LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I
I/ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG.
1/ Định nghĩa cái chung và cái riêng
2/ Mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
3/ Một số kết luận có tính chất phương pháp luận
II/ TÍNH TẤT YẾU CỦA HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1/ Kinh tế thị trường
2/ Điều kiện hình thành kinh tế thị trường
3/ Tính tất yếu của hội nhập
PHẦN II
I/ THỰC TRẠNG KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM KHI BƯỚC VÀO HỘI NHẬP
1/ Kinh tế thị trường còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp
2/ Ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế quan liêu bao cấp
3/ Thị trường và cơ chế thị trường
II/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN THÚC ĐẨY XÃ HỘI VIỆT NAM KHI NỀN KINH TẾ BƯỚC VÀO HỘI NHẬP
1/ Một số yêu cầu chung khi bước vào hội nhập
2/ Một số biện pháp thúc đẩy phát triển và hội nhập
KẾT LUẬN
18 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển: Những yêu cầu chung và đặc điểm riêng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế quốc dân. Đặc biệt nhận được sự giảng dạy, hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo - giảng viên Nguyễn Hữu Bật (Bộ môn Triết học Mác - Lênin) tôi mạnh dạn viết bài tiểu luận với đề tài:
Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển: Những yêu cầu chung và đặc điểm riêng.
Bài tiểu luận này gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận
- Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong phép biện chứng duy vật - Cặp phạm trù cái chung và cái riêng.
- Tính tất yếu của hội nhập và phát triển trong giai đoạn hiện nay
Phần II: Cơ sở thực tiễn và giải pháp
- Thực trạng Kinh tế Xã hội Việt Nam khi bước vào hội nhập
- Một số biện pháp góp phần thúc đẩy Xã hội Việt Nam khi nền kinh tế bước vào hội nhập
Phần III: Kết luận
- Khái quát bài viết và ý nghĩa
Vì đây là bài tiểu luận đầu tiên nên chắc chắn vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để bài tiểu luận lần sau của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Phần I:
I/ cái chung và cái riêng theo quan điểm của các nhà triết học duy vật biện chứng.
1/ định nghĩa cái chung và cái riêng
a/ Định nghĩa cái riêng
Cái riêng là một phạm trù triết học để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Chẳng hạn một hiện tượng kinh tế một giai đoạn xã hội, một con người
b/ Định nghĩa cái chung
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ, tồn tại không chỉ ở một sự vật mà trong nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn, phạm trù triết học Mác-xít về vật chất vận động, không gian, thời gian
2/ mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Phạm trù cái riêng và cái chung đã được bàn đến nhiều trong triết học phương Tây thời trung cổ. Phái duy thực đồng nhất Thượng đế với cái chung (phổ biến) và nhấn mạnh rằng: Chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập, khách quan, là cội nguồn sản sinh ra cái riêng.
Đối lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh như Đun-xcốt (1265-1308), P.Abơla (1079-1142) lại cho rằng chỉ có những sự vật, hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có thực; còn các khái niệm chung (cái phổ biến) là sản phẩm tư duy của con người. Mặc dù có một số hạn chế, chủ nghĩa duy danh có một cái nhìn duy vật về toàn bộ hiện thực.
Khắc phục nhược điểm của chủ nghĩa duy danh, tách biệt cái riêng khỏi cái chung một cách trừu tượng và tuyệt đối; chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng giữa cái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chúng là hai mặt đối lập tồn tại trong bản thân một sự vật, hiện tượng bất kì và tồn tại một cách khách quan.
Mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
2.1/ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Không có cái riêng cô lập tuyệt đối, bất kì cái riêng nào cũng vừa liên hệ với cái riêng khác, vừa liên hệ với cái chung sự liên hệ trên mới thoạt nhìn mang tính chất song trùng, nhưng thực chất chỉ là một, vì cái chung-xét cho cùng là- sản phẩm được rút ra từ sự khái quát hoá những phẩm chất của những cái riêng cùng loại.
Chẳng hạn khi khảo sát hiện tượng khủng hoảng kinh tế trong một nước nhất định, chúng ta có thể thấy được những đường nét riêng như: những hoàn cảnh địa lý đặc thù, tình trạng kinh tế của nước đó khi bắt đầu khủng hoảng, các quan hệ xã hội-chính trị khác nhauĐây là những yếu tố riêng biệt. Song đằng sau tất cả những cái riêng đó và những cái chung mang tính quy luật của hiện tượng khủng hoảng kinh tế như tính chu kì, hiện tượng thất nghiệp, các giai đoạn chuyển biến theo hình sóng
2.2/ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập ở đâu đó. Cái chung chỉ tồn tại trong từng cái riêng. Trở lại ví dụ nêu trên ta có thể thấy không tồn tại hiện tượng khủng hoảng kinh tế với những dấu hiệu chung mà bao giờ hiện tượng này cũng chỉ được nhìn thấy qua các cuộc khủng hoảng kinh tế tại những thời điểm và không gian xác định.
Phép biện chứng của cái chung và cái riêng nói trên có thể thấy rõ trong vấn đề lợi ích kinh tế.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, lợi ích kinh tế phải được thể hiện qua lợi ích của từng thành phần kinh tế với những hình thức sở hữu khác nhau, đối lập nhau.Vì vậy phải làm thế nào để vừa bảo đảm lợi ích chung của toàn dân, vừa không rơi vào tình trạng triệt tiêu mọi lợi ích chính đáng của từng công dân.
2.3/ Cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn bộ. Thật vậy cái chung chiếm giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật. Còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thựcthể hoàn chỉnh và sống động. Cái riêng tồn tại trong sự “va chạm” với những cái riêng khác. Sự va chạm này vừa làm cho các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, với tư cách là một bộ phận-tồn tại trong cái chung, vừa làm cho chúng xa nhau bởi cái đơn nhất không lặp lại trong các sự vật khác.
Như vậy cái chung và cái đơn nhất cùng tồn tại trong cái riêng, làm phong phú và sâu sắc cho cái riêng.
2.4/ Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau. Đây là chuyển hoá của các mặt đối lập trong một sự vật. Sự chuyển hoá này phản ánh quá trình vận động đa dạng của các kết cấu vật chất trong thế giới.
Quá trình chuyển hoá cái đơn nhất thành cái chung thể hiện quá trình phát triển biện chứng của sự vật. Ngược lại sự chuyển hoá cái chung thành cái đơn nhất chỉ ra sự thoái bộ của một sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại của chúng.
3/ Một số kết luận có tính chất phương pháp luận
3.1/ Không có cái chung tồn tại cô lập mà nó tồn tại trong cái riêng; nói cách khác, thông qua cái riêng mà cái chung biểu hiện sự tồn tại của mình. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này là trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, để phát hiện ra cái chung cần phải thông qua những cái riêng.
Mặt khác nói cái chung tồn tại như một bộ phận của cái riêng. Thì phải thấy rằng khi áp dụng cái chung vào từng trường hợp riêng thì cần phải cá biệt hoá nó.
Hiện tượng cá biệt hoá cái chung vào từng trường hợp riêng thường thấy xuất hiện trong lĩnh vực kinh tế, chẳng hạn, lý thuyết về quản lí kinh tế (vi mô và vĩ mô) đã được xây dựng từ lâu ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Song điều đó không đảm bảo chắc chắn sự thành công, nếu như chúng ta áp dụng nguyên chúng vào thực tiễn kinh tế nước ta mà không có sự điều chỉnh, cải biến cho phù hợp với những đặc thù ở Việt Nam.
3.2/ Từ phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng nêu trên, có thể rút ra kết luận rằng: khi giải quyết các vấn đề riêng trong thực tế, cần phải đặt nền tảng trên những nguyên tắc chung. Nói cách khác không được lẩn tránh các vấn đề chung khi bắt tay giải quyết các vấn đề riêng. Nếu không sẽ rơi vào tình trạng dò dẫm và vô nguyên tắc.
3.3/ Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hoá giữa cái riêng (đơn nhất) và cái chung. Việc tạo điều kiện cần thiết để nhanh chóng phổ biến những hiện tượng hợp quy luật, hoặc triệt tiêu những điều kiện làm kéo dài những nhân tố không phù hợp, trì trệ có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự phát triển.
Ii/ Tính tất yếu của hội nhập và phát triển trong giai đoạn hiện nay
- Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế thị trường do vậy để tiến hành hội nhập chúng cần phải hiểu được kinh tế thị trường là gì và điều kiện hình thành cơ chế thị trường?
1/ kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển đồng nghĩa với phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ, phạm vi thị trường được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra mà còn bao gồm yếu tố đầu vào. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường.
2/ điều kiện hình thành kinh tế thị trường
Điều kiện cơ bản để hình thành kinh tế thị trường là phải có một nền kinh tế hàng hoá phát triển cùng với sự xuất hiện của một số điều kiện sau:
Một là, sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Hàng hoá sức lao động là loại hàng hoá đặc biệt, khác hẳn so với hàng hoá thông thường bởi ngoài thời gian lao động cần thiết còn có thời gian lao động thặng dư. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng suất xã hội nâng cao thì sức lao động trở thành đối tượng của quan hệ mua bán, kéo theo sự ra đời thị trường sức lao động, và thị trường yếu tố sản xuất.
Hai là, phải tích luỹ được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận.
Ba là, phải có hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng tương đối phát triển đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh.
Bốn là, phải có hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, đảm bảo cho lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, tăng phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi.
Năm là, tăng cường vai trò kinh tế nhà nước nhằm tạo ra môi trường và hành lang pháp lí cho thị trường phát triển lành mạnh, mở rộng hình thức kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh, thực hiện chính sách phân phối và điều tiết trên cơ sở kết hợp nguyên tắc công bằng xã hội và hiệu quả kinh tế, phát huy ưu thế và hạn chế những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
3/ tính tất yếu của hội nhập
Chính vì nền kinh tế của nước ta đã đạt được tất cả các điều kiện để hình thành kinh tế thị trường mà kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở do đó để phát triển mở rộng chúng ta bắt buộc phải hội nhập. Khi hội nhập nền kinh tế của chúng ta sẽ hoà nhập với rất nhiều các nền kinh tế của các nước. Thị trường của chúng ta sẽ rất rộng, không chỉ trong nước mà ra toàn thế giới, các thành phần kinh tế của chúng ta sẽ đa dạng phong phú đúng như chủ trương của Đảng là xây dựng một nền kinh tế đất nước đa dạng nhiều thành phần. Chúng ta sẽ có cơ hội học hỏi và giao lưu với tất cả các nước trên thế giới. Nói chung khi bước vào hội nhập chúng ta sẽ đạt được nhiều thành tựu mà bản thân nền kinh tế trong nước không tự đáp ứng được.
Phần II
I/ Thực trạng Kinh tế Xã hội Việt Nam khi bước vào hội nhập
1/ Kinh tế thị trường còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp
Trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn rất thấp kém.
Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế trong nước và chưa có khả năng giao lưu với thị trường quốc tế.
Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối kém hiệu quả. Từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế nhỏ nên đặc trưng nước ta là kinh tế nông nghiệp.
Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đang được hình thành và phát triển. Chúng ta đã từng bước có thị trường hàng hoá nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường. Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động. Trong khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế, chưa có thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
Năng suất lao động xã hội còn thấp và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp.
2/ ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế quan liêu bao cấp
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cho nên trong nhiều thập kỉ qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế quan liêu tập trung bao cấp. Thực tiễn hoạt đông kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm.
Về quan hệ tổ chức hành chính, đó là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng lại được điều hành bởi nhiều đầu mối khác nhau. Kiểu quản lý như vậy mang tính chất phân tán.
Về quan hệ kinh tế, cơ chế tập trung quan liêu thể hiện quan hệ giao nộp, thu mua, cấp phát. Hậu quả của nó hết sức nặng nề:
+ Làm mất sức mạnh của tổ chức kinh tế Nhà nước.
+ Suy yếu tính sáng tạo, lãng phí gây thất thoát tài sản quốc gia.
+ Cản trở mục tiêu ổn định, cải thiện đời sống phát triển sản xuất.
Tuy nhiên trong một vài năm trở lại đây nền kinh tế của chúng ta đã dần chuyển sang nền kinh tế thị trường và ngày càng phát triển mạnh, và cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường. Nhưng hiện tại vẫn còn rất nhiều điều cần phải sửa đổi và bổ sung trước khi bước vào hội nhập.
3/ thị trường và cơ chế thị trường
a/ Thị trường
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường tuy nhiên có thể hiểu theo nghĩa đầy đủ thì nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới, tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng lưu thông trên thị trường, hình thành các quan hệ hàng hoá-tiền tệ, cung-cầu, và giá cả hàng hoá.
b/ Cơ chế thị trường
Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường.
Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế thị trường. Có thể xem xét một vài khái niệm sau:
“Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ môi trường, động lực và quan hệ chi phối sự vận động của thị trường.”
“Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chí và hành động của người sản xuất và người tiêu dùng,người bán và người mua thông qua thị trường và giá cả.”
Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện: Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của hàng hoá, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thị trường. Ngoài giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của quy luật hàng hoá.
Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện:
Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường và ngược lại. Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa người bán và người mua cũng như quan hệ của người sản xuất và người tiêu dùng. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua và bán. Giá cả thị trường điều hoà được quan hệ giữa người mua và người bán.
Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, qui luật giá trị có tác dụng điều tiết sản suất và lưu thông hàng hoá.
Điều tiết sản xuất hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Điều này tạo ra động lực kinh tế thúc đẩy người sản xuất hàng hoá khai thác những khả năng tiềm tàng, tranh thủ giá cao, mở rộng quan hệ sản xuất và ngược lại.
Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mác, những nhà kinh doanh dưới chủ nghĩa tư bản “Ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì thế giới tự nhiên chân không.”
Ưu điểm của cơ chế thị trường:
Một là, kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn lao động chi phí xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ.
Hai là, cơ chế thị trường có tính năng động do trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được nhiều lợi nhuận nhất.
Ba là, trong nền kinh tế thị trưòng, hàng hoá rất phong phú và đa dạng. Do vậy, nó có thể đáp ứng mọi nhu cầu của người tiêu dùng.
Những nhược điểm mà bản thân cơ chế thị trường không tự giải quyết được.
Căn bệnh nổi bật gắn liền với sự hoạt động của cơ chế thị trường: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, phân hoá giàu nghèo và ô nhiễm môi trường.
Khủng hoảng thường là căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường phát triển. Do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầu nên dẫn tới tình trạng "dư thừa hàng hoá”. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn mâu thuẫn với sức mua có hạn. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Một khuyết tật khác của cơ chế thị truờng là gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn do chạy theo mục đích lợi nhuận.
Tóm lại, cơ chế thị trường có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, chi phối sự vận động của kinh tế thị trường nhưng các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình, cho nên sự vận động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột. Cạnh tranh khó tránh khỏi lừa gạt, phá sản và thất nghiệpVì vậy, cần có sự kiểm tra của xã hội, đó là lý do cần thiết lập vai trò quản lý của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế của nước ta là hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự công bằng và làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng, phát triển với tốc độ cao.
Ii/ Một số biện pháp góp phần thúc đẩy Xã hội Việt Nam khi nền kinh tế bước vào hội nhập
1/ Một số yêu cầu chung khi bước vào hội nhập
Để nền kinh tế của nước ta bước vào hội nhập. Chúng ta cần phải có những yêu cầu sau:
Thứ nhất: Lấy sự phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại làm cơ sở vật chất-kĩ thuật nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ hai: Lấy nền kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế làm cơ sơ kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước làm chủ đạo.
Thứ ba: Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc phân phối theo kiểu CNXH với phân phối theo kiểu kinh tế thị trường. Trong đó, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua phúc lợi tập thể và xã hội làm chủ đạo.
Thứ tư: Lấy cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước làm cơ chế vận hành, nhưng không phải là Nhà nước tư sản mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa-Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thứ năm: Kết hợp hài hoà văn hoá dân tộc truyền thống với văn hoá hiện đại có chọn lọc. Trong đó, lấy văn hoá dân tộc làm gốc.
Thứ sáu: Không dựa trên cơ cấu kinh tế khép kín, mà dựa trên cơ cấu kinh tế mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, song phải đảm bảo độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
2/ Một số biện pháp thúc đẩy phát triển và hội nhập
a/ Tạo lập, duy trì và pháp triển tự do hoá kinh tế
Đây là một điều kiện có tầm quan trọng đến sự hình thành, tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Tự do hoá kinh tế là một điều kiện tất yếu để sản sinh và nuôi dưỡng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ, rất cần thiết cho các chủ doanh nghiệp với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ.
Tương ứng với điều kiện này, các giải pháp cần có là:
- Tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nền kinh tế đa dạng hoá về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Có chính sách và cơ chế đủ sức xoá bỏ nhanh chóng sự kỳ thị và phân biệt đối xử, thực hiện khuyến khích đầu tư và tôn vinh vai trò của các doanh nhân trong tất cả các thành phần kinh tế.
- Trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế, tiếp tục xây dựng phát triển đồng bộ các loại thị trường. Cụ thể :
+ Phát triển đồng bộ giữa thị trương đầu ra (thị trường hoá, dịch vụ) với thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất. Chú trọng sự đồng bộ về chất lượng trong nội bộ của từng thị trường đầu ra và đầu vào của sản xuất, trong đó, lấy thị trường đầu ra để quyết định thị trường đầu vào.
+ Thực hiện đồng bộ giữa thị trường trong nước với thị trường ngoài nước, trong đó lấy thị trường trong nước làm cơ sở, thị trường ngoài nước là quan trọng. Coi trọng việc phát triển thị trường nông thôn ở nước ta, một thị trường rộng lớn với gần 80% dân cư sinh sống, nhưng sức mua hiện tại còn rất thấp, một cản trở đối với ngành công nghiệp và các ngành khác. Trong thời gian tới cần thông qua việc phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn để tăng sức mua của thị trường này.
- Tạo dựng môi trường chính trị kinh tế, xã hội tương đối ổn định và thông thoáng để các chủ thể kinh tế trong nước và ngoài nước yên tâm, phấn khởi đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Môi trường chính trị tương đối ổn định bao gồm:
Đường lối chính trị đúng đắn và ổn định.
Đất nước yên bình
Bộ máy chính phủ có uy tín đối với các chủ doanh nghiệp và dân cư.
- Môi trường kinh tế tương đối ổn định thể hiện trước hết ở chính sách tài chính và chính sách tiền tệ:
+ Về chính sách tài chính: Ngân sách nhà nước với tư cách là nguồn lực và lớn nhất phải lành mạnh, không bội chi vượt quá mức Quốc hội cho phép; có một chính sách thuế thích hợp vừa thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, vừa tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước, giảm tình trạng thất thu và kinh tế “ngầm”.
+ Về chính sách tiền tệ và giá cả, khống chế và kiểm soát lạm phát, giữ vững tương đối giá trị và sức mua của tiền tệ, ổn định tương đối giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
+ Về môi trường xã hội tương đối ổn định phải là môi trường xã hội mà ở đó con người sống và làm theo pháp luật, sống có văn hoá có hoài bão và lành mạnh.
b/ Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, một điều kiện cho sự phát triển và hội nhập
Một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được gọi là định hình khi nó đạt trình độ kinh tế thị trường hỗn hợp hay hiện đại, ngang với trình độ các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền kinh tế như vậy chỉ có thể dựa trên cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, tương ứng với trình độ văn minh có sự giao thoa giữa văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Với tư cách là một điều kiện của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ sở vật chất kĩ thuật đó phải được thực hiện thông qua khi sự nghiệp CNH, HĐH thành công ở nước ta.
c/ Tạo dựng hành lang và cơ chế bảo đảm
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong các ngành, các cấp, hệ thống các trường và các tổ chức kinh tế. Thông qua giáo dục học tập cho tất cả các tổ chức nói trên về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là nền tảng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và sự cần thiết phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế thị trường.
+ Củng cố và tăng cường năng lực và hiệu lực của Quốc hội, ban hành các luật pháp còn thiếu, điều chỉnh bổ sung và hoàn thiện các luật pháp đã có sao cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và tính đến sự phù hợp với thông lệ quốc tế, trên cơ sở quyền lực thống nhất, cần tăng cường tính độc lập tương đối và năng lực của các cơ quan tư pháp trong xử lí nghiêm minh và kịp thời những vi phạm pháp luật đối với các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và dân cư.
+ Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách đa dạng hoá về sở hữu và thành phần kinh tế, tăng cường vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước nắm những khâu, ngành then chốt trọng yếu, tạo thực lực kinh tế để Nhà nước điều tiết tính tự phát của kinh tế thị trường, thực sự gương mẫu chấp hành luật pháp, hỗ trợ và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
d/ Tạo lập bộ máy nhà nước vững mạnh
Có thể quan niệm sự vững mạnh của nhà nước qua các tiêu chuẩn sau: Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích dân tộc. Trong sạch về phẩm chất đạo đức; Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; Có năng lực chuyên môn, có uy tín đối với chủ doanh nghiệp và nhân dân trong việc thực hiện tốt chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế thị trường.
Tính hiện thực của các tiêu chuẩn nói trên sẽ được thực hiện qua các giải pháp như: Giáo dục rèn luyện; Trong nâng cấp, nâng bậc công chức ngoài tiêu chuẩn năng lực cần đưa thêm tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức, liêm chính, chí công vô tư để tuyển loại cán bộ viên chức. Đẩy nhanh nhịp độ cải cách hành chính Nhà nước và từng bước đưa kết quả của cải cách hành chính Nhà nước vào cuộc sống.
Kết luận
Mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã và đang đem lại những thành tựu đáng kể, cải thiện đời sống nhân dân, từng bức tạo điều kiện rất thuận lợi cho hội nhập kinh tế thế giới. Chúng ta dần khắc phục được những nhược điểm của kinh tế thị trường, tăng cường ảnh hưởng tích cực đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội.
Để ngày càng thu được những thành công to lớn nhằm nâng cao đời sống dân cư và vị thế của kinh tế nước ta trong khu vực và trên thế giới, trong tiến trình hội nhập kinh tế đòi hỏi không chỉ có sự cố gắng nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta mà còn cần có một lý luận sắc bén về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế. Đó chính là vai trò lý luận Mac- Lênin về kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự hội nhập và vận dụng nó ở Việt Nam.
Như vậy, một lần nữa có thể khẳng định được rằng các lý luận của chủ nghĩa Mac-lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng nó vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực sự có vai trò quan trọng, cần được tuân thủ và áp dụng một cách linh hoạt vào thị trường Việt Nam, đảm bảo cho nền kinh tế nước ta đạt được những thành công mong đợi, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên Chủ nghĩa Xã Hội.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình triết học Mác-Lênin.
Giáo trình kinh tế chính trị.
Tạp chí kinh tế và phát triển.
Tạp ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0180.doc