CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU . . 2
I. XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ . . 2
1. Khái niệm xuất khẩu 2
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu . 2
2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân . 2
2.2. Đối với một doanh nghiệp . 4
II. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU . 4
1. Xuất khẩu trực tiếp . 4
2. Xuất khẩu uỷ thác . 4
3. Buôn bán đối lưu . 5
4. Xuất khẩu theo nghị định thư 5
5. Xuất khẩu tại chỗ 5
6. Gia công quốc tế . 5
7. Tạm nhập, tái xuất . 5
8. Chuyển khẩu . 6
III. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU . 6
1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu . 6
2. Tạo nguồn hàng xuất khẩu . 6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP CỦA VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN QUA . 6
I. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU 6
1. Giá trị xuất khẩu giầy dép của Việt Nam . 7
2. Xuất khẩu giầy dép theo thành phần kinh tế 8
II. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP CỦA VIỆT NAM . 8
III. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA TỔNG CÔNG TY DA GIẦY VIỆT NAM . 8
1. Cơ cấu thị trường . 8
2. Kim ngạch xuất khẩu sang Châu Âu của Tổng công ty 9
3. Các hình thức xuất khẩu của Tổng công ty . 9
4. Cốngản phẩm chủ yếu của Tổng công ty . 9
5. Kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty theo các đơn vị . 10
IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA . 10
1. Những kết quả đạt được . 10
2. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNGXUẤT KHẨU GIẦY DÉP VIỆT NAM . . 10
CHƯƠNGIII: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP CỦA VIỆT NAM . . 12
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH GIẦY DÉP VIỆT NAM . 12
II. DỰ BÁO VỀ XUẤT KHẨU GIẦY DÉP TRONG NHỮNG NĂM TỚI Ở NƯỚC TA . 13
1. Dự báo về thị trường 13
2. Dự báo về nhu cầu giầy dép xuất khẩu giai đoạn 2000-2010 14
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GIẦY DÉP CỦA VIỆT NAM 14
1. Về phía doanh nghiệp . 14
2. Về phía nhà nước . 15
KẾT LUẬN
20 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1720 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xuất khẩu giầy dép Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số khía cạnh sau :
- Xuất khẩu đảm bảo cho khả năng phát triển kinh tế.
ở những nước đang phát triển, một trong những vật cản chính của quá trình tăng trưởng kinh tế và sự thiếu thốn vốn. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài dược coi là chủ yếu nhưng mọi cơ hội tiếp nhận đầu tư hay vay nợ nước ngoài chỉ tăng lên khi chủ đầu tư hay người cho vay nợ nước ngoài chỉ tăng lên khi chủ đầu tư hay người cho vay nợ nhận thấy khả năng xuất khẩu của nước đó vì vậy đây là nguồn chính đảm bảo khả năng trả nợ.
- Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thực tế cho thấy rằng xuất khẩu góp phần làm dịch chuyển nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có điều kiện và cơ hội phát triển. Ví dụ: khi ngành dệt may xuất khảu phát triển, các ngành liên quan như bông, sợi, nhuộm, tẩy, hấp… sẽ có cơ hội phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, tạo lợi thế nhờ qui mô.
- Xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động và tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các mồi quan hệ kinh tế đối ngoại khác có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, thể hiện mối liên kết trên toàn thế giới, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế… phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này tạo điều kiện cho ngành xuất khẩu càng phát triển hơn.
2.2 Đối với một doanh nghiệp
- Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp phát triển tới một mức độ cao hơn.
Xuất khẩu tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng uy tín của doanh nghiệp.
Xuất khẩu khuyến khích phát triển các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như hoạt động đầu tư, nghiên cứu phát triển,marketing…
II. CáC HìNH THứC XUấT KHẩU CHủ YếU
1. Xuất khẩu trực tiếp
Đây là hình thức xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của mình. Với hình thức này doanh nhiệp đứng ở thế chủ động trong hoạt động kinh doanh, mọi lợi nhuận doanh nghiệp được hưởng hết. Nhưng doanh nghiệp lại cần có nghiệp vụ ngoại thương cao và linh nghiệm xuất khẩu.
2. Xuất khẩu ủy thác
Dưới hình thức này, các đơn vị ngoại thương đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tiến hành những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hóa cho nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định. Hình thức xuất khẩu này giúp cho các doanh nghiệp có thể xuất khẩu những mặt hàng mà họ có khả năng sản xuất nhưng không có điều kiện xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu được lại bị phân chia.
3.Buôn bán đối lưu
Đây là hình thức giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với hoạt động nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị trừơng. Mục đích của buôn bán đối lưu là tránh những rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối.
4.Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá dược thực hiện theo nghị định thư được ký kết giữa hai chính phủ ( thường với mục đích trả nợ ). Mặc dù hình thức này có nhiều bảo đảm chắc chắn như khả năng thanh toán cao (do nhà nước chi trả ), giá cả tương đối cao. Hình thức này ngày nay ít được áp dụng.
5.Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức đang phổ biến. Dưới hình thức này, hàng hóa không nhất thiết phải vượt qua biên giới quốc qia do vậy giảm được những rủi ro cũng như những chi phí trong quá trình vận chuyển và bảo quản hàng hóa. Các thủ tục cũng đơn giản hơn rất nhiều do đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
6.Gia công quốc tế
Hình thức kinh doanh trong đó bên nhận gia công nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên để biến ra thành phẩm và giao lại cho bên đó, nhận phía gia công. Đây là hình thức xuất khẩu phổ biến ở những nước đang phát triển có nguồn công nhân dồi dào để tạo thêm công ăn việc làm, tiếp nhận công nghệ mà không phải bỏ nhiều vốn và không phải lo thị trương tiêu thụ.
7.Tạm nhập, tái xuất
Hình thức xuất khẩu những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu nhưng chưa qua chế biến. Hàng hoá có thể đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất khẩu sau dó sang nước nhập khẩu hoặc có thể đi từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Tiền sẽ được tái xuất khẩu thu từ nước nhập khẩu và trả cho nước xuất khẩu.
8.Chuyển khẩu
Là hình thức một nước bán hàng hóa cho một nước khác mà không cần làm thủ tục xuất nhập khẩu. Hình thức này giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí xuất nhập khẩu.
III. NộI DUNG CủA HOạT ĐộNG XUấT KHẩU
1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Thị trường là yếu tố sống còn và là yếu tố vận động không ngừng, vì vậy bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu để chỉ ra phương thức hoạt động của nó như thế nào cho phù hợp để từ đó doanh nghiệp có đối sách thích hợp trong qúa trình xuất khẩu sang từng loại thị trường. Hoạt động nghiên cứu thị trường bao gồm:
Nghiên cứu về môi trường
Nghiên cứu về giá cả hàng hoá
Nghiên cứu về cạnh tranh
Nghiên cứu về nhu cầu
2. Tạo nguồn hàng xuất khẩu
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá, dịch vụ của một công ty hoặc một địa phương hoặc một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu được. Để tạo nguồn hàng xuất khẩu các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hay gián tiếp cho sản xuất, thu gom hoặc ký kết hợp đồng thu mua với những đơn vị sản xuất.
CHƯƠNGII: THựC TRạNG XUấT KHẩU GIầY DéP CủA VIệT NAM TRONG THờI GIAN QUA
I. KIM NGạCH XUấT KHẩU
Giầy dép là mặt hàng có sự khác biệt so với những hàng hóa tiêu dùng khác ví dụ như thực phẩm. Mặt hàng này chỉ phát triển được khi đời sống của nhân dân đã đạt được một mức nhất định. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội, những năm gần đây nước ta đang chuyển đổi mạnh mẽ từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần theo kinh tế thị trường. Nhờ sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế này mà đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt. Do đó, phát triển và mở rộng sản xuất hàng tiêu dùng có chất lượng cao là vấn đề được quan tâm hàng đầu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Sau khi nước ta tiến hànhchính sách mở cửa vào năm 1992, ngành da giầy nước ta đã có bước phát triển mạnh và trở thành một trong số những ngành có triển vọng xuất khẩu cao. Thời kỳ 1991-1993 xuất khẩu giầy dép đứng hàng thứ 10 trong số cá mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thì đến năm 1994 giầy dép đã vươn lên hàng thứ 6 và hiện nay giầy dép đứng hàng thứ 3 trong số những mặt hàng xuất khẩu chỉ sau dầu khí và dệt may.
1 Giá trị xuất khẩu giầy dép Việt Nam
Theo số liệu của tổng công ty da giầy Việt Nam, năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ 1,4 USD, tăng 30% so với năm 1998. Góp phần vào sự tăng trưởng này là một hệ thống các doanh nghiệp, công ty hoạt động có hiệu qủa trong lĩnh vực sản xuất giầy dép nói chung và xuất khẩu giày dép nói riêng bao gồm:
Doanh nghịêp quốc doanh trung ương chiếm 25% số lượng sản phẩm và 18,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Doanh nghiệp quốc doanh địa phương chiếm 19,5% số luosjng sản phẩm và 14,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 37,5% số lượng sản phẩm và 52,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong hệ thống doanh nghiệp sản xuất giày dép thì tổng công ty giầy da Việt Nam là đơn vị dẫn đầu trong vấn đề hướng phát triển sản phẩm và tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Trực thuộc tổng công ty hiện nay là một hệ thống các công ty con sản xuất giày và thuộc da khá qui mô. Thị trường xuất khẩu của ta là khá rộng lớn nhưng do nguồn đầu vào còn thiếu nên đầu năm 1999, tổng công ty đã triển khai thực hiện dự án sắp xếp lại những cơ sở sản xuất da.
2.Xuất khẩu giầy dép theo thành phần kinh tế
Trong năm 1996 và 1997, các doanh nghiệp quốc doanh là những đơn vị kinh tế có giá trị xúat khẩu giầy dép lớn nhất trong các thành phần kinh tế. Năm 1996 doanh nghiệp quốc doanh chiếm 67,54% và năm 1997 chiếm 57,06% tỷ trọng xuất khẩu. Điều này chứng tỏ rằng thành phần kinh tế quốc doanh vẫn chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng. Đây có lẽ là một điều dễ hiểu vì ngành giầy dép có vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế nước ta nên đuuộc đầu tư nhiều và được nhà nước coi trọng.
II THị TRƯờNG XUấT KHẩU GIầY DéP CủA VIệT NAM
Kể từ năm 1980, đồ da Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh do có sự hợp tác giữa Việt Nam với Liên Xô và một số nước Đông Âu cũ trong hội đồng tương trợ kinh tế. Các sản phẩm giầy dép theo sự hợp tác này không có sự đảm bảo về chất lượng cũng như tính cạnh tranh cao do thói quen làm ăn xã hội chủ nghĩa. Kể từ khi hiệp định này bị bác bỏ thì ngành giầy da nước ta mới có bước tiến bộ nhất từ sau khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường vào năm 1992.
Hiện nay, các sản phẩm giầy dép xuất khẩu của Việt Nam bao gồm giầy thể thao, giầy nữ, giầy da, dép đi trong nhà, sandal… chất lượng khá tốt. Sản phẩm của chúng ta thường được xuất khẩu sang thị trường những nước tư bản như Tây Âu và Bắc Mỹ. Thị trường chủ yếu của giầy dép xuất khẩu là các nước thuộc liên minh châu Âu do sản xuất giầy dép tại Châu Âu đang ngày càng giảm sút đồng thời hàng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam được hưởng ưu đãi theo hệ thống ưu đãi phổ cập GSP .
Tóm lại thi trường xuất khẩu giầy dép của Việt Nam la một thị trường rộng lớn với đủ các thị hiếu nhưng đều có chung một yêu cầu chất lượng cao, mẫu mã đẹp và đa dạng.
III. TìNH HìNH XUấT KHẩU GIầY DéP CủA TổNG CÔNG TY DA GIầY VIệT NAM
1 Cơ cấu thị trường của tổng công ty da giầy Việt Nam
Thị trường châu Âu chiếm tỷ lệ lớn trong số các thị trường xuất khẩu của tổng công ty 75%. Bởi vì đây là thị trường mà tổng công ty có quan hệ từ lâu, các sản phẩm đã trở lên quen thuộc, người tiêu dùng đã hình thành thói quen trong tiêu dùng đối với sản phẩm. Mặt khác, sản phẩm của công ty xuất sang các nước châu Âu được hưởng chính sách ưu đãi phổ cập thuế quan GSP.
Trong những năm gần đây tỷ trọng xuất khẩu của tổng công ty sang thị trường này có phần suy giảm do một vài lý do khách quan và chủ quan, ví dụ: như công ty đang tiến hành mở rộng một số thị trường mới nen không tập trung được hoàn toàn vào thị trường này và Trung Quốc, Inđônêsia đã xâm nhập vào thị trường này một cách mạnh mẽ.
2. Kim ngạch xuất khảu sang châu Âu của tổng công ty
Giá trị xuất khẩu của tổng công ty tăng mạnh từ năm 1996 đến 1997 song vì những lý do kể trên đã giảm đáng kể vào hai năm tiếp theo1998 đến 1999. Năm 1998 giảm 3,6176 triệu sản phẩm tương tương 9,2277 triệu USD so với năm 1997. Năm 1999 số lượng sản phẩm co tăng lên chút itsong về giá trị lại giảm đi đáng kể. Đây là những khó khăn thách thức đặt ra cho tổng công ty trong thời gian tới.
3.Các hình thức xuất khẩu của công ty
Hình thức gia công xuất khẩu là hình thức xuất khẩu chính của tổng công ty da giầy Việt Nam. Hình thức này luôn chiếm tỷ trọng lớn từ 45,43% năm 1997 đến 52,03% năm 1999 trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Với hình thức này tổng công ty có ưu thế là không phải quan tâm đến nguồn nguyên vật liệu, mẫu mã sản phẩm, thị trường tiêu thụ đồng thời tổng công ty khó có thể lắm bắt nhu cầu thị trường và thụ động trong việc cải tiến mẫu mã và đặc biệt là thu nhập thấp. Mặt hàng chính của tổng công ty là giầy nữ, giầy vải và giầy thể thao, thời gian gần đây tổng công ty có thêm sản phẩm dép các loại.
4.Các sản phẩm chủ yếu của công ty
Sản lượng tiêu thụ các mặt hàng chình của công ty tuy có giảm bớt song vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Mặt hàng giầy nữ giảm liên tục vào năm 1997 và 1998 (năm 1997 giảm 391.000 đôi so với năm 1996, năm 1998 giảm 1.726.000 đôi so với năm 1997) nhưng năm 1999 lại bắt đầu tăng 210.000 đôi so với năm 1998. Các mặt hàng khác cũng có những thay đổi nhất định vào các năm nhất là hai mặt hàng chủ lực là giầy vải và giầy thể thao. Điều này thể hiện cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của tổng công ty đang có sự thay đổi, mặc dù chưa rõ nét nhưng là một dấu hiệu báo trước để tổng công ty chuẩn bị cho việc chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phù hợp với nhu cầu của thị trường.
5.Kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty theo các đơn vị
Tình hình xuất khẩu của các đơn vị thuộc tổng công ty từ năm 1996 đến năm 1999 có nhiều biến động lớn. Sau khi kim ngạch xuất khẩu tăng vào năm 1997 thì hầu hết các đôn vị đều có kim ngạch xuất khẩu giảm vào hai năm tiếp theo 1998 và 1999. Mức giảm cao nhất của năm 1998 so với năm 1997 là của công ty da Sài Gòn(giảm tới 25,82%). Bước sang năm 1999, mức giảm kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thuộc về các đơn vị phụ thuộc (giảm đến 27,28%) so với năm 1998.
IV. ĐáNH GIá KếT QủA CủA HOạT ĐộNG XUấT KHẩU GIầY DéP VIệT NAM TRONG THờI GIAN QUA
1. Những kết qủa đạt được
Xuất khẩu giầy dép mở ra một thị trường quốc tế rộng lớn cho nước ta, kim ngạch xuất khẩu giầy dép ngày càng cao, năm 1993 mới chỉ là 118 triệu USD, năm 1994 là 244 triệu USD, năm 1995 là 388 triệu USD và đến năm 1400 triệu USD. Xuất khẩu giầy dép phát triển đã góp phần tăng tích lũy ngoại tệ cho đất nước, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động. Có dược thành qủa này là do chúng ta đã tận dụng những lợi thế của các nước đang phát triển, có tiềm năng về lực lượng lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên nên các đối tác nước ngoài rất ưu thích trong việc hợp tác với nước ta trong lĩnh vực này. Mặt khác nước ta đã có uy tín khá lớn trong lĩnh vực xuất khẩu giầy dép.
2. Những hạn chế trong hoạt động xuất khẩu giầy dép Việt Nam và nguyên nhân
Trong hoạt động xuất khẩu giầy dép, bên cạnh những ưu điểm chúng ta cũng có những hạn chế. Về phía khách quan có thể nói rằng hoạt động xuất khẩu giầy dép nước ta đang gặp những khó khăn .
Trong những năm trước đây, khi thị trường Liên Xô chưa tan vỡ và thị trường Đông Âu còn ổn định thì hình thức gia công để xuất khẩu phát triển cao , không chỉ riêng nước ta mà các nước khác trong khu vực có điều kiện tương tự như chúng ta cũng phát triển ngành giầy dép để tận dụng nhứng điều kiện thuận lợi của họ. Do đó chúng ta phải cạnh tranh gay gắt với những nước đó về mọi mặt: mẫu mã, giá cả, chất lượng.
Khó khăn về nguồn nguyên liệu. Hiện nay là một khó khăn cho toàn bộ ngành xuất khẩu giầy dép của nước ta. Các đối tác nước ngoài dù liên doanh với chúng ta hay đặt hàng gia công xuất khẩu đều rất hiếm khi cung cấp nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp Việt Nam để sản xuất. Hầu như phía Việt Nam đều phải tự lo về phần nguyên vật liệu. Khó khăn của chúng ta chính là khó khăn trong thu mua nguyên vật liệu hoặc nguyên vật liệu không đảm bảo chất lượng. Da trâu, da bò trong nước chỉ mới đáp ứng được gần 50% nhu cầu của ngành da giầy, lượng còn lại phải nhập khẩu là chủ yếu.
Về phía chủ quan mà nói thì có những hạn chế sau
Sự thiếu vốn và công nghệ: Theo tính toán của tổng công ty da giầy Việt Nam, từ năm 1991 đến nay, bình quân mỗi doanh nghiệp nhà nước chỉ mới đầu tư khoảng 8 triệu USD. Đây là số vốn đầu tư hết sức nhỏ nhoi so với công ty nước ngoài và để đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỉ USD vào năm 2000, ngành giầy da cần phải đầu tư 565 triệu USD thế nhưng hiện nay chưa thấy nguồn vốn nào khả quan.Tình trạng thiếu vồn ngặt nghèo khiến cho không ít doanh nghiệp buộc lòng phải bua thiết bị với công nghệ lỗi thời ngay cả khi khách hàng đặt hàng cao cấp có lợi nhuận cao, chúng ta cũng đủ khả năng thực hiện.
Không có hệ thống phân phối trực tiếp tại các thị trường nước ngoài và lãng quên thị trường trong nước: Cái yếu cơ bản của doanh nghiệp da giầy Việt Nam là không có hệ thống phân phối trực tiếp tại các thị trường tiêu thụ, nên thường xuyên phải bán sản phẩm của mình cho các công ty trung gian với giá rẻ. Mặt hàng giầy đang chiếm ưu thế trên thị trường Việt Nam là giầy Trung Quốc được nhập vào qua nhiều đường khác nhau. Một điều khá quan trọng là để hoạt động xuất khẩu một mặt hàng có hiệu qủa và tạo được uy tín thì mặt hàng đó cần phải chiếm lĩnh thị trường trong nước.
Tính chất nội hoá trong từng đôi giầy vẫn còn qúa ít: Nguyên liệu da, giả da… và các phụ liệu khác như dao cắt, keo dán, khóa chủ yếu phải nhập ngoại. Da nội địa chỉ để sản xuất giầy cấp thấp hoặc chỉ được dùng làm da lát hoặc da cao cấp thì phải nhập cả da mũ, da đế.
Qua các phân tích ở trên, ta có thể thấy rằng xuất khẩu giầy dép ở nước ta là một lĩnh vực tuy còn nhiều khó khăn nhưng đã là một lĩnh vực có tiềm năng. Vì vậy để phát huy hết những thuận lợi và hạn chế những khó khăn trong hoạt động xuất khẩu giầy dép, nỗ lực tự hoàn thiện mình song song với sự hỗ trợ của nhà nước là cần thiết.
CHƯƠNG III: MộT Số BIệN PHáP NHằM THúC ĐẩY HOạT ĐộNG XUấT KHẩU GIầY DéP CủA VIệT NAM
I. ĐịNH HƯớNG PHáT TRIểN NGàNH GIầY DéP VIệT NAM
Trong chiến lược phát triển đền năm 2010, ngành giầy da đã xác định mục tiêu “hướng ra xuất khẩu” để thu hút ngoại tệ, tự cân đối các điều kiện để sản xuất và phát triển. Với mục tiêu đó ngành giầy da sẽ tập trung vào những quan điểm sau
Quan điểm hướng ra xuất khẩu và chuyển từ gia công sang mua nguyên vật liệu, bán thành phẩm đảm bảo nâng cao hiệu qủa, tăng nhanh tích lũy, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá những mặt hàng xuất khẩu.
Ưu tiên phát triển những cơ sở sản xuất nguyên liệu phụ, hóa chất phục vụ cho ngành nhằm tiết kiệm ngoại tệ, hạn chế sự phụ thuộc và tạo thế chủ động trong sản xuất kinh doanh.
Tăng cườnh phối hợp chặt chẽ với bộ phận thuộc da
Coi trọng thị trường nội địa, khai thác tối đa năng lực nhằm khai thác nhu cầu ngày càng tăng của tiêu dùng trong nước lẫn tiêu dùng quốc tế.
Chú trọng khâu thiết kế và triển khai những mẫu mã mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường nội địa cũng như quốc tế.
Bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề để đảm bảo sự tiếp thu nhanh chóng chuyển giao công nghệ, phấn đấu làm chủ trong sản xuất và không phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài.
Chú trọng đầu tư chiều sâu để đồng bộ hoá các dây chuyền sản xuất, bổ sung các thiết bị lẻ, thay thế những thiết bị lạc hậu, đổi mới công nghệ làm tăng sản lượng, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và hạn chế ô nhiễm môi trường.
Vói quan điểm định hướng trên, ngành giầy da Việt Nam cần có chiến lược phát triển tập trung mọi nguồn lực về khoa học công nghệ và nhân lực để có thể thực hiện dược những mục tiêu đề ra.
II. Dự BáO XUấT KHẩU GIầY DéP TRONG NHữNG NĂM TớI ở NƯớC TA
1. Dự báo về thị trường
Mỹ, châu Âu và Nhật Bản là ba thị trường nhập khẩu giầy dép lớn nhất thế giới. Chỉ tính riêng trong năm 1996, tổng giá trị nhập khẩu giầy dép của Mỹ là trên 12 tỷ USD. Trong thời gian tới, nhất là sau khi hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Mỹ đươc hoàn chỉnh, Việt Nam sẽ được hưởng quy chế tối huệ quốc thì lúc đó hàng hóa Việt Nam sẽ dễ dàng hơn trong việc xâm nhập thị trường Mỹ, kim ngạch buôn bán giữa hai nước sẽ tăng lên nhiều và triển vọng của giầy dép xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ là sáng lạn.
Thị trường châu Âu: Đây là thị trường lớn với dân số hàng trăm triệu người và có sức tiêu thụ giầy dép cao (khoảng 6-7 đôi/người/năm). Hàng năm toàn bộ châu Âu nhập khẩu một khối lượng lớn giầy dép nhưng nhu cầu giầy dép mẫu mốt thời trang chiếm tỷ lệ khá cao (trên 65%) và yêu cầu chất lượng cao. Châu Âu có xu hướng tiêu dùng giầy da do đời sống kinh tế phát triển, vì vậy đây cũng là thị trường có tiềm năng cho ngành thuộc da phát triển.
Thị trường SNG và Đông Âu: Đây là thị trường có dân số đông, mức tiêu thụ bình quân là 5-6 đôi/ người/ năm nhưng có xu hướng tiêu dùng các loại giầy dép phổ thông với chất lượng không qúa cao.
Thị trường Bắc Mỹ : Đây là thị trường có mức tiêu thụ 6-7 đôi/người / năm và ưu thích tiêu dùng những loại giầy dép có mang nhãn mác của những hãng nổi tiếng, kiểu dáng đẹp và có tính quốc tế cao. Nhu cầu tại Bắc Mỹ cho giầy da thời trang là khá cao (khoảng 70%).
Thị trường các nước trong khu vực: Khu vực Đông Nam A là khu vực sản xuất giầy dép chủ yếu của thế giới nên mức tiêu dùng chỉ ở mức dư thừa của hàng xuất khẩu.
2. Dự báo về nhu cầu giầy dép xuất khẩu giai đoạn 2000-2010
Trong những năm tới, nhiều quốc gia sẽ trở thành quốc gia phát triển, nhu cầu tiêu dùng da giầy ở những nơi đó sẽ tăng. Những nước này sẽ mất đi lợi thế giá nhân công rẻ và các lợi thế khác do phải đưa nền kinh tế hướng theo nền công nghiệp hiện đại. Các nước này sẽ mất đi những ưu đãi về thuế quan dành cho những nước đang phát triển và Việt Nam nên tận dụng ưu thế của mình.
Hiện nay khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu giầy dép của Việt Nam là to lớn cùng với vị trí ngày càng cao của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế, sự ưu đãi của nhà nước, triển vọng cho ngành xuất khẩu giầy dép của nước ta là rất to lớn.
III. M ộT Số GIảI PHáP THúC ĐẩY HOạT ĐộNG XUấT KHẩU GIầY DéP CủA VIệT NAM
1. Về phía doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ thị trường tiêu thụ sự tồn tại của doanh nghiệp là do thị trường quyết định vì vậy các doanh nghiệp cần xác định rõ.
Nhu cầu thi trường hiện tại.
Dự báo nhu cầu thị trường trong tương lai.
Khả năng chiếm lĩnh thị trường.
Khả năng cạnh tranh trên thị trường của sản phẩm.
Trên cơ sở nghiên cứu phân tích thị trường, doanh nghiệp dần xác định được quy mô sản xuất hàng năm. Đồng thời doanh nghiệp cần tính đến những yếu tố.
ảnh hưởng thu nhập đến nhu cầu thị trường.
Anh hưởng của giá cả đến nhu cầu thị trường.
Các ảnh hưởng khác đột biền đối với nhu cầu thị trường.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, doanh nghiệp cần phải tính đến khả năng sản xuất của nước nhập khẩu và cả nước nhập khẩu khác xâm nhập vào thị trường đó. Tất cả những việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải có bộ phận nghiên cứu có hiệu qủa.
Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến uy tín của mình trên thị trường quốc tế. Giai đoạn hiện nay là giai đoạn cạnh tranh quyết liệt vì vậy chữ tín cũng là lợi thế. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tránh tình trạng xuất khẩu những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn dẫn đến bên đối tác phải hủy hợp đồng như trương hợp công ty Thăng Long trước năm 1993.
Nâng cao nghiệp vụ kinh doanh đặc là nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Nghiệp vụ kinh doanh là toàn bộ những biện pháp và phương pháp nhằm kích thích nhu cầu thị trường, vì vậy nếu áp dụng những biện pháp hợp lý trong nghiệp vụ kinh doanh thì sẽ đạt hiệu qủa cao trong tiêu thụ sản phẩm. Đối với mặt hàng giầy dép có thể sử dụng những biện pháp sau:
Sử dụng hệ thống cửa hàng để tiêu thụ sản phẩm.
Nâng cao khả năng tiêu thụ thông qua quảng cáo, trưng bày mẫu.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng thông qua hệ thống đại lý.
Tăng cường mở rộng các mối quan hệ với các đối tác nước ngoài.
Mặt hàng giầy dép là loại tiêu thụ rộng rãi dưới nhiều hình thức: Trang bị hàng loạt hay chỉ là nhu cầu cá nhân. Vì vậy doanh nghiệp cần phải tăng cường mở rộng hơn nữa các quan hệ với những đối tác nước ngoài để tìm hiểu nhu cầu nhập khẩu của những tổ chức cũng như nhu cầu của từng cá nhân.
2.Về phía nhà nước
Nhà nước cần có một số chính sách khuyến khích đầu tư, giành một số vốn ưu đãi đầu tư vào ngành giầy dép và có biện pháp bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp hoặc giành khoản vay ưu đãi cho các doanh nghiệp giầy dép nhằm tạo điều kiện cho họ có khả năng về vốn từ đó hoạt động có hiệu qủa hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các doanh nghiệp trong ngành da giầy đang hoạt động trong tình trạng thiếu vốn và công nghệ thì ngày càng có nhiều những doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài xuất hiện nhằm khai thác nguồn lao động dồi dào của chúng ta đồng thời hưởng những ưu đãi cho xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam mới gượng dậy được sau sự sụp đổ của những thị trường truyền thống nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình cạnh tranh với họ. Vì vậy nhà nước nên có biện pháp bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam.
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động linh hoạt, các cơ quan nhà nước cần có sự thống nhất phối hợp khi đưa ra các quyết định liên quan để tránh gây phiền hà chậm trễ, tốn kém không cần thiết anh hưởng đến hoạt xuất khẩu.
KếT LUậN
Trong nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, đi cùng với nó là sự xuất hiên của nhiều ngành nghề kinh doanh. Để đứng vững trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt này, mỗi doanh nghiệp phải tạo cho mình chỗ đứng và tìm ra hướng phát triển cho mình. Xu thế chung khắp mọi nơi là mọi người đều đỏ dồn vào những lĩnh vực kinh doanh mang lại lợi nhuận cao. Sản xuất và xuất khẩu giầy dép là một trong số những lĩnh vực đó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0740.doc