Lời nói đầu 1
Nội dung 2
CHƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA XUẤT KHẨU CHÈ 2
1.Vị trí và vai trò của xuất khẩu Chè 2
2.Quy trình xuất khẩu chè của nớc ta hiện nay 2
1.1 công tác tạo nguồn hàng 3
1.2 Công tác giao hàng xuất khẩu 3
1.3 Công tác thanh toán 4
CHƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM 4
1.Tổng quát vê kết quả đạt đợc của việc xuất khẩu chè 5
2.Đánh giá chung 5
1.1 Những mặt tích cực 6
1.2 Hạn chế còn tồn tại 7
3.Nguyên nhân khách quan có ảnh hởng tới xuất khẩu chè Việt Nam 6
CHƠNG III PHƠNG HỚNG VÀ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ TRONG THỜI GIAN TỚI 9
1.Phơng hớng của việc xuất khẩu Chè của Việt Nam trong thời gian tới 9
2.Biện pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu Chè của Việt Nam 9
Kết Luận 13
15 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xuất khẩu chè – Thực trạng, phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt Nam trong thời gian tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nước ta.
Chè là một loại cây ưa với khí hậu nước ta, đối với nước ta thì cây chè có một ý nghĩa rất to lớn cả về mặt kinh tế và mặt xã hội. Qua một số năm gần đay cho thấy xuất khẩu chè của nước ta gặp một số khó khăn, chất lượng chè của chúng ta không cao, xuất khẩu giảm… Vấn đề đặt ra là phải có những biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu chè ở nước ta. Chính vì vậy em xin chọn đề tài: “ Xuất khẩu chè – Thực trạng, phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt Nam trong thời gian tới ” để nghiên cứu. Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ của Thày Trần Thanh Toàn.
Nội dung đề tài này được chia làm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận chung của xuất khẩu Chè
Chương II: Thực trạng xuất khẩu Chè của Việt Nam
Chương III: Phương hướng và biện pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu Chè trong thời gian tớiNội Dung
Chương I. Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu chè của Việt Nam
1. Vị trí và vai trò của xuất khẩu Chè
1.1 Vị trí của ngành Chè trong nền kinh tế Quốc dân
Chè là cây công nghiệp dài ngày, trồng một lần cho thu hoạch nhiều năm. Tuổi thọ của chè kéo dài 50 – 70 năm, cá biệt nếu chăm sóc tốt có thể tới hàng trăm năm. Chè đã có ở Việt Nam từ hàng ngàn năm nay, một số cây chè ở Suối Giàng(Nghĩa Lộ) có tuổi thọ 300 – 400 năm. Nhiều nhà khoa học cho rằng Việt Nam là một trong những cái nôi của cây chè.
Chè đươc trồng chủ yếu ở trung du, miền núi và có giá trị kinh doanh tương đối cao. Một ha chè thu được 5 – 6 tấn chè búp tươi ( nhiều năm này có giá tương đương thóc), có giá trị ngang với một ha lúa ở đồng bằng. Vì vậy có thể nói cây chè là cây “ xoá đói giảm nghèo” điều hoà lao động từ đồng bằng lên các vùng xa xôi hẻo lánh, góp phần phát triển kinh tế miền núi bảo vệ an ninh thế giới.
Sản xuất và xuất khẩu chè thu hút một lượng lao động khá lớn( hơn 22 nghìn lao động chính kể cả lao động chính, lao động phụ và lao động dịch vụ là gần 300 nghìn người với mức thu nhập ổn định và không ngừng tăng ( thu nhập bình quân toàn ngành năm 2000 đạt 380 nghìn đồng/ người/ tháng. Trồng chè cũng chính là “ phủ xanh đất trồng đồi trọc”, cải thiện môi trường sinh thái. Với phương châm trồng chè kết hợp nông lâm, đào dãy hào giữa các hàng chè để giữ mùn giữ nước, sử dụng phân bón hợp lý… ngành chè đã gắn kết được phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, xuất khẩu chè còn mang lại lợi nhuận cao.
Tóm lại, có thể kinh ngạch xuất khẩu chè còn kém xa các mặt hàng mũi nhọn khác (dầu mỏ, than, gạo…) nhưng xét đến những tác động tích cực của nó về mặt xã hội và để tận dụng mọi nguồn lực hiện có, chúng ta nên tiếp tục phát triển sản xuất và xuất khẩu chè trong thời gian tới.
1.2 Vai trò của xuất khẩu chè
Xuất khẩu chè có một vai trò to lớn trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Không những có vai trò về kinh tế mà nó còn có vai trò về an ninh quốc phòng, việc định canh định cư của các người trồng chè trên những vùng cao và hẻo lánh đã đảm bảo được an ninh biên giới của nước ta. Việc trồng chè còn phủ xanh đồi trọc, đất trống, góp phần điều hoà không khí, ngoài ra cây chè còn một số tác dụng trong ngành y học: cafein trong chè kích thích hệ thần kinh trung ương, tamin trị các bệnh đường ruột và một số axit amin cần thiết cho cơ thể…
Xuất khẩu chè tạo một nguồn vốn dáng kể cho đất nước, góp phần vào công cuộc hiện đại hoá đất nước. Chè là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, hàng năm mang lại khá nhiều ngoại tệ: năm 2000 đã xuất khẩu được 45 ngàn tấn mang về cho đất nước khoảng 56 triệu USD, năm 2001đã xuất khẩu 40000 tấn tăng 9.94% so với năm 2000 đạt kim ngạch xuất khẩu 70triệu USD, 5 tháng đầu năm 2002 đã xuất khẩu được 25000 tấn đạt giá trị 28 triệu USD.
Bên cạnh đó, việc xuất khẩu chè sang các nước bạn, từ đó tạo ra nhiều mối quan hệ kinh tế cho các doanh nghiệp trong ngành chè nói riêng các doanh nghiệp trong cả nước nói chung. Tạo nên tình đoàn kết hữu nghị, giao lưu học hỏi lẫn nhau giữa các nước.
2. Quy trình xuất khẩu Chè của nước ta hiện nay
Trong việc xuất khẩu chè của cả nước thì Tổng công ty Chè Việt Nam đóng một vai trò vô cùng quan trọng, và có thể nói hầu hết chè xuất khẩu là của Tổng công ty và sau đây là quy trình mà Tổng công ty đang thực hiện.
2.1. Công tác tạo nguồn hàng
Chủ động tạo được nguồn hàng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến độ giao hàng, đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của công ty và hiệu quả kinh doanh, một số hình thức tạo nguồn hàng hàng chủ yếu như:
Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu theo hợp đồng (mua bán đứt đoạn): là hình thức chủ yếu của Tổng công ty, chiếm gần 80% giá trị hàng hoá thu mua. Sau khi Tổng công ty và nhà cung cấp đạt được những thoả thuận về mặt số lượng và chất lượng, phương thức thanh toán… tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế.
Phương thức uỷ thác : Tổng công ty dùng danh nghĩa của mình để giao dịch với khách nước ngoài nhằm thoả thuận với các điều khoản liên quan đến với hợp đồng xuất khẩu dự định sẽ kí kết và tổ chức bán hộ hàng cho người uỷ thác
Phương thức đầu tư, liên doanh liên kết: Theo phương thức này, tổng công ty sẽ bỏ vốn đầu tư vào các đơn vị sản xuất chế biến hàng xuất khẩu theo hợp đồng ngắn hạn, trong đó Tổng công ty chịu trách nhiệm tiêu thụ sản phẩm được sản xuất.
2.2 Công tác giao hàng xuất khẩu
Nghiệp vụ này bao gồm các khâu sau:
Chuẩn bị hàng: Bao gồm việc kiểm tra chất lượng, số lượng, trọng lượng, bao bì đóng gói, kẻ ký mã hiệu để hoàn thiện theo đúng yêu cầu của đơn đặt hàng. Kết thúc kiểm tra bao giờ cũng phải lập một chứng từ bằng tiếng Việt và một bản bằng tiếng nước ngoài ( tuỳ theo yêu cầu của khach ngoại)
Ký kết hợp đồng vận tải: Để đưa hàng hoá ra cảng xuất khẩu, sau đó tiến hành bốc dỡ hàng xuống cảng để Hải Quan kiểm định hàng hóa.Tổng công ty thường xuất hàng theo giá CIF
Hoàn thiện thủ tục giấy tờ: Khi làm thủ tục xin giấy phép xuất khẩu, Tổng công ty thường phải chuẩn bị một số giấy tờ quan trọng sau: Hợp đồng thương mại( bản chính và bản sao), bản dịch hợp đồng, hạn nghạch (QUOTA) nếu hàng đựoc xuất theo hạn nghạch, giấy chứng nhận xuất xứ, giấy chứng nhận kiểm dịch vệ sinh hàng hóa và các giấy tờ khác có liên quan
Tổ chức khai báo làm thủ tục Hải Quan: Tổng công ty phải có trách nhiệm xuất trình giấy tờ,sắp xếp hàng, mở hàng để Hải quan kiểm tra
Giao hàng lên tàu và lập vận đơn: Tổng công ty thường uỷ quyền cho hãng vận tải, đại diện của Tổng công ty xẽ lấy biên lai thuyền phó, sau đó đổi lấy vận đơn sạch. Vận đơn sẽ được chuyển qua bộ phận kế toán để lập chứng từ thanh toán.
2.3. Công tác thanh toán
Nghiệp vụ thanh toán bao gồm các khâu vay vốn thanh toán nguồn hàng và nhận tiền thanh toán của khách ngoại(bên nhập). Đối với thanh toán đầu vào, nguồn vốn có thể có từ nguồn vốn tự có, hoặc từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp và đôi khi cũng từ nguồn vay ngắn hạn ngân hàng. Có thể nói thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh, đặc biệt với hoạt động buôn bán quốc tế.Trong số các hình thức thanh toán bằng thư tín dụng L/C được sử dụng nhiều nhất vì đậy là một phương thức thanh toán đảm bảo, thuận tiện an toàn lại hạn chế được rủi ro cho cả hai bên mua và bán.
Chương II. Thực trạng xuất khẩu Chè của Việt Nam
1.Tổng quát về kết quả đạt được của Xuất khẩu chè trên thị trường
Trong những năm qua, Việt Nam tích cực mở rộng các mối quan hệ, tham gia tích cực vào các tổ chức kinh tế quốc tế nên thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt theo chiều hướng đa dạng hơn. Trước kia, hàng hoá của Việt Nam chủ yếu xuất sang Liên Xô và các nước XHCN. Nhưng từ những năm 90 trở lại đây do sự sụp đổ của hệ thống này, hàng hoá của ta xuất sang những thị trường mới ở nhiều châu lục khác nhau. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng như vậy là nhờ vào chính sách đa dạng hoá mặt hàng và đa phương hoá các quan hệ kinh tế thương mại. Mỗi mặt hàng khác nhau đã xuất đi nhiều nơi trên thế giới để vừa khai thác lợi thế của thị trường vừa phân tán được rủi ro. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 120 nước vùng lãnh thổ.
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng kể song thị trường xuất khẳu chè của chúng ta còn nhiều yếu kém, chưa thâm nhập được vào các thị trường lớn nhiều tiềm năng, đặc biệt là khi gặp đối thủ “ nặng ký” Tổng công ty trở nên quá “nhỏ bé” và chịu nhiều thua thiệt. Vì vậy, trước mắt chúng ta đặc biệt là Tổng công ty chè cần chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm và khai thác thị trường mới, duy trì và củng cố những thị trường truyền thống với sự hỗ trợ của nhà nước trong việc khai thác các mối quan hệ kinh tế - chính trị, ký kết các hiệp định thương mại với các nước. Nhìn chung, vấn đề thị trường vẫn là vấn đề lớn còn nhiều bức xúc đòi hỏi nhiều nỗ lực không chỉ về phía doanh nghiệp mà còn từ phía Nhà nước.
Hàng năm doanh số xuất khẩu chè chiếm trên 90% trong tổng số doanh thu của Tổng công ty cho nên vấn đề chính là thị trường nước ngoài. Đây là triển vọng để Tổng công ty có thể mở rộng thị trường, khuyếch trương uy tín của Tổng công ty trên thị trường thế giớil. Để thực hiện những mục tiêu lớn nhất thì vấn đề cốt yếu đầu tiên phải giải quyết là thị trường tiêu thụ, vì nó là mục tiêu lớn nhất để cho một ngành hàng kinh tế kỹ thuật phát triển, nó quyết định toàn bộ quá trình kinh doanh và sự phát triển trong tương lai. Để giữ vững được thị trường đã có và ngày càng mở rộng nhiều hơn. Điều quan trọng là phải tạo ra được sản phẩm chè có chất lượng cao, bao bì đẹp thu hút khách hàng, gía thành hợp lý, sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường mà yếu tố chất lượng là yếu tố quyết định hàng đầu.
2. Đánh giá chung
2.1 Những mặt tích cực
Theo thống kê của Bộ Thương mại, từ đầu năm đến nay, cả nước mới xuất được khoảng 39.000 tấn chè với tổng giá trị khoảng 39 triệu USD, giảm 33% về lượng và 40% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng tháng 9 chỉ đạt 5.000 tấn, trị giá 5 triệu USD, giảm hơn 60% về lượng và 70% về giá trị.
Trong cả nước có rất nhiều doanh nghiệp cũng như các đơn vị chế biến và sản xuất chè, trong Tổng công ty chè Việt Nam là một đơn vị rất quan trọng. Tổng công ty đã tạo nên sự liên kết chặt chẽ với các đơn vị thành viên, mở rộng ra cả các vùng chè dân. Tuy có số lượng đơn vị khá lớn, ở nhiều vùng khác nhau, nhưng Tổng công ty đã thống nhất sự quản lý từ trên xuống dưới thể hiện ở chỗ: Các thành viên tuân thủ nghiêm ngặt kế hoạch và nhiệm vụ được giao; khi có khó khăn về nguồn hàng, Tổng công ty yêu cầu các đơn vị dừng việc bán hàng ra ngoài để tập trung toàn bộ lượng hàng giao cho Tổng công ty. ở đây không xảy ra tình trạng “ Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”như vẫn thường thấy ở một số công ty Việt nam hiện nay. Sở dĩ tạo ra được mối liên hệ này là nhờ Tổng Công ty đã gắn lợi ích của mình với lợi ích của các thành viên. Và thực tế đã chứng minh không có mối quan hệ kinh tế nào bền chặt bằng mối quan hệ kinh tế hai bên cùng có lợi. Do làm tố công tác này mà tránh được tình trạng tranhmau bán ở nhiều nơi, làm thiệt hại cho các công ty và bà con đáng kể, môi trường cũng phần nào được cải thiện vì hiện nay diện tích trồng chè của chúng ta đã tăng lên gáp nhiều lần đã phủ xanh đất trống đồi núi trọc, khi xuất khuẩu thì hiện nay chúng ta đã xâm nhập được và các thị trường mới đầy tiềm năng: Irap, Nhật bản, Mỹ… không còn phụ thuộc và thị trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu như trước kia. Điều này đã giúp cho doanh nghiệp ta học hỏi được rất nhiều nắm bắt được những thông tin quan trọng, làm cho doanh nghiệp chủ động trước những biến động của thị trường, chúng ta đã tạo ra nhiều giống tốt cũng như chất lượng chè được nâng cao nhằm phục vụ cho quá trình xuất khẩu.
2.2. Những hạn chế còn tồn tại
Hạn chế đầu tiên được nêu ra là về vấn đề quản lý và chăm sóc cây chè, vườn chè không được quan tâm đồng đều, đất nghèo chất dinh dưỡng. Quy trình kỹ thuật chưa được thực hiện nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Cộng với việc khai thác quá mạnh làm cây chè chóng cạn kiệt, bên cạnh đó chè được trồng dốc nhiều, hệ thống nước không đầy đủ.
Chất lượng sản phẩm kém. Nhiều đánh giá cho rằng chất lượng của ta chỉ ở mức trung bình so với thế giới. Chất lượng thấp làm giảm năng lực cạnh tranh, kéo giá chè xuất khẩu xuống thấp hơn hẳng giá chè trên thế giới. Trong những yếu tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng, nổi lên những yếu tố sau:
+ Công nghệ: Chỉ một số nhà máy mới xây dựng bằng thiết bị công nghệ của ấn độ là tương đối hoàn chỉnh. Còn phần lớn là các nhà máy công nghệ của Liên xô đến nay đã xuống cấp nên không đảm bảo tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất chè đen theo tiêu chuẩn.Một số đơn vị đã đầu tư bổ sung thêm máy kéo,máy vò, máy sấy để nâng cao công suất nhưng khâu bảo quản chè búp tươi, phòng lên men, phòng sàng chưa được nâng cấp chính đáng.
+ con người: Cùng với sự yếu kém về công nghệ, thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân lành gnhề cũng như nguyên nhân làm chất lượng chè thấp. đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và trên đại học ngày càng thưa thớt, nhiều đơn vị chè không có kỹ sư chế biến,thậm chí còn thếu cả cán bộ chế biến có trình độ cung cấp. Công nhân lành nghề đã về hưu, thiếu cán bộ có trình độ đại học nên việc bồi dưỡng nâng cao tay nghề cũng hạn chế.
+ quản lý: Vẫn còn có nhiều đơn vị vì lợi ích cục bộ, chỉ chạy theo số lượng hoàn thành kế hoạch mà không có trách nhiệm với người tiêu dùng, không quan tâm duy trì và cải tiến, làm cho chất lượng sa sút ảnh hưởng tới chất lượng chung của Tổng công ty.
Sản phẩm còn đơn điệu về chủng loại, mẫu mã, bao bì, ta chủ yếu xuất chè có kích thước và hình dáng tự nhiên. Trong khi người tiêu dùng đặc biệt người tiêu dùng ở các nước tư bản lại ưa thích sản phẩm tiện dụng và cho phép tiết kiệm thời gian. Chưa hình thành hệ thống phân phối trực tiếp ở nước ngoài. Xuất khẩu còn kiểu cầm chừng, gặp khách hàng thoả thuận được giálà bán luôn. Chi phí dành cho các hoạt động xúc tiến, yểm trợ còn thấp. Các hình thức quảng cáo nghèo nàn - đây là nhược điểm chung của các doanh nghiệp Việt Nam.
2.3. Nguyên nhân khách quan có ảnh hưởng tới xuất khẩu chè
Cũng như với xuất khẩu nói chung, hiện nay tuy đã có những dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu song các dịch vụ này chưa thực sự phát huy tác dụng. Dịch vụ thông tin về thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh… của cơ quan Nhà nước thuộc các Bộ, ngành TW, các đại diện thương mại của ta ở nước ngoài hay của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam không đáng kể. Chủ yếu là tụ tìm kiếm qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua sách báo về những chuyến đi thực tế.
Doanh nghiệp phần lớn vẫn phải dùng “tờ rơi” hay “truyền miệng” nhờ các cán bộ tranh thủ những chuyến đi công tác nước ngoài để giới thiệu sản phẩm. Các hình thức áp phích, quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng ít được sử dụng.
Dịch vụ giám định vẫn chưa đủ uy tín để khách hàng nước ngoài công nhận giấy chứng nhận chất lượng của ta do trang thiết bị còn thủ công, trình độ nhân viên giám thị còn thấp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp luật như cung cấp thông tin về thúê, giải quyết tranh chấp, hướng dẫn thủ tục lập hợp đồng…
Việc nhà nước mở rộng quyền kinh doanh đối ngoại cho các chủ thể kinh tế là một biểu hiện tự do hoá thương mại với mục đích tạo ra sự cạnh tranh để cùng phát triển. Hoạt động Xuất khẩu diễn ra sổ nổi hơn nhưng cũng khó quản lý hơn. Nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng vẫn đua nhau xuất khẩu, tranh mua tranh bán dẫn đến việc xuất khẩu với giá thấp hoặc hàng chất lượng kém làm ảnh hưởng tới uy tín chè Việt Nam trên thị trường thế giới, cộng với sự thiếu vắng các biện pháp xúc tiến thương mại hiệu quả là nguyên nhân làm cho năng lực cạnh tranh của ta kém, gía hàng xuất khẩu của ta thấp, thị trường không ổn định.
Còn nhiều tồn tại trong công tác hải quan, các thủ tục hải quan tuy đã được đơn giản đi nhưng người xuất khẩu vẫn nhận nhiều phiền phức bởi thái độ quan liêu của nhân viên hải quan
Chương III phương hướng và biện pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu chè trong thời gian tới
1. Phương hướng xuất khẩu chè của Việt Nam trong thời gian tới
* Về sản xuất nông nghiệp:
Quy hoạch vùng nguyên liệu, tập trung phát triển chè tại 8 tỉnh phía Bắc: Sơn la, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng. Viện nghiên cứu chè hỗ trợ các đơn vị nhân giống và đưa nhanh các giống có năng xuất cao, chất lượng tốt vào các vườn chè để cải tiến chất lượng chè xuất khẩu, tăng tỷ lệ giống mới có chất lượng cao hơn trong cơ cấu nguyên liệu. Cải tạo đất bằng cách bón phân hữu cơ tổng hợp phù hợp với loại đất. Đưa công cụ vào canh tác nông nghiệp tại các đơn vị của Tổng công ty rồi phổ biến rộng ra.
* Về sản xuất Công nghiệp
Đầu tư cải tạo nâng cấp 30% cơ sở chế biến công nghiệp trong năm 2004 – 2005. Xây dựng thêm 180 nhà máy chế biến công suất 12tấn / ngày. đầu tư xây dựng nhà máy cơ khí chè công suất 350 – 500 tấn/ năm để chế tạo phụ tùng và thiết bị lẻ phục vụ cho sửa chữa, nâng cấp nhà máy cũ.
*Về xuất khẩu
Tiếp tục giữ vững thị trường xuất khẩu hiện có mở ra các thị trường mới bằng việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Đa dạng hóa sản phẩm tổng hợp có chè và khai thác triệt để các sản phẩm từ đất chè.
* Về con người
Nhu cầu đến năm 2010 là 1000 kỹ sư nông nghiệp và 9000 kỹ sư chế biến. Vì vậy phải đào tạo bổ sung 360 người, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho 216 người, tập huấn khuyến nông cho 200.000 người.
2. Những biện pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu chè Việt Nam
2.1 Quy hoạch lại vùng chè, mở rộng thị trường tiêu thụ
Trước hết là phải quy hoạch lại những vùng nguyên liệu chính và ổn định theo hướng tập chung chuyên canh thâm canh. Căn cứ vào đặc điểm địa hình có thể chia làm 3 loại chè: vùng có độ cao dưới 100m so với mặt nước biển gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Bắc Thái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh, khả năng mở rộng diện tích từ 14 – 15 ngàn ha; vùng có độ cao từ 100 – 1000m gồm Mộc Châu và Cao Nguyên Lâm Đồng, khả năng mở rộng diện tích tư 6 – 8 ngàn ha.
Tăng cường công tác thị trường: Thị trường tiêu thụ chè bao gồm thị trường trong nước và thị trường thế giới. Đối với thị trường nội tiêu, nhu cầu ngày càng tăng, đòi hỏi chất lượng chè ngày càng cao hơn và đa dạng về chủng loại, nhất là chè đặc sản như là Shan Tuyết, chè “ hữu cơ” chè hương và đặc biệt là chè đen cao cấp túi lọc. Tuy nhiên nhu cầu về loại chè xanh truyền thống lâu đời vân rất lớn. Muốn chiếm lĩnh thị trường trong nước, ngành chè cần có sự thay đổi trong nhìn nhận, trong sản xuất để chế tạo ra được những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Đối với thị trường xuất khẩu chè Việt Nam đã có mặt trên thị trường thế giới nhiều thập kỷ và đứng thứ 6 về khối lượng xuất khẩu, củng cố và tìm kiếm thị trường xuất khẩu chè là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của chiến lược xuất khẩu chè.
2.1 Nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm
Đây là vấn đề quyết định cho việc mở rộng thị trường chè. Tuy nhiên điều đó phụ thuộc nhiều vào công tác đầu tư mà việc đó bắt đầu từ khâu giống, gieo trồng chăm sóc chế biến ra thành phẩm. Bên cạnh việc đưa các giống mới có năng suất cao chất lượng tốt vào sản xuất( đó là giống PH1, 1A.777, BT95, OL93, KX94,…) cần nhập một số giống mới từ Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… Đồng thời bảo đảm đúng quy trình canh tác từ việc xây dựng các đối nương, chăm sóc, diệt trừ sâu bệnh, đến kỹ thuật hái chè… Nhanh chóng đầu tư thiết bị mới vào chế biến để tạo ra sản phẩm chè có chất lượng tốt, giá trị cao, tạo được uy tín với khách hàng và đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Khuyến khích các mô hình phát triển trang trại và tiểu trang trại. có thể tham khảo một số công thức đã có kết quả như (5+10+4) với trang trại và (2+3+5) với tiểu trang trại.
Các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân tham gia hiệp hội chè Việt Nam để có sự thống nhất về thị trường giá cả xuất khẩu, tránh tình trạng tranh mua bán, bên cạnh đó, ngăn chặn kịp thời những hiện tượng không đạt chất lượng.
2.3 Bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với người trồng chè
Nguồn nguyên liệu chè của nước ta hầu hết tập trung ở các nông trường và hộ gia đình. Và muốn có nguyên liệu tốt và kịp thời gian để chế biến chè thì chúng ta phải có chính sách để giúp đỡ các hộ gia đình trồng chè về vốn, kỹ thuật trồng chè, thu hái chè.
Trước hết phải nói đến nguồn vốn cho các hộ gia đình. Vì chúng ta đã biết cây chè thường ở miền núi và trung du, bà con nông dân ở đây thường không có vốn để đầu tư mua giống mới và các phương tiện phục vụ cho cây chè vì vậy chúng ta có thể cấp vốn cho họ hay là mua cây giống mới cho họ và có thể cấp phân bón cho vừa đảm bảo chất lượng chè và làm cho người dân co trách nhiệm hơn với chất lượng của chè và tạo động lực cho họ yên tâm trồng chè
Các doanh nghiệp chế biến chè có thể ký hợp đồng thu mua chè cho người dân trước vụ thu hái. Nếu làm tốt điều này thì cả hai bên đều có lợi; các doanh nghiệp thì yên tâm về nguồn nguyên liệu được ổn định, còn người trồng chè thì yên tâm đầu ra của mình ổn định không sợ phải huỷ bỏ đi.
Tăng cường vai trò của các đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan này thực hiện chức năng thông tin và trung gian vì lợi ích của các nhà xuất khẩu. Đặc biệt là trong thu nhập thông tin về thị trường nước sở tại về các điều kiện buôn bán, phong tục tập quán, cách thức làm an, các công ty có khả năng hợp tác…để lập một ngân hàng dữ liệu chuyển về trong nước. Ngoài ra còn giúp đỡ các nhà xuất khẩu mở chi nhánh ở nước ngoài, lập chương trình cho các đoàn làm phán xuất khẩu gặp gỡ các bạn hàng tiềm năng, các cơ quan xúc tiến thương mại ở các nước sở tại. Bên cạnh đó, có thể thành lập riêng đại diện thương mại ở các vùng kinh doanh lớn chư không nhất thiết chỉ gắn liền với cơ quan đại diện ngoại giao.
Cải thiện về công tác hải quan nhằm khuyến khích xuất khẩu, đơn giản hoá các chứng từ và thủ tục xuất khẩu. Ban hành văn bản quy định chi tiết các chứng từ và thủ tục này để tránh việc nhân viên hải quan lợi dụng những thiếu xót nhỏ để sách nhiễu doanh nghiệp, tiến hành thanh tra và kiên quyết xử lý các trường hợp tiêu cực.
2.4 Cải cách hệ thống tài chính cho hoạt động xuất khẩu
* Chính sách tài chính:
Thuế: Miễn thu thuế sử dụng đất 5 năm cho các diện tích trồng chè phục hồi và 12 năm cho các diện tích chè trồng mới trên đất dốc từ 7 độ trở lên. Miễn thu 100% thuế nhập khẩu với thiết bị máy móc chế biến chè và phụ tùng đặc chủngcủa các máy móc này trong một số năm tạo điều kiện hiện đại hoá ngành chè. Chỉ thu nhập doanh nghiệp của các nhà sản xuất chè 15% thay vì 35 % như hiện nay. Phần lợi nhuận vượt kế hoạch Nhà nước giữ lại 100% để bổ sung quỹ khen thưởng phúc lợi và quỹ nghiên cứu phát triển.
Trích lập quỹ: Nhà nước cho phép sử dụng các khoản thu từ thanh lý tài sản cố định để bổ sung quỹ phát triển sản xuất và quỹ phát triển ngoại thương. Cho thành lập riêng quỹ bình ổn giá mua chè búp tươi cho nông dân, giữ cho giá này luôn tương đương với giá thóc. Quỹ này còn dùng để dự trữ một lượng chè hợp lý nhằm giữ gía chè xuất khẩu. Để hình thành quỹ, các hộ gia đình và các doanh nghiệp sẽ góp một khoản tương đương 5% giá thành, coi như chi phí và đưa vào giá thành. Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần bằng cách chi ngân sách và cho trích lại khoảng 5% trị giá các hợp đồng trả nợ chè của Chính Phủ.
*Phối hợp các biện pháp tài chính, tín dụng để hỗ trợ xuất khẩu như:
Đảm bảo tín dụng Xuất khẩu, cấp tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, công cụ tỷ giá hối đoái và các chính sách miễn giảm thuết. Trong điều kiện ngoại thương vận dụng đường biển của ta phát triển chưa mạnh, việc khuyến khích trực tiếp các doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam là con đường ngắn và hiệu quả nhất.
Kết Luận
Xuất khẩu đã và đang đựoc Đảng và nhà nước đưa vào trung tâm để làm đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển, tại đại hội Đảng toàn quốc vừa qua cũng khẳng định xuất khẩu là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm gần dây xuất khẩu chè của chúng ta đã đạt được một số thành tự quan trọng trong đóng góp cho nền kinh tế quốc dân, xuất khẩu chè trở thành 8 mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng của nước ta. Xuất khẩu chè đã giải quyết được công ăn việc làm cho hàng ngàn nghìn lao động rất là những lao động ở nông thôn và miền núi, cây chè đã trở thành cây xoá đói giảm nghèo của Đảng và nhà Nước ta. Nhiều người dân đã giàu lên từ việc trồng chè. Vài năm trở lại đây xuất khẩu của chúng ta đang gặp khó khăn như: giá chè trên thế giới đang giảm, thị trường chè xuất khẩu của chúng ta đang có xu hướng thu hẹp lại, chất lượng chè phục vụ cho xuất khẩu không cao. Để thoát được vấn đề này chúng ta phải thực hiện tố các biện pháp đã nêu ra ở trên. Để cây chè trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta và tương xứng với lợi thế của cây chè. Hi vọng trong thời gian tới chúng ta sẽ làm tốt các biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu chè và đạt được mục tiêu của ngành đã đặt ra.
Mục lục
Lời nói đầu 1
Nội dung 2
Chơng I Cơ sở lý luận chung của xuất khẩu Chè 2
1.Vị trí và vai trò c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0678.doc