoặc nguồn lợi bị phân tán do đòi hỏi về sử dụng nguồn lực đã làm chi phí của nhà cung ứng nước ngoài. Tác động đến thương mại của các hàng rào phi thuế quan thường rất lớn do những thiệt hại bổ sung thường xuất hiện. Tuy nhiên việc đánh giá tác động của chúng rất phức tạp do khía cạnh phi thương mại của giải pháp này. V. Những quy định việc xuất nhập khẩu hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch. 1. Căn cứ để xác định danh mục, số lượng(hoặc trị giá) của mặt hàng xuất nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch. Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường, môi sinh. Bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, bảo đảm nhu cầu hợp lý của sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Bảo đảm hiệu quả xuất nhập khẩu(chính sách tiết kiệm tiêu dùng, sử dụng hợp lý ngoại tệ) Bảo đảm chính sách thị trường ngoài nước và các cam kết quốc tế của Chính phủ. 2.Thủ tục ấn định hạn ngạch. Uỷ ban kế hoạch Nhà nước chủ trì, cùng Bộ Thương mại tham khảo ý kiến các Bộ hữu quan, xây dựng và trình Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng phê duyệt danh mục số lượng (hoặc trị giá) các mặt hàng xuất nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch cho từng thời kỳ. Bộ trưởng Bộ Thương mại có trách nhiệm công bố danh mục nói trên. 3. Nguyên tắc và thủ tục phân bố hạn ngạch. Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước duy nhất có thẩm quyền phân bố hạn ngạch trực tiếp cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu bà phạm vi kinh doanh xuất nhập khẩu có bao gồm mặt hàng xin phân bổ hạn ngạch mới được xin hạn ngạch. Đối với hàng hoá xuất khẩu mà hạn ngạch do nước ngoài phân cho Việt Nam thì số lượng ( hoặc trị giá ) của mặt hàng cũng như thời hạn thực hiện hạn ngạch do Bộ Thương mại quyết định. Hạn ngạch về hàng hoá nhập khẩu để lắp ráp, gia công chế biến (như linh kiện điện tử, các bộ phận rời và phụ tùng xe máy, ô tô, phụ liệu thuốc lá) chỉ phân bổ cho các doanh nghiệp có cơ sở sản xuất và lắp ráp khi doanh nghiệp yêu cầu. Sau khi cân đối các yêu cầu về hạn ngạch cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ xét yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh ngiệp có nhu cầu sử dụng hạn ngạch gửi cho Bộ Thương mại đơn xin hạn ngạch theo mẫu quy định sẵn. Bộ Thương mại cấp phiếu hạn ngạch trong đó ghi số lượng (hoặc trị giá) mặt hàng, thời hạn thực hiện hạn ngạch. 4. Quản lý Nhà nước về hạn ngạch và nghĩa vụ của cả doanh nghiệp được phân bổ hạn ngạch. Bộ Thương mại có trách nhiệm phân bổ hạn ngạch công khai, đúng đói tượng theo tổng mức mà Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng đã phê duyệt. Bộ Thương mại có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện hạn ngạch đã cấp. Các doanh nghiệp khi xin giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến hàng phải xuất trình phiếu hạn ngạch (bản chính), trường hợp uỷ thác phải có thêm hợp đồng uỷ thác. Những doanh nghiệp đã được cấp hạn ngạch, nhưng không có khả năng thực hiện hoặc thực hiện không hết hạn ngạch phải báo cho Bộ Thương mại tối thiểu 3 tháng trước khi hạn ngạch hết hạn. Nghiêm cấm việc mua bán hạn ngạch. Mọi vi phạm những quy định trên tuỳ theo mức độ, Bộ Thương mại sẽ xử lý theo một hoặc những hình thức sau đây: Thu hồi phiếu hạn ngạch. Không phân bổ hạn ngạch cho năm tiếp theo. Thu hồi giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Kiến nghị các cơ quan chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự. Phần II Thực trạng và giải pháp trong phân bổ hạn ngạch. I. Thực trạng của việc phân bổ hạn ngạch ở nước ta. ở nước ta Bộ Thương mại là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi cấp hạn ngạch cho một doanh nghiệp nào đó. Có một số cách phân bổ hạn ngạch của Chính phủ khi phân bổ hạn ngạch cho một doanh nghiệp nào đó, liên quan đến phân bổ hạn ngạch là tiền thuê hạn ngạch. 1. Hạn ngạch nhập khẩu. Nếu hạn ngạch được bán trong các cuộc đấu giá cạnh tranh, khi đó giá cả của nó sẽ không vượt quá hiệu số (Pd-Pw) cho một đơn vị nhập khẩu. Tại bất kỳ một mức giá nào thấp hơn sẽ dư cầu về hạn ngạch vì mức rủi ro sẽ thấp hơn trong các cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Tại mức giá cân bằng toàn bộ thu nhập do bán các hạn ngạch nhập khẩu sẽ thuộc Chính phủ. Cách thứ 2 là Chính phủ giao toàn quyền phân phối các hạn ngạch nhập khẩu. Trong trường này những người nhận được hạn ngạch sẽ không phải bỏ ra bất cứ chi phí nào mà thu được lợi nhuận từ hạn ngạch tương ứng với tiền thuê hạn ngạch. Cách thứ 3 là có thể đòi hỏi các nhà nhập khẩu đưa ra những kế hoạch về sử dụng nguồn lực khi xin giấy phép nhập khẩu. Đơn giản nhất là phải điền vào các mẫu xin giấy phép gửi đến cơ quan có thẩm quyền và giải trình mục đích nhập khẩu, sau đó xếp hàng và chờ giải quyết theo thứ tự ưu tiên. Cũng có thể tìm ra những nhân viên có thể giải quyết cấp hạn ngạch và hối lộ họ. Phương pháp này rất tốn thời gian và không mang lại lợi ích cho nền kinh tế mà chỉ có lợi cho cá nhân vì khi có hạn ngạch nhập khẩu họ được hưởng không tiền thuê hạn ngạch đáng ra phải trả. Ví dụ: Về hạn ngạch xe máy, chỉ cần có được trong tay quota về hạn ngạch xe máy thì cho dù có bán lại hay nếu dùng để nhập xe máy rồi bán lại trong nước với giá cao hơn thì có thể thu được rất nhiều lợi nhuận vì vậy mà các cá nhân không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài luôn luôn tìm cách có được giấy phép quan trọng này bất chấp những quy định của Nhà nước. Một cách phân phối phức tạp hơn có thể làm lãng phí các nguồn lực là hạn ngạch nhập khẩu phân bổ trên cơ sở sản xuất nội địa hoặc khối lượng nhập khẩu năm trước. Khi đó sẽ xảy ra hiện tượng nâng cao năng lực sản xuất giả tạo nhiều hơn nhu cầu nhằm làm cơ sở để xin giấy phép nhập khẩu cho kỳ tới. Nếu hạn ngạch phân bổ căn cứ vào kim ngạch nhập khẩu năm trước thì sẽ dẫn tình trạng đổ xô vào nhập khẩu ngay từ đầu năm và điều đó gây ra chi phí dự trữ bổ sung. Sự chạy đua này cũng dẫn đến sự ưu tiên nhập khẩu từ những bạn hàng thương mại gần hơn về mặt địa lý và sẽ phải chịu những khoản phí tổn bổ sung do các hàng rào thương mại gần hơn về mặt địa lý và sẽ phải chịu những khoản phí tổn bổ sung do các hàng rào thương mại phân biệt đối xử. Với những cách phân bổ hạn ngạch nhập khẩu trên đây, các nhà nhập khẩu sẽ sẵn sàng chịu mọi phí tổn cần thiết để có được hạn ngạch nhập khẩu mà họ nhận thấy chi phí bỏ ra thấp hơn tiền thuê hạn ngạch. Với cách phân phối này một phần hoặc toàn bộ lợi ích sẽ phân tán trong những hoạt động không mang tính chất sản xuất trực tiếp làm tăng thiệt hại về phúc lợi do hạn chế thương mại. Đó là hạn ngạch nhập khẩu còn hạn ngạch xuất khẩu thì sao? Hiện nay ở nước ta việc phân bổ hạn ngạch xuất nhập khẩu chủ yếu vẫn thực hiện theo cơ chế xin cho. 1.1 Mặt hàng phân urêa. Bộ Thương mại chịu trách nhiệm điều hành nhập khẩu khoảng 1,46 triệu tấn (1996), 1,3 triệu tấn(1995), 1,479 triệu tấn(1997) theo nguyên tắc sau đây: Giao Tổng công ty vật tư nông nghiệp nhập 40% nhu cầu phần còn lại giao cho các doanh nghiệp có đủ điều kiẹen nhập khẩu, bảo đảm yêu cầu sản xuất của từng khu vực. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm thông báo cho Bộ Thương mại số lượng phân bón cần nhập từng mùa để Bộ Thương mại có cơ sở điều hành. 1.2 Mặt hàng xăng dầu(trừ dầu nhờn). Cơ chế quản lý nhập khẩu để đảm bảo nhập khẩu khoảng 5,4 triệu tấn (1996), 4,6 triệu tấn (1995) ,5,7 triệu tấn (1997) như sau : Tập trung 100% xăng dầu nhập khẩu qua các doanh nghiệp chuyên doanh trong đó có Tổng công ty xăng dầu nhập khẩu khoảng 60% nhu cầu. Hạn mức nhập khẩu giao một lần trong năm kế hoạch, sau 6 tháng sẽ xem xét và điều chỉnh. 1.3 Mặt hàng xi măng. Bộ Thương mại chịu trách nhiệm điều hành nhập khẩu khoảng 1,4 triệu tấn xi măng đen (1996), 1,2 triệu tấn (1995), 0,9,triệu tấn (1997)theo hướng giao Tổng công ty xi măng nhập khẩu 40% nhu cầu và giao phần còn lại cho doanh nghiệp có đủ đieèu kiện để trong 6 tháng đầu năm lượng xi măng nhập về đạt khoảng 60% nhập khẩu. Đối với clinker và nguyên liệu sản xuất xi măng Bộ Thương mại điều hành nhận kịp thời, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất. 1.4 Mặt hàng đường ăn. Bộ Thương mại chịu trách nhiệm điều hành nhập khẩu theo nguyên tắc Bàn với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để xác định nhu cầu và điều hành nhằm đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường đồng thời không ảnh đến sản xuất mía đường trong nước. Chỉ định một số doanh nghiệp có khả năng am hiểu thị trường để giao nhiệm vụ nhập khẩu phần lớn nhu cầu, phần còn lại giao cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện nhập bảo đảm nhu cầu tiêu dùng của từng khu vực. 1.5 Mặt hàng thép. Bộ công nghiệp bàn với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và thông báo cho Bộ Thương mại danh mục những chủng loại thép trong nước đã sản xuất đủ nhu cầu trên cơ sở đó Bộ Thương mại cho nhập những chủng loại trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu.Bộ Thương mại chịu trách nhiệm điều hành nhập khẩu theo nguyên tắc: Các loại thép trong nước chưa sản xuất được kể cả thép chuyen dùng và phôi thép được nhập đáp ứng đủ nhu cầu của các Bộ, ngành, các địa phương đảm bảo nhu cầu sản xuất, xây dựng và kinh doanh. Thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Công nghiệp xác định nhu cầu thép xây dựng thông dụng cần nhập khẩu; giao cho Tổng công ty thép nhập khẩu khoảng 40% nhu cầu thep xây dựng thông dụng và giao phần còn lại cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện nhập khẩu. Nhập 1995:1,116 triệu tấn Nhập 1996: 1,5 triệu tấn Nhập 1997 : 1,4 triệu tấn 2. Hạn ngạch xuất khẩu. Gần đây nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có một số giải pháp bán đấu giá hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may cho các doanh nghiệp trong nước. Việc phân bổ hạn ngạch theo cơ chế xin cho gây ra rất nhiều điều bất cập. ở nước ta chủ yếu có 2 mặt hàng xuất khẩu quản lý bằng hạn ngạch đó là gạo và hàng dệt may. Thực trạng của việc phân bổ hạn ngạch mặt hàng này như thế nào? Đó là một vấn đề gây ra rất nhiều tranh cãi, câu hỏi xoay quanh. 2.1 Mặt hàng gạo. a. Thực trạng. Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn 12-11-1998 bài viết của Phúc Tiến có đoạn: Cựu Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Thiết có lần kể một địa phương “hăm” đổ gạo xuống sân Bộ Thương mại nếu không được cấp quota. Việc phân chia hạn ngạch xuất khẩu gạo còn chưa hợp lý. Nước ta là một nước xuất khẩu gạo đứng vào hàng thứ ba trên thế giới sau Mỹ, Thái Lan. Vì vậy, vấn đề xuất khẩu gạo hàng năm ở các tỉnh thành nhiều lúa là vấn đề được quan tâm rất nhiều. Nhiều năm nay các tỉnh thành nhiều lúa này vẫn yêu cầu nhiều quota, nhiều đầu mối xuất khẩu gạo. Không chỉ có các tỉnh thành nhiều lúa mà còn có các tỉnh thành ít lúa hoặc không có hạt lúa nào nhưng có nhà máy, bến cảng và doanh nghiệp quen làm hàng xuất khẩu cũng yêu cầu cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo cho mình. Thậm chí có những địa phương, ngành không có cơ sở vật chất và doanh nghiệp không đạt yêu cầu cho xuất khẩu gạo song vẫn đòi hỏi phải được cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo. Trong khi đó có nhiều tỉnh thành, doanh nghiệp có nhiều lúa, có nhà máy, xí nghiệp có cơ sở vật chất thì lại không được cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo. Những tỉnh thành, doanh nghiệp dù không có nhiều lúa nhưng có cơ sở vật chất thì có thể bán ngay những hạn ngạch xuất khẩu đó cho các doanh nghiệp tỉnh thành khác với mức giá ”hợp lý”. Điều đó còn gây ra những hậu quả xấu hơn khi nhiều doanh nghiệp, tỉnh thành không có đủ điều kiện về cơ sở vật chất vẫn xuất khẩu gạo dẫn đến tình trạng dìm giá gạo xuất khẩu chung, nhiều đầu mối hàng chỉ bán gạo cho một nơi nên còn bị ép giá. Hay là có nhiều doanh nghiệp nắm quota nắm quyền làm đầu mối nhưng có nhà máy xay xát, không có kho bãi nên ký hợp đồng rồi mới chạy đi mua gạo làm xáo trộn giá cả. Tất cả những điều trên có ảnh hưởng rất xấu tới việc xuất khẩu gạo. Gạo nước ta vì chưa có khâu đánh bóng hạt gạo, tỷ lệ hạt gạo gẫy cao, độ dài còn chưa đạt tiêu chuẩn nên giá gạo xuất khẩu còn thấp. Khâu chế biến của chúng ta rất kém cộng với việc xuất khẩu gạo như trên làm cho giá cả lộn xộn, giá xuất khẩu bị dìm. Điều này gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp có khả năng, có cơ sở vật chất tốt mà không được nhận quota. Như vậy, xét cho cùng Nhà nước nên tiếp tục phân bổ quota theo kiểu xin cho hay phân bổ theo các phương thức khác? Nếu phân bổ quota thì làm sao cho công khai và công bằng. Tại cuộc thảo luận ngày 20-10 ở Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực bà Trần Ngọc Sương phó giám đốc nông trường Sông Hởu nêu đề nghị một cách rất hình tượng. Xét quota và đầu mối xuất khẩu gạo cũng phải chấm như là thi hoa hậu phải đạt đủ ba vòng : Vòng số 1: Sản lượng lúa. Vòng số 2: Năng lực nhà máy. Vòng số 3: Giá trị hàng hoá , thị trường xuất, người mua. (Hay như đại diện công ty Vinafood nhận xét : Không nên coi vấn đề sản lượng là điều kiện tiên quyết được quota xuất khẩu gạo. Đã có thị trường thì không nên phân chia biên giới hạt gạo). Còn ông Nguyễn Trung Tín, chủ tịch Hiệp hội lại cho rằng vẫn phải lưu ý tiêu chuẩn sản lượng vì đó là lợi ích của các địa phương có lúa. Song ông vẫn đồng ý Nhà nước phải tính đến yếu tố hiệu quả kinh doanh thật sự trong phân chia đầu mối và và quota xuất khẩu gạo. Theo thống kê của Hiệp hội năm 1998 có đến 33 đầu mối xuất khẩu gạo, tăng 12 đầu mối so với năm trước. Song trong thực tế trong chín tháng đầu năm có năm đơn vị ngồi không chưa ký dược hợp đồng xuất khẩu nào. Còn lại số xuất khẩu trên 100.000 tấn chỉ có 9 đơn vị : Từ 50.000-100.000 : có 6 đơn vị. Từ 20.000-50.000: có 7 đơn vị. Dưới 20.000 : có 6 đơn vị. b. Giải pháp. Qua đây ta thấy rằng để thực sự xuất khẩu gạo có hiệu quả thì khi phân bổ quota cần phải căn cứ vào cơ sỏ vật chất (có đủ nhà máy, bến cảng, doanh nghiệp quen làm hàng xuất khẩu, có sản lượng lúa cao) và phải căn cứ vào khả năng khi xuất khẩu gạo của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp đầu mối chưa đủ điều kiện thì nên đưa sang diện xuất khẩu không thường xuyên. Mặt khác Nhà nước cũng cần bổ sung các đầu mối xuất khẩu gạo đủ điều kiện làm đầu mối mới. Cụ thể hơn đối với một đầu mối xuất khẩu gạo phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh lương thực, có cơ sở chế biến và kho tàng đủ cho 15.000 tấn trở lên, đồng thời phải tham gia mua lúa ngay trong vụ thu hoạch và có thị trường và khách hàng ổn định. Các đầu mối này không chỉ được xuất khẩu gạo cho các đơn vị có quota trong tỉnh mình mà còn có thể xuất uỷ thác cho các đầu mối ở tỉnh khác. Chỉ có thế thì vấn đề xuất khẩu gạo mới có hiệu quả tránh được tình trạng “ ngồi mát ăn bát vàng”, kinh doanh tạm bợ chứ không đầu tư lâu dài. Về phân bổ quota Nhà nước cần bớt lại một số quota các dơn vị làm ăn thua lỗ hay xuất khẩu đạt hiệu quả thấp. Ngoài những biện pháp trên có một số doanh nghiệp lại cho rằng phải có thêm một cách phân bổ khác gần gũi với yếu tố thị trường hơn. ý tưởng vừa bán vừa đấu thầu quota được các thành viên và ban lãnh đạo Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực bàn đến và thảo luận. Trong các văn bản kiến nghị Hiệp hội đã đặt vấn đề Chính phủ thử nghiệm chia 80% quota gạo cho các đơn vị trung ương và tỉnh thành còn lại 20% đem bán cho tất cả các doanh nghiệp có khả năng trên cơ sở tham khảo ý kiến của Hiệp hội. Số tiền bán 20% quota xuất khẩu gạo sẽ được dùng hình thành “ Quỹ bảo hiểm xuất khẩu gạo”. Cũng có nhiều ý kiến chủ các doanh nghiệp khác như bà Trương Thị Thanh Hương giám đốc công ty lương thực An Giang cho rằng: Nên thử nghiệm đấu thầu từng phần chứ không phải bán quota từng phần, nên dành 60% quota dành cho các doanh nghiệp đầu mối, còn lại 40% dành cho các doanh nghiệp còn lại 40% dành cho các doanh nghiệp khác tham gia đấu thầu. Vấn đề bán hay đấu thầu quota xuất khẩu gạo mới chỉ được bàn đến còn khả năng đi vào hiện thực có khả thi hay không còn phải xem xét rất nhiều, Chính phủ sẽ là người quyết định cuối cùng. Tuy nhiên vấn đề này không phải không thể thực hiện được như mới đây Chính phủ đã cho thử nghiệm đấu thầu tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh về quota xuất khẩu hàng may mặc vào EU. Tất cả những giải pháp trên không nhằm chỉ mục đích công bằng trong kinh doanh mà còn qua đó góp phàn thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam phải hoạt động chuyên nghiệp hơn nhất là trên lĩnh vực xuất khẩu. Muốn vậy các Hiệp hội, doanh nghiệp phải có ý kiến đóng góp để hình thành những chính sách mới thích hợp. Nếu không sẽ làm lãng phí công sức của những người trồng lúa và vốn xã hội. 2.2 Mặt hàng dệt may. a. Những quy định chung về việc giao hạn ngạch dệt may xuất khẩu vào thị trường có quy định hạn ngạch. Việc giao hạn ngạch có thu phí được tiến hành theo nguyên tắc công khai, không phân biệt đối xử, khuyến khích xuất khẩu sản phẩm sử dụng nguyên liệu trong nước và xuất khẩu sang các thị trường không áp dụng hạn ngạch. Đối tượng được giao hạn ngạch là các doanh nghiệp sản xuất hàng đệt may đủ tiêu chuẩn làm hàng xuất khẩu, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có ngành hàng dệt may và đã thực hiện hạn ngạch năm trước. Căn cứ để giao hạn ngạch là số lương thực hiện năm trước của doanh nghiệp. Số lượng thực hiện được tính trên cơ sở số lượng giao chính thức, không tính hạn ngạch thưởng, điều chỉnh, bổ sung do yêu cầu đột xuất. Liên Bộ Thương mại - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ công nghiệp phân cấp cho Uỷ Ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0682.doc
Tài liệu liên quan