Xây dựng tài liệu huấn luyện tu sĩ thừa sai ở Việt Nam

Tình trạng đầu tiên là nhà thừa sai đến những nơi mà con người ở đó chưa được nghe Tin Mừng cách minh nhiên hoặc ở đó chưa có cộng đoàn người Ki-tô hữu. Cụ thể ở Việt Nam ta thấy có những người dân tộc ở miềm Bắc, hoặc người Kinh ở các vùng miền Tây. Chính những nơi này đang cần rất nhiều sự hiện diện của nhà thừa sai. Sau đây, chúng ta bàn đến quá trình đem Tin Mừng cho họ. Quá trình này trải qua nhiều giai đoạn: Thời gian tiền rao giảng, loan báo Tin Mừng, dạy giáo lý, xây dựng Giáo Hội địa phương và đào tạo đội ngũ truyền giáo.

docx65 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1729 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xây dựng tài liệu huấn luyện tu sĩ thừa sai ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cần lưu ý: trong quá trình đối thoại không nên loại bỏ các nguyên tắc, cũng không nên chủ trương hòa bình giả tạo, nhưng ngược lại, phải có sự làm chứng, vừa cho vừa nhận để cùng nhau tiến bước trên con đường tìm hiểu và kinh nghiệm tôn giáo, và đồng thời nhờ sự làm chứng đó mà loại bỏ được tiên kiến, bất bao dung và những sự hiểu lầm. Như vậy trong khi đối thoại với tư cách đang thực hiện sứ vụ truyền giáo, nhà thừa sai phải trung thành với truyền thống và những xác tín tôn giáo của mình, đồng thời có thái độ cởi mở đối với truyền thống và xác tín của các tôn giáo khác. Việc đối thoại phát xuất từ thán độ tôn trọng sâu xa đối với tất cả những gì mà Thánh Thần, Ðấng "muốn thổi đâu tùy ý" đã hoạt động nơi con người và nơi các truyền thống của nhân loại. Trên đây là những nguyên tắc và mục đích của việc đối thoại và sau đây là các hình thức đối thoại mà nhà thừa sai có thể biểu hiện, dĩ nhiên việc chọn lựa theo hình thức nào còn tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của môi trường. q       Trước hết la đối thoại trong đời sống, đó là nổ lực sống với tinh thần cởi mở và thân thiết, chia sẻ những nổi ưu buồn, những vấn nạn và lo âu của cuộc sống con người. q       Ðối thoại bằng hành động: hợp tác với nhau để đi đến công cuộc phát triển toàn diện và giải phóng hoàn toàn con người. q       Ðối thoại trong những trao đổi có tính cách thần học: các nhà chuyên môn tìm cách đào sâu kiến thức về các gia sản tôn giáo của nhau và thẩm định các giá trị siêu nhiên nơi các tôn giáo bạn. q       Ðối thoại bằng kinh nghiệm tôn giáo: bắt nguồn trong chính truyền thống tôn giáo của mình, chia sẻ những giá trị siêu nhiên phong phú của mình, chẳng hạn những giá trị liên quan đến cầu nguyện và chiêm niệm, đến đức tin và con đường tìm đến Thiên Chúa hoặc Ðấng tuyệt đối. q       Ðối thoại có tính liên kết: các hình thức đối thoại luôn phụ thuộc lẫn nhau và dưới nhiều hình thức văn hóa và tôn giáo luôn liên kết với nhau. q       Cuối cùng là đối thoại trong chính nội tại: quá trình nhờ đó người tin đánh giá đức tin của tôn giáo mình dưới ánh sáng văn hóa. Vì tôn giáo tiêu biểu cho chiều kích siêu việt của văn hóa. II. NỘI DUNG TIN MỪNG Trong sứ điệp mà Giáo Hội loan báo chắc chắn có nhiều yếu tố chính yếu và phụ thuộc. Việc trình bày những nội dung phụ thuộc thay đổi phụ thuộc rất nhiều vào những hoàn cảnh, còn nội dung chính yếu thì không thể sánh đôi hay pha trộn. Ðó là sự công bố minh nhiên rằng: Ðức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người, chịu chết và phục sinh, ơn cứu độ được ban cho mọi người. Nơi Ðức Giê-su Ki-tô, Nước Thiên Chúa được thể hiện. 1. Mầu nhiệm Ðức Giê-su Ki-tô Mục đích của việc loan báo Tin Mừng là đưa mọi người đến việc hoán cải và tin vào Ðức Ki-tô-Tin Mừng cứu độ. Biến cố cứu chuộc là nền tảng ơn cứu độ của tất cả mọi người, " Bởi vì mọi người được đưa vào mầu nhiệm cứu độ, và qua mầu nhiệm này, Ðức Ki-tô luôn luôn kết hợp với từng người"[48]. Thánh Gioan đã khẳng định: " Không ai có thể đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy"[49]. Chính Ðức Ki-tô là Ðấng cứu độ duy nhất của mọi người trong mọi thời. Như thánh Phê-rô đã mạnh dạn tuyên bố: " Ðấng mà qúy vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Ðấng ấy và chúng ta phải nhờ vào Danh đó mới được cứu độ"[50]. Trong bối cảnh châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, một dân tộc chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi các tôn giáo lâu đời như Phật, Lão, Khổng, thì vai trò Chúa Giê-su là Ðấng cứu độ duy nhất không dễ dàng được người Việt Nam đón nhận. Hơn nữa, ngày nay ý thức hệ " tương đối hóa" đã xâm nhập vào tâm thức người Việt Nam, cho nên họ không dễ dàng chấp nhận tính tuyệt đối hóa của một tôn giáo nào. Dứng trước hoàn cảnh này, nhà thừa sai phải nắm vững mầu nhiệm ơn cứu độ có tính duy nhất và phổ quát được thể hiện nơi Chúa Ki-tô. Nếu không thì dễ có nguy cơ viện vào lý do hòa đồng tôn giáo rồi nhượng bộ hay đánh mất căn tính của ơn cứu độ. Nhưng mặt khác nếu quá cứng nhắc, bảo thủ thì không thể đối thoại với các tôn giáo khác. Ðiểm đáng chú ý đối với nhà thừa sai đó là trong thời đại công nghiệp này họ phải trình bày cho người khác về một Ðức Ki-tô sống động qua cách nói nămg nà hành động của Người, chứ đừng qúa chú trọng đến giáo điều, vấn đề Ngôi vị với hai bản tính. Bởi vì lối trình bày đó chỉ phù hợp với não trạng con người Phương tây do ảnh hưởng bởi thuyết nhị nguyên và triết học về hữu thể. Ðức Ki-tô phải đóng vai trò vị Trung gian duy nhất phổ quát như Kinh Thánh đã ghi " Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Ðưc Giê-su Ki-tô, Ðấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người"[51]. Như vậy vai trò trung gian của Ðức Ki-tô là duy nhất và phổ quát, nhưng không loại trừ các thứ loại và cấp bậc trung gian khác. Tuy nhiên những trung gian này chỉ có thể có ý nghĩa và giá trị do từ trung gian duy nhất của Ðức Ki-tô, và những trung gian đó không thể được coi là đồng hành, ngang bằng hoặc bổ túc cho trung gian của Ðức Ki-tô( Rm5). 2. Mầu nhiệm cứu độ  Ðề tài " Cứu độ" không chỉ được nhấn mạnh, nổi bật trong Ki-tô giáo mà còn được bàn bạc nơi các tôn giáo khác thể hiện bằng nhiều từ ngữ khác nhau như: giải phóng, giải thoát, cứu rỗi. Vì thế để biện phân và đối thoại với các tôn giáo khác, nhà thừa sai phải hiểu đúng và trình bày cách trung thực. Theo Ki-tô giáo, Thiên Chúa yêu thương muốn cứu độ mọi người không phân biệt ngôn ngữ, dân tộc, màu da. Ý định cứu độ dược thực hiện nơi Ðức Ki-tô, Ngài đã chịu chết để hòa giải mọi người với Chúa Cha. Như vậy vấn đề đặt ra là nơi các tôn giáo không phải là Ki-tô giáo có hàm chứa giá trị cứu độ không? Các tôn giáo có phải là những trung gian của ơn cứu độ cho các tín đồ của mình không? Ðể trả lời cho các câu hỏi trên, thiết nghĩ trước hết nhà thừa sai phải xác định rõ ý nghĩa và bản chất của ơn cứu độ trong Ki-tô giáo và các tôn giào lớn ở Việt Nam. Ðối với Ki-tô giáo, mầu nhiệm cứu độ được thể hiện nơi Ðức Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người, chịu chết và sống lại để cứu độ mọi người, đó là tặng phẩm của ân sủng và lòng yêu thương của Thiên Chúa. Ðấng không phải là thứ cứu độ nội tại, chỉ thoả mãn những nhu cầu vật chất hay tinh thần ở trong khuôn khổ cuộc sống trần thế, nhưng là ơn cứu độ vượt qua mọi giới hạn đó để được hiệp thông với Ðấng duy nhất Tuyệt đối là Thiên Chúa: ơn cứu độ mang tính siêu việt đã bắt đầu ở đời này, nhưng được hoàn thành trong vĩnh cữu. Hồng ân cứu độ do Thiên Chúa ban cách nhưng không xuất phát từ lòng yêu thương của Người và loài người chỉ cộng tác qua việc mở lòng đón nhận bằng đức tin. Ðối với Phật giáo, ơn cứu độ là ở quan niệm hoàn toàn khác. Theo lý thuyết của Phật học, mọi sự đau khổ đều do Tâm Trí sai lầm mà ra. Vì thế để giải thoát khỏi đau khổ, thì con người phải giác ngộ biết thật về bản tính con người và vũ trụ. Như vậy con người giải thoát của Phật giáo là một cố gắng vĩ đại của sức lực con người để tìm cách tự cứu lấy mình. Phật Thích Ca không phải là đấng cứu độ. Khi bàn đến trung gian ơn cứu độ nơi các tôn giáo, lập trường các nhà thàn học được liệt kê thành ba lập trường: Bao hàm thuyết, Ða nguyên thuyết và Chấp nhất thuyết. Học thuyết " Bao hàm thuyết" lấy Ðức Ki-tô làm làm tâm điểm, nó chấp nhận lấy ơn cứu độ có thể xảy ra trong các tôn giáo nhưng lại từ chối một sự đối lập tự túc về ơn cứu độ này nơi các tôn giáo, vì phải dựa vào duy nhất và phổ quát tính của ơn cứu độ đến từ Chúa Giê-su Ki-tô.[52] Còn học  thuyết " Ða nguyên thuyết" lấy Thiên Chúa làm trọng điểm và chủ trương nhìn nhận những ngồn phong phú của các tôn giáo và chứng tá đạo đức của cá tín đồ, các tôn giáo này tạo điều kiện thuận lợi cho việc đoàn kết cho tất cả các tôn giáo để cùng nhau xây dựng hòa bình và công lý trên thế giới. Như vậy giá trị các tôn giáo ở ngay trong sự kiện cổ võ Nước trời, Sự cứu độ và cuộc sống an lành của nhân loại. Vì thế lập trường này mang tính duy thực hiện và duy thực tại. Học thuyết " Chấp nhất thuyết" hình thành do sự hiểu lầm câu " ngoài Hội Thánh không có ơn cứu độ", đã khẳng định lấy Hội Thánh làm trung tâm rồi khước từ mọi tôn giáo khác. Lập trường này không được các nhà thần học Công Giáo chấp nhận. Tóm lại khi bàn đến giá trị cứu độ nơi các tôn giáo khác, nhà thừa sai phải có cái nhìn thần học Ki-tô giáo để soi vào các tôn giáo ấy. Ðồng thời luôn luôn phải dựa trên những nền tảng căn bản: Chỉ trong Ðức Giê-su Ki-tô con người mới được cứu độ trọn vẹn và Thiên Chúa luôn luôn muốn cho con người được cứu độ. 3. Mầu nhiệm nước Thiên Chúa Nét chính yếu trong sứ điệp Tin Mừng của Chúa Giê-su khi Ngài rao giảng công khai là Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. " Nước Thiên Chúa đã đến gần, anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng"[53]. Vì thế nội dung rao giảng của nhà thừa sai phải làm nổi bật  đặc tính Nước Thiên Chúa với nhiều khía cạnh phong phú của nó. Trước hết ngày nay có nhiều tư tưởng đã hoặc hiểu sai về bản chất Nước Thiên Chúa hoặc muốn giản lược Nước Thiên Chúa vào một bình diện xã hội. Có khuynh hướng nghĩ rằng Nước Thiên Chúa là triệu đại đáp ứng những nhu cầu trần thế của nhân loại và binh vào đấu tranh cho quyền lợi của người nghèo trên phương diện xã hội. Khuynh hướng này không đề cập đến giá trị siêu việt của Nước Thiên Chúa. Tiếp đến là khuynh hướng khẳng định sự độc lập của Nước Thiên Chúa không chấp nhận Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa quy hướng về Chúa Ki-tô và Giáo Hội. Lập trường này đề cao mầu nhiệm tạo dựng ẩn trong các nền văn hóa mà không màng gì đến mầu nhiệm cứu chuộc. Quan niệm này đã gạt Giáo Hội ra ngoài hoặc đánh giá thấp Giáo Hội, chỉ nhìn Giáo Hội như một dấu chỉ. Như vậy Nước Thiên Chúa là gì? Trước tiên Nước Thiên Chúa biểu lộ trong con người Ðức Ki-tô, Con thiên Chúa và là Con Người "Ðấng đã đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc thiên ha "[54]. Vậy Nước Thiên Chúa không phải là một khái niệm, một học thuyết hay một chương trình xã hội mà người ta có thể tự phác họa. Nước Thiên Chúa phải có dung mạo và danh xưng là Giê-su Na-da-rét, một khuôn mặt của Thiên Chúa vô hình. Nếu tách rời Nước Thiên Chúa ra khỏi Ðức Giê-su, sẽ có nguy cơ biến Nước Thiên Chúa thành một đối tượng hoàn toàn có tính nhân loại hoặc ý thức hệ. Cũng vậy, chúng ta không thể tách rời Nước Thiên Chúa ra khỏi Hội Thánh vì Hội Thánh là thân mình Chúa Ki-tô, Hội Thánh là mầm sống, là dấu chỉ và là khí cụ của Nước Thiên Chúa. Mặc dù khác biệt với Ðức Ki-tô và Nước Thiên Chúa, Hội Thánh vẫn hiệp nhất chặt chẽ với Ðức Ki-tô và Nước Thiên Chúa. Ðức Ki-tô ban tặng ơn ích và phương tiện cứu độ một cách sung mãn cho Hội Thánh, và Thánh Thần trong Hội Thánh không ngừng thánh hóa, hướng dẫn và canh tân Hội Thánh. Nhà thừa sai là đại diện cho sự hiện diện Hội Thánh đến dân ngoại để phục vụ Nước Thiên Chúa khi loan truyền trong bối cảnh xã hội đó những giá trị Tin Mừng và những giá trị này là cách diễn tả Nước Thiên Chúa và giúp con người đón nhận kế hoạch của Thiên Chúa. Như thế, thực tại Nước Thiên Chúa đã khởi đầu cũng có thể gặp thấy bên ngoài Hội Thánh, bởi lẽ Chúa Thánh Thần, Ðấng muốn thổi nơi đâu và thế nào tuỳ ý Người[55]. Những nhà thừa sai phải lưu ý rằng chiều kích trần thế của Nước Thiên Chúa vẫ chưa trọn vẹn nếu chiều kích nó không khớp với Vương quốc của Chúa Ki-tô, đang hiện diện trong Hội Thánh và đang hướng đến sự viên mãn cánh chung. Chính vì Nước Thiên Chúa mang đặc tính phục vụ con người nên nhà thừa sai phải nhận ra những giá trị Tin Mừng trong bối cảnh xã hội cụ thể và ra sức cổ võ tích cực xây dựng những giá trị đó nếu nó bị đánh mất. Cụ thể trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay tại cá đô thị lớn: tình trạng cách biệt người giàu-nghèo quá lớn, số người di dân từ quê lên đô thị càng ngày càng đông, chủ nghĩa hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân ảnh hưởng mạnh đến người trẻ. Những nguyên nhân trên làm cho người nghèo bị loại ra bên lề xã hội, không được tôn trọng, xã hội bất công và tục hóa. Ðứng trước tình trạng đó nhà thừa sai phải ra sức cổ võ các giá trị: đối thoại, thăng tiến người nghèo, dấn thân cho công lý và hòa bình, giải phóng người bị áp bức. Việc loan báo Tin Mừng nhất thiết phải gắn liền với việc thăng tiến con người, vì con người cần được Tin Mừng hóa không phải là một hữu thể trừu tượng mà gắn liền với những vấn đề xã hội và kinh tế. Ðiều đáng lưu ý là trong công cuộc thăng tiến  và giải phóng loài người thì phải tránh hiểu từ " giải phóng" trong phạm vi ý thức hệ, các hệ thống hay các nhóm chính trị. Sự giải phóng mà công cuộc Tin Mừng hóa công bố là sự giải phóng mà chính Ðức Ki-tô đã loan báo cho con người bằng việc hy sinh hiến tế của Người. III. QUÁ TRÌNH LOAN BÁO TIN MỪNG Mặc dù sứ vụ của Giáo Hội là làm cho mọi người. Nhưng tuỳ thuộc vào những hoàn cảnh khác nhau mà sứ vụ này được thể hiện bằng những hoạt động khác nhau.Khi nhận định về thế giới ngày nay, theo quan điểm loan báo Tin Mừng, chúng ta có thể phân biệt 3 tình trạng: Trước hết, đó là những nơi chưa biết Ðức Ki-tô và Tin Mừng của Người, vì thế, sứ vụ của Giáo Hội là "đến với muôn dân" (Ad Gentes); tiếp đến, có những cộng đoàn Ki-tô hữu với cơ cấu Giáo Hội vững chắc và có đức tin mạnh mẽ. Sứ vụ của Giáo Hội là mục vụ giáo xứ (Phúc Âm hoá); sau hết là những nơi có truyền thống lâu đời, nhưng người Ki-tô hữu đã đánh mất cảm quan đức tin, sống xa rời Giáo Hội và Tin Mừng, trong tình trạng này, sứ vụ của Giáo Hội là tái rao giảng Tin Mừng. 1. Ad Gentes Tình trạng đầu tiên là nhà thừa sai đến những nơi mà con người ở đó chưa được nghe Tin Mừng cách minh nhiên hoặc ở đó chưa có cộng đoàn người Ki-tô hữu. Cụ thể ở Việt Nam ta thấy có những người dân tộc ở miềm Bắc, hoặc người Kinh ở các vùng miền Tây. Chính những nơi này đang cần rất nhiều sự hiện diện của nhà thừa sai. Sau đây, chúng ta bàn đến quá trình đem Tin Mừng cho họ. Quá trình này trải qua nhiều giai đoạn: Thời gian tiền rao giảng, loan báo Tin Mừng, dạy giáo lý, xây dựng Giáo Hội địa phương và đào tạo đội ngũ truyền giáo. a. Tìm hiểu và hội nhập (tiền rao giảng) Bước đầu, nhà thừa sai phải đến sống âm thầm như một người dân bản địa, để học hỏi ngôn ngữ, tìm hiểu văn hoá, tập quán, tâm lý, đạo đức của người bản địa. Ðây là giai đoạn cần thiết không thể thiếu và xảy ra trước tiên. Ðây là thời gian "sống với và lắng nghe". Do đó, nhà thừa sai phải tích cực gặp gỡ dân chúng địa phương bằng các cuộc viếng thăm, qua các mối tương quan công việc. vận dụng các phương pháp tìm hiểu con người và xã hội trong các môn khoa học nhân văn vao bối cảnh cụ thể. Ðể có thể tiếp cận được con người và văn hoá, thì nhà thừa sai cần thiết phải học ngôn ngữ của người bản xứ. Khi đã thông thạo ngôn ngữ, nhà thừa sai có thể xúc tiến việc dịch Kinh Thánh ra ngôn ngữ địa phương,để sau này phục vụ cho việc rao giảng Lời Chúa. Tiếp đến là việc tiếp cận, tìm hiểu văn hoá. Có hai con đường để tiếp cận: chủng tộc học và nhân loại học. Tìm hiểu văn hoá bằng con đường chủng tộc học là khảo sát các tác phẩm văn chương, công trình kiến trúc, cổ vật. Ðó là những sản phẩm của quá khứ để giúp ta hiểu được văn hoá, tư tưởng của con người. Tìm hiểu văn hoá bằng con đường nhân loại học là tìm hiểu cách sống hằng ngày, cách tự diễn tả cảm xúc, đức tin, các mối tương quan giữa người với người và người với thiên nhiên. Con đường này đòi buộc nhà thừa sai phải sống gần gũi với người bản địa. Hơn nữa, trong giai đoạn này nhà thừa sai nên có vài hoạt động tông đồ đáp ứng nhu cầu của người địa phương, cụ thể ở Việt Nam là: sự công bình, phẩm giá con người, quyền có việc làm. Tất cả những hoạt động đó là phần nào đã đưa những giá trị Tin Mừng vào xã hội địa phương. b. Loan báo Tin Mừng Sau khi đã tiếp cận được với người bản địa, nhà thừa sai có thể rao giảng Tin Mừng bằng nhiều hình thức: đời sống chứng tá, rao giảng minh nhiên bằng lời, cử hành phụng vụ. Từ đó, khi người bản xứ có cảm tình với đạo Chúa Ki-tô thì bắt đầu cho họ tham gia vào lớp tiền dự tòng.       Thời gian tiền dự tòng Giai đoạn tiền dự tòng bắt đầu bằng việc chất vấn và đối thoại với người dự tòng. Ðây còn được gọi là giai đoạn khơi gợi đức tin. Trong những buổi gặp ban đầu, nhà thừa sai dùng những lý luận tự niên phù hợp với lý trí để nói về sự có mặt của Thiên Chúa, linh hồn, sự sống đời đời. Ðồng thời cần dựa vào tục ngữ, ca dao, phong tục tập quán, tất cả những gì là nền tảng cảm thức thần thiêng của người Việt Nm tùy vào tuổi tác và địa vị để gợi mở các chân lý đức tin. Chẳng hạn, chân lý đức tin "là người thì ai cũng muốn có hạnh phúc vĩnh cửu". Các chân lý cần trình bày trong thời gian này là: - Con người có linh hồn và khao khát sự sống đời đời; - Vũ trụ bao la hùng vĩ thì phải có Ðấng tuyệt vời hơn tạo dựng nên nó; - Kinh nghiệm con người cảm nhận về đau khổ  nhưng luôn khao khát về Chân-Thiện-Mỹ. Vì thế, phải có Ðấng thỏa mãn khao khát của con người. Sau cùng, nhà thừa sai dùng lý luận khơi mở gây cho người dự tòng xúc động, cảm phục để chuẩn bị tâm hồn bước vào giai đoạn 2 (thời kỳ dự tòng). Ngoài ra, giai đoạn này còn có nghi thức tiếp nhận người dự tòng, nghi lễ này được cử hành trong nghi lễ phụng vụ, có bạn hữu, thân nhân, người dạy giáo lý và linh muc tham dự. Như vậy, người dự tòng được kể là đã hoàn tất giai đoạn tìm hiểu Phúc Âm, bắt đầu tin vào Chúa Ki-tô. Ngày nay, ở nhiều giáo xứ tại Việt Nam, vì không có thời gian và điều kiện, các linh mục cử hành nghi thức tiếp nhận này ngay tại trước cửa nhà thờ xảy ra trước khi cử hành Bí tích Thanh Tẩy. Trong nghi thức tiếp nhận, người dự tòng phải tự nguyện xin đức tin, tuyên bố bỏ tà thần, quyết định tôn thờ và phụng sự một mình Thiên Chúa và Ðức Ki-tô.       Thời kỳ dự tòng Nếu có thể, thời kỳ này kéo dài nhiều năm để có thời gian giúp người dự tòng học tập đời sống Ki-tô hữu hầu đi dần vào mầu nhiệm cứu độ, thực hành lối sống theo Tin Mừng, làm quen với các nghi lễ cử hành và được đưa vào đời sống đức tin, phụng vụ và đức mến của dân Thiên Chúa[56]. Phần trình bày giáo lý cho người dự tòng phải bao hàm mọi khía cạnh và có hệ thống. Nhà thừa sai nên thúc đẩy họ tham dự mầu nhiệm phụng vụ, hoạt động tông đồ. Ðặc biệt trong thời gian này cộng đoàn Hội Thánh tích cực cầu nguyện cho họ. Tiếp đến, có thể cử hành nghi thức "trao Kinh Tin Kính" trong thời gian học giáo lý và dẫn đến thời kỳ chuẩn bị gần. Thời kỳ chuẩn bị gần bắt đầu vào đầu Mùa Chay, trong đó có cử hành nghi thức "tuyển chọn" hay gọi là "nghi lễ ghi danh". Trong nghi lễ này, Hội Thánh dựa vào lời chứng của người đỡ đầu và người dạy giáo lý, và quyết tâm của người dự tòng để quyết định có nên cho họ lãnh nhận các Bi tích nhập đạo hay không? Nghi thức này kết thúc thời kỳ dự tòng, và tên người dự tòng được ghi vào sổ "những người được tuyển chọn". Nghi lễ tuyển chọn được cử hành vào Chúa Nhật I Mùa Chay, trong thánh lễ, vị chủ tế giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa và nhắc nhở tin hữu hãy nêu gương sáng cho các người dự tòng.       Thời gian thanh tẩy và soi sáng Thời gian này bàt đầu từ ngày được tuyển chọn. Trong thời gian này, những người dự tòng cùng với cộng đồng tín hữu địa phưong chuyên lo việc thiêng liêng để chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Các nghi thức được cử hành: khảo hạch, trao kinh, và chuẩn bị trực tiếp. q       Nghi thức khảo hạch Chủ đích của nghi thức khảo hạch là  thanh tẩy tâm hồn, thêm sức mạnh chống lại cám dỗ, giúp ý hướng nên ngay thẳng và thúc đẩy ý chí đế gắn bó với Chúa Ki-tô. Việc khảo hạch được thực hiện qua những nghi thức trừ tà. Ðể thúc đầy ýmuốn thanh tẩy và lòng ao ước ơn cứu độ của Chúa Ki-tô, nên cử hành 3 nghi thức khảo hạch trong các lễ Chúa Nhật III, IV và V Mùa Chay, chỉ trừ có lý do chính đáng (mục vụ) thì hãy chọn những Chúa Nhật khác trong Mùa Chay hoặc những ngày trong tuần. Các bài Tin Mừng trong các thánh lễ khảo hạch được chọn lần lược là: phụ nữ Sa-ma-ri, người mù từ thuở mới sinh, và ông La-da-rô. q       Nghi thức trao Kinh Nếu trong thời gian dự tòng, nghi thức trao Kinh Tin Kính chưa được cử hành thì nên cử hành trong tuần sau lần khảo hạch thứ nhất và phải có sự hiện diện  đông đảo cộng đồng giáo dân. Tiếp theo là nghi thức trao "Kinh Lạy Cha" được thực hiện trong tuần sau lần khảo hạch thứ 3. Nghi thức này không bắt buộc. q       Nghi thức chuẩn bị trực  tiếp Nghi thức này thường được cử hành vào ngày thứ Bảy Tuần Thánh, bao gồm các nghi thứ nhỏ: trả Kinh Tin Kính, mở ra, chọn tên thánh và xức dầu dự tòng. Trong ngày thứ Bảy này, nên tập trung người dự tòng lại để tĩnh tâm và cầu nguyện để chuẩn bị lãnh các bi tích nhập đạo. Cuối cùng là cử hành các bí tích nhập đạo: Thanh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể trong lễ vọng Phục Sinh vào tối thứ Bảy Tuần Thánh. Nhưng lưu ý, trước đó các tâm hồn người dự tòng phải được chuẩn bị lỹ lưỡng bằng việc tham dự các buổi tĩnh tâm trong Mùa Chay.       Thời gian nhiệm huấn ( hậu tân tòng) Ở Việt Nam, phần đông các giáo xứ thường bỏ qua thời gian huấn luyện này, vì lý do: không có nhân sự, không tập trung được các người tân tòng, không có chương trình huấn luyện cụ thể. Nhưng đây lại là thời gian rất cần thiết cho đời sống đạo của người tân tòng. Thời kỳ này được tiếp nối ngay sau khi người dự tòng chịu các bí tích nhập đạo, nghĩa là nằm trong Mùa Phục sinh. Suốt Mùa Phục sinh, người đỡ đầu động viên người tân tòng siêng năng tham dự Thánh lễ và chủ tế nên nhắc đến họ trong bài giảng. Mục đích của thời nhiệm huấn là giúp các người tân tòng đào sâu mầu nhiệm Chúa Ki-tô, siêng năng suy niệm Lời Chúa, và để Lời Chúa chi phối cuộc sống thường ngày. Nhà thừa sai nên tạo điều kiện cho họ thực thi tông đồ, nhằm giúp họ thấy hiệu quả của tác động Lời Chúa. Ðồng thời, người có trách nhiệm giúp họ có cảm nghiệm mới về Chúa Ki-tô và Hội Thánh qua việc cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các bí tích. Cuối cùng là động viên họ tham dự tích vào cá sinh hoạt của Giáo Hội địa phương, và như thế là cách nào đã giúp họ ý thức vị trí và vai trò của họ trong Thân Mình Chúa Ki-tô. Hằng năm, đặc biệt là năm đầu, nên tập họp họ lại để tạ ơn Thiên Chúa, trao đổi với nhau những kinh nghiệm thiêng liêng và lãnh thêm sức sống mới. Trong ngày họp mặt này nên có thánh lễ dưới sự chủ tọa của Giám mục giáo phận để họ cảm thấy được nâng đỡ và liên kết với vị Thủ lãnh đại diện Chúa Ki-tô. Thời gian quy tụ trong năm để học hỏi giáo lý tuỳ thuộc Giáo Hội địa phương nhưng đừng gián đoạn quá lâu. c. Xây dựng cộng đoàn Giáo Hội địa phương Sau khi đã có đông một số người tân tòng tam gia các sinh hoạt tôn giáo tại Giáo Hội địa phương thì bước kế tiếp nhà thừa sai phải làm là xây dựng Giáo Hội địa phương. Quá trình này đòi hỏi trường kỳ và lâu dài. Cách tổ chức và nội dung nhằm giúp người tân tòng trưởng thành đức tin cách sống động và ý thức xây dựng Giáo Hội. Cách tổ chức các lớp giáo lý phải khoa học và đầy đủ, với mục đích đưa Giáo Hội đến sự trưởng thành. Vì "đối tượng của sứ vụ đến với muôn dân là thiết lập các cộng đoàn Ki-tô hữu. Ta không thể nói rằng điếu ấy đã thành đạt bao lâu ta chưa xây dựng được Giáo Hội địa phương mới sống bình thường trong khung cảnh tự nhiên"[57]. Trước hết, nhà thừa sai cần tìm cách thiết lập các cộng đoàn Ki-tô hữu để các cộng đoàn này trở thành " dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa" trong thế giới và tiếp tục tăng trưởng cho đến khi trở thành những Giáo Hội. Như vậy, chính những người tântòng, một khi được Ðức Ki-tô chiếm đoạt thì phải trở nên người làm chứng cho Ðức Ki-tô tại địa phương mình. Mặt khác, qua việc cử hành phụng vụ Thánh Thể và Lời Chúa, cùng với hoạt động bác ái là cách nào đó làm nổi bật đặc tính truyền giáo. d. Ðào tạo đội ngũ truyền giáo mặc dù từ bảnchất Giáo Hội địa phương là truyền giáo, nhưng để công cuộc loan báo Tin Mừng được hữu hiệu hơn, nhà thừa sai cần phải lưu tâm đến thành phần giáo dân, những người cộng tác đắc lực cho công cuộc truyền giáo. Hơn nữa, bản thân nhà thừa sai không thể đáp ứng nổi nhu cầu quá bao la trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Trước hết, thành phần phải kể đến là đội ngũ giáo lý viên. Như lời đánh giá của Hồng y Tổng Trưởng thánh Bộ Phúc Âm Hoá các Dân Tộc: "Giáo lý viên là một trong nhưng hạng người nắm vai trò quyết định trong hoạt động truyền giáo của Hội Thánh. Họ không đơn thuần là người giúp đỡ linh mục, nhưng họ đích thực là chứng nhân của Chúa Ki-tô trong cộng đoàn của mình. Hiện Thánh Bộ Phúa Âm Hoá các Dân Tộc đã phát hành "tài liệu hướng dẫn giáo lý viên ở các xứ truyền giáo" năm 1993. Ðể có thể đào tạo giáo lý viên thành người thừa sai, đòi hỏi nhà thừa sai phải nghiên cứu, thấu triệt tài liệu này và linh hoạt áp dụng vào bối cảnh cụ thể. Một lực lượng đáng kể mà nhà thừa sai không thể không lưu tâm đó là giới trẻ. Họ chiếm số đông, nhiệt thành và có mặt trong nọi nghành nghề của xã hội. Họ có điều kiện tiếp xúc với nhiều người chưa biết Chúa Ki-tô trong các môi trường đa dạng. Ðặc biệt ở Giáo Hội Việt Nam, người trẻ chưa ý thức cao về sứ mạng này, nên nhà thừa sai phải gây ý thức nơi họ. Chính vì ý thức về tầm quan trọng của giới trẻ mà Ðức Giáo Hoàng Gio-an Phaolô II đã nói trong thông điệp gửi cho giới trẻ như sau: Các bạn trẻ yêu mến. Chúa Ki-tô không chỉ kêu gọi các bạn đồng hành với Ngài trên lữ hành trần thế này, nhưng Ngài còn sai các bạn đi làm sứ giả cho sự thật và làm chứng cho Ngài trong thế giới này, cụ thể là đến với các bạn trẻ cùng lứa tuổi như các bạn, bởi vì họ đang khao khát kiếm con đường, sự thật và sự số

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxXây dựng tài liệu huấn luyện tu sĩ thừa sai ở Việt Nam.docx