Ngày 3-7-1980 Hiệp định hợp tác giữa Liên Xô (cũ) và Việt Nam về việc thăm dò 
và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam được ký kết. Ngày 19-6-1981 Chính 
phủ Việt Nam và Liên Xô (cũ) ký kết Hiệp định thành lập Xí nghiệp liên doanh 
dầu khí Việt-Xô (viết tắt là Vietsovpetro). Ngày 7-11-1981 Vietsovpetro chính thức đi 
vào hoạt động.
Khảo sát địa vật lý (từ, trọng lực, địa chấn) được tiến hành trên thềm lục địa Việt 
Nam do Liên đoàn địa vật lý Viễn Đông Liên Xô thực hiện với các tàu POISK, 
ISKATEL, Viện sỹ Gambuaxev, Malưgin theo các mạng lưới từ khu vực đến chi tiết.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5005 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam - Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 tái bản công trình bản đồ địa chất 
Đông Dương tỷ lệ 1:2.000.000 do Fromaget 
J., Saurin E., thành lập (1952).
4.2. Giai đoạn 1954-1975
a. Miền Bắc Việt Nam
Sau khi miền Bắc Việt Nam được giải 
phóng (1954), Chính phủ Việt Nam đẩy 
mạnh hoạt động địa chất và mỏ với sự giúp 
đỡ của Liên Xô (cũ), Trung Quốc và các 
nước Đông Âu. Chính phủ đặc biệt quan 
tâm đến việc đào tạo chuyên gia trong nước 
và gửi đi đào tạo ở nước ngoài.
Một khối lượng to lớn các công trình 
khảo sát địa chất, tìm kiếm, thăm dò và khai 
thác các khoáng sản đã được hoàn thành 
trong giai đoạn này. Độc giả có thể tìm hiểu 
trong “Thư mục địa chất Việt Nam” (Cục 
Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. Hà Nội 
1998); chẳng hạn như “Địa chất miền Bắc 
Việt Nam” và bản đồ địa chất miền Bắc 
Việt Nam (1965) (do Dovjikov A.E. chủ 
biên. 1965); “Bản đồ địa chất Việt Nam 
phần miền Bắc tỷ lệ 1:1.000.000” (do Trần 
Văn Trị chủ biên. 1973)… Dưới đây chúng 
tôi chỉ nêu các hoạt động liên quan đến địa 
chất dầu khí.
Năm 1956 Viện sỹ Griaznov N.K. (Liên 
Xô cũ) nhận định miền Bắc Việt Nam có 
triển vọng dầu khí. Từ 1959-1961 Kitovani 
S.K. cùng với các đồng nghiệp Việt Nam 
đã nghiên cứu tài liệu của các nhà địa chất 
Pháp, khảo sát 11 tuyến khoảng 25.000 km 
lộ trình đã hoàn thành báo cáo “Địa chất 
và triển vọng dầu khí ở Việt Nam Dân chủ 
Cộng hoà” [13]. Đây là công trình tổng hợp 
đầu tiên về địa chất và đánh giá triển vọng 
dầu khí ở Việt Nam. Theo tác giả, miền 
Bắc Việt Nam có 4 vùng triển vọng (Hình 
2.3):
1. Vùng trũng giữa núi tam giác châu 
sông Hồng.
2. Vùng được cấu tạo bởi các trầm 
tích lục nguyên Mesozoi trên nền 
Caledoni bị biến chất Paleozoi sớm.
3. Vùng được cấu tạo bởi trầm tích lục 
nguyên Mesozoi trên tầng Hercyni bị 
lún chìm không sâu.
4. Vùng được cấu tạo bởi trầm tích lục 
nguyên Paleozoi giữa-trên.
Ngày 27-11-1961 Đoàn Địa chất 36 trực 
thuộc Tổng cục Địa chất được thành lập. 
18
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Ngày 9-10-1969 Chính phủ ký quyết định 
số 203/CP thành lập Liên đoàn Địa chất 
36. Đây là đơn vị địa chất đầu tiên được 
tổ chức để tiến hành khảo sát, tìm kiếm và 
thăm dò dầu khí ở Bắc Việt Nam. Bắt đầu 
từ đây với sự quan tâm chỉ đạo của Chính 
phủ, sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ), hoạt 
động tìm kiếm thăm dò dầu khí ở miền Bắc 
Việt Nam được triển khai một cách mạnh 
mẽ, đồng bộ với tổ hợp các phương pháp 
địa chất, địa vật lý, địa hoá, khoan vẽ bản 
đồ, khoan cấu tạo, thông số, tìm kiếm thăm 
dò ở vùng trũng Hà Nội và sau này là vùng 
trũng An Châu. (Hình 2.4).
Hình 2.3. Bản đồ sơ lược về triển vọng dầu mỏ và khí thiên nhiên miền Bắc Việt Nam
19
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
Đã tiến hành khảo sát từ hàng không 
tỷ lệ 1:200.000 trên toàn miền Bắc Việt 
Nam (Ivanhiukov I.D. 1961). Đo trọng lực 
tỷ lệ 1: 200.000 trên diện tích 12000 km2 
vùng trũng Hà Nội (Epstêin N.V. 1961-
1963); sau đó là tỷ lệ 1: 500.000 trên toàn 
miền Bắc (Nguyễn Hiệp 1964-1973); tỷ lệ 
1:200.000 ở vùng trũng An Châu và vùng 
trũng Ninh Bình, tỷ lệ 1:50.000 và 1:25.000 
ở Đông Nam vùng trũng Hà Nội (Nguyễn 
Hiệp, Giang Công Thịnh 1965-1973).
Công tác thăm dò địa chấn bắt đầu từ 
năm 1962 với phương pháp phản xạ được 
tiến hành 2.260 km ở Đông Nam vùng trũng 
Hà Nội (Macsiutova, Hồ Đắc Hoài, Trương 
Minh), 232 km tuyến khúc xạ (Nguyễn Trí 
Liễn).
Công tác thăm dò điện được bắt đầu 
từ năm 1964 với trên 1.532 km tuyến chủ 
yếu tập trung ở Đông Nam vùng trũng Hà 
Nội (Pornhiagin M.A., Tăng Mười, Nguyễn 
Tấn Kích…).
Công tác khoan cấu tạo được bắt đầu từ 
năm 1962 tập trung chủ yếu ở vùng trũng 
Hà Nội với chiều sâu các giếng khoan từ 
150 m đến 1.200 m với tổng số khoảng 20 
nghìn mét khoan. Công tác khoan sâu bắt 
đầu từ năm 1970 với giếng khoan thông 
số 100 tại Tiên Hưng (Thái Bình) đạt độ 
sâu kỷ lục lúc bấy giờ (1970) là 3.303 m. 
Cho đến năm 1975 đã khoan được 7 giếng 
khoan sâu với tổng 17684 m khoan. Giếng 
khoan 61 ở cấu tạo Tiền Hải “C” đã phát 
hiện dòng khí lẫn condensat công nghiệp từ 
cát kết thuộc hệ tầng Tiên Hưng.
Có thể nói rằng kết quả khảo sát địa 
chất, địa vật lý và khoan trong giai đoạn 
này đã cho thấy bức tranh toàn cảnh cấu 
trúc địa chất của miền Bắc Việt Nam liên 
quan đến việc đánh giá triển vọng dầu khí; 
và đặc biệt cấu trúc địa chất sâu bên dưới 
lớp phủ trầm tích Đệ Tứ khá dày của vùng 
trũng Hà Nội lần đầu tiên được nghiên 
cứu; đã phát hiện được những hệ thống 
đứt gãy phức tạp (sông Chảy, sông Hồng, 
sông Lô, Vĩnh Ninh…), các dải nâng Kiến 
Xương-Tiền Hải, các vùng sụt lún Đông 
Quan, Phượng Ngãi có chiều dày trầm tích 
Hình 2.4. Khảo sát địa chất tại vùng An Châu (ảnh tư liệu)
20
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Đệ Tam vượt trên 3 km, cũng đã phát hiện 
nhiều cấu tạo đa dạng chịu tác động của 
các hoạt động kiến tạo mạnh mẽ…
Các nghiên cứu về thạch học, trầm tích, 
cổ sinh (vi cổ sinh, bào tử phấn hoa…) đã 
được triển khai (Trầm tích và điều kiện 
thành tạo trầm tích Neogen-Đệ Tứ miền 
trũng Hà Nội. Glovênok V.K., Lê Văn 
Chân. 1966,..) trong đó phải kể đến công 
trình tổng hợp tài liệu đầu tiên là báo cáo 
“Cấu trúc địa chất và triển vọng dầu khí 
của miền trũng Hà Nội” của Kisliakov 
V.N., Golovenok V.K. (1970). Trong giai 
đoạn này đã hình thành dần quan điểm triển 
vọng dầu khí ở vùng trũng Hà Nội tăng dần 
về phía biển.
Ngoài vùng trũng Hà Nội, công tác 
khảo sát địa chất, địa vật lý (trọng lực và 
điện) và một vài giếng khoan cấu tạo tìm 
kiếm cũng được triển khai ở vùng trũng 
Mesozoi An Châu (Nguyễn Quang Hạp, 
1965-1967; Nguyễn Hiệp, 1972; Trần Ngọc 
Toản, 1974), các kết quả đã được tổng 
hợp trong báo cáo “Cấu trúc địa chất và 
triển vọng chứa dầu vùng trũng An Châu” 
(1967-1970) do Ngô Thường San chủ biên. 
Song một số chuyên gia địa chất (Makarov. 
1972) lại cho rằng vùng này không có triển 
vọng dầu khí vì cấu trúc địa chất vùng này 
không thuận lợi cho khả năng sinh, chứa, 
chắn dầu khí.
b. Miền Nam Việt Nam
Trong khi ở miền Bắc Việt Nam hoạt 
động địa chất nói chung và tìm kiếm thăm 
dò dầu khí nói riêng được đẩy mạnh thì ở 
Hình 2.6. Giếng khoan thăm dò phát hiện khí 
đầu tiên ở Tiền Hải C Miền Võng Hà Nội 
(ảnh tư liệu)
Hình 2.5. Giếng khoan thăm dò ở châu thổ 
sông Hồng (ảnh tư liệu)
21
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
miền Nam Việt Nam chính quyền Sài Gòn 
không tiến hành gì nhiều hoạt động địa chất 
trên đất liền, ngoài việc một số nhà địa chất 
Pháp như Saurin E., Fontaine H. và một số 
nhà địa chất Việt Nam như Tạ Trần Tấn, 
Nguyễn Lan Tú, Hoàng Thị Thân, Trần 
Kim Thạch, Nguyễn An Cư… hoặc chỉnh 
lý các nghiên cứu trước đây hoặc nghiên 
cứu về kiến tạo, địa tầng, hoá đá, suối nước 
nóng… ở một số vùng trên đất liền và một 
số hòn đảo. Cũng đã xuất bản một số tờ 
bản đồ địa chất tỷ lệ nhỏ 1:500.000 (các tờ 
Nha Trang, Vĩnh Long, Sài Gòn…), đáng kể 
nhất là công trình của Fontaine H., tái bản 
lần thứ ba bản đồ địa chất Đông Dương tỷ 
lệ 1:2.000.000 do Fromaget J. và Saurin E. 
thành lập, có hiệu đính phần Nam vĩ tuyến 
17 (1971) và Từ điển địa tầng Đông Dương 
của Saurin E., 1956 [23].
Năm 1967, Sở Hải dương Hoa Kỳ đo từ 
hàng không trên toàn miền Nam Việt Nam 
tỷ lệ 1:250.000.
Năm 1968 Bộ Phát triển hải ngoại Anh 
tiến hành khảo sát địa chấn khúc xạ (khoảng 
290 km tuyến) và phản xạ (370 km tuyến) 
ngoài khơi khu vực đảo Thổ Chu, kết quả 
cho biết chiều dày trầm tích Mesozoi ở đây 
có thể tới 3-4 km [2]. Cùng năm công ty 
Alpine Geophysical Corporation đo 19.500 
km tuyến địa chấn và lấy mẫu ở Biển 
Đông.
Năm 1969-1970 công ty Ray 
Geophysical Mandrel khảo sát 12.121 km 
tuyến địa chấn, từ và trọng lực ở thềm lục 
địa Nam Việt Nam.
Năm 1969 Hồ Mạnh Trung dựa trên 
tài liệu từ hàng không công bố “Khảo lược 
cấu trúc đồng bằng sông Cửu Long và thảo 
luận về vấn đề dầu mỏ” [11]. Sau đó (1971) 
Bosum W.E., Kind E.G., Hồ Mạnh Trung 
nghiên cứu cấu trúc châu thổ Mêkông dựa 
trên tài liệu từ hàng không cho rằng ở các 
bồn trầm tích Cần Thơ, Cà Mau trầm tích 
dày từ 3-5 km. Các trầm tích Lias, Trias và 
có thể trẻ hơn cùng với đá vôi Permi có thể 
có giá trị tìm kiếm dầu khí [1].
Ngày 1-12-1970 chính quyền Sài Gòn 
ban hành đạo luật số 011/70 ấn định việc 
tìm kiếm khai thác dầu mỏ cùng điều kiện 
thuế khoá và hối đoái. Tháng 1-1971 Uỷ 
ban Quốc gia dầu mỏ được thành lập theo 
sắc lệnh số 003-SLKT ngày 7-1-1971. Sau 
đó thành lập Tổng cuộc dầu hỏa và khoáng 
sản.
Tháng 6-1971 Bộ Kinh tế công bố Nghị 
định số 249/BKT/UBQGDH ngày 9-6-1971 
về cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm thăm 
dò dầu mỏ tại thềm lục địa Việt Nam Cộng 
hoà và quy định cho đấu thầu đặc nhượng. 
Tổng cộng có 61 lô được đưa ra đấu thầu.
Năm 1972 công ty GSI (Geological 
Service Inc.) khảo sát 5.000 km địa chấn 
2D khu vực miền Trung và quần đảo Hoàng 
Sa.
Tháng 6-1973 công ty Robertson 
Research International Limited (Anh) và 
BEICIP (Bureau d’Etudes Industrielles et 
de Cooperation de l’Institut Francais du 
Pétrole - Pháp) phối hợp làm báo cáo “Địa 
chất và khai thác hydrocarbon ở ngoài khơi 
Nam Việt Nam” tập trung đánh giá khả 
năng sinh, chứa, chắn, bẫy ở bể Cửu Long, 
vịnh Thái Lan và bể Sài Gòn [22].
Cùng thời gian này chính quyền Sài 
Gòn tổ chức đấu thầu đợt 1 trên 8 lô cho 
4 nhóm công ty: Pecten Việt Nam (lô 06, 
07, 08. TLĐ); công ty Mobil Oil (lô 03, 04 
TLĐ); công ty Sunningdale (lô 01, 02.TLĐ) 
22
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
và công ty ESSO (lô 05 TLĐ) với tổng diện 
tích 57.223 km2, trong đó 4 lô ở bể Cửu 
Long, 4 lô ở bể Nam Côn Sơn (Hình 2.7).
Hình 2.7. Dự định đặc nhượng tìm kiếm 
khai thác dầu khí (dùng trong nghị định 
gọi thầu ngày 19/2/1974)
 Tháng 4-1974 đấu thầu đợt 2 với 9 lô 
cho 5 nhóm công ty: công ty Mobil-Keiyo 
(lô 12A, 12B TLĐ); Pecten BHP (lô 09 
TLĐ); IOL (lô 10 TLĐ) Marathon (lô 11 
TLĐ), OMO (lô 10, 14, 19, 23 TLĐ) với 
diện tích mỗi lô là 4.500 km2 (Hình 2.8).
Hình 2.8. Khu vực hợp đồng giai đoạn 1973-1975
 Sau khi trúng thầu các công ty đã tiến 
hành đo địa chấn với mạng lưới 8x8 km, 
4x4 km trên toàn lô và 2x2 km trên các 
diện tích có triển vọng. Tổng chiều dài đo 
địa chấn trong thời gian này lên tới 87.908 
km. 
Cuối năm 1974 đầu 1975 công ty Pecten 
và Mobil đã khoan 6 giếng tìm kiếm trên 
5 cấu tạo, trong đó có 4 giếng khoan và 1 
giếng chưa kết thúc ở bể Nam Côn Sơn, 1 
giếng khoan ở bể Cửu Long.
Giếng Hồng-1X (lô 8 TLĐ) đạt chiều 
sâu 1640 m, phát hiện dầu trong lớp cát kết 
nhưng không có giá trị thương mại.
Giếng Dừa-1X (lô 8 TLĐ) sâu 4.039 m 
gặp dầu ở độ sâu 3.048-3.352 m thử vỉa cho 
lưu lượng 1.514 barel (240 m3) dầu/ngày và 
164.000 m3 khí/ngày.
Giếng Bạch Hổ-1X (lô 04 TLĐ) sâu 
3.026 m gặp nhiều lớp cát kết chứa dầu 
ở độ sâu 2.750-2.860 m. Thử vỉa cho lưu 
lượng 2.400 barel (380 m3) dầu/ngày và 
25.000 m3 khí/ngày.
 Giếng Dừa-2X (lô 08 TLĐ) với độ sâu 
3.652 m ngày 1-4-1975, bỏ dở khoan.
Giếng Mía-1X (lô 06 TLĐ) sâu 3.353 m 
gặp áp suất cao không thử vỉa được.
Giếng Đại Hùng-1X khoan đến độ sâu 
1.829 m (tháng 4/1975) thì bỏ dở khoan.
4.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay
Sau khi Việt Nam thống nhất hai miền 
Nam Bắc (30-4-1975), Chính phủ Việt Nam 
đẩy mạnh công tác địa chất, tìm kiếm thăm 
dò khoáng sản nói chung và đặc biệt là tìm 
kiếm thăm dò dầu khí trên cả nước. 
Ngày 3-9-1975 Tổng cục Dầu mỏ và 
Khí đốt Việt Nam được thành lập trực thuộc 
Chính phủ. Tháng 8-1977 Công ty Dầu khí 
quốc gia Việt Nam gọi tắt là Petrovietnam 
được thành lập trực thuộc Tổng cục Dầu 
khí. Tháng 4-1990 Tổng cục Dầu khí nhập 
vào Bộ Công nghiệp nặng. Tháng 7-1990 
23
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
thành lập Tổng công ty Dầu khí Việt Nam 
có tên giao dịch quốc tế là Petrovietnam. 
Tháng 4-1992, Tổng công ty Dầu khí Việt 
Nam tách khỏi Bộ Công nghiệp nặng trực 
thuộc Thủ tướng Chính phủ. Theo quyết 
định số 330/TTG ngày 29-5-1995 của Thủ 
tướng Chính phủ, Tổng công ty Dầu khí 
Việt Nam là Tổng công ty Nhà nước có tên 
giao dịch quốc tế là Vietnam Oil and Gas 
Corporation viết tắt là Petrovietnam, có 
các chức năng nhiệm vụ: nghiên cứu, tìm 
kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí, chế biến, 
tàng trữ, vận chuyển, dịch vụ dầu khí, xuất 
nhập vật tư thiết bị dầu khí, dầu thô và sản 
phẩm dầu khí; phân phối sản phẩm dầu khí 
và các hoạt động kinh doanh khác phù hợp 
với luật pháp Việt Nam và các nhiệm vụ 
được giao khác.
Ở miền Bắc Việt Nam Tổng cục Dầu 
khí tiếp tục chỉ đạo các đơn vị trong ngành 
triển khai khảo sát trọng lực chi tiết (tỷ 
lệ 1:50.000; 1:25.000) ở vùng Đông Nam 
trũng Hà Nội và vùng nước nông ven biển 
Thái Bình, Nam Định (Giang Công Thịnh, 
Phan Quang Quyết 1976-1982); khảo sát 
địa chấn phương pháp điểm sâu chung tỷ lệ 
1:50.000 với 3.197 km tuyến ở Đông Nam 
và Bắc trũng Đông Quan, Kiến Xương, 
Tiền Hải, Đông Hoàng… và 223 km ở vùng 
nước nông vịnh Bắc Bộ (Đỗ Văn Lưu, Đào 
Quang An, Phạm Dương, Đỗ Văn Hậu… 
1975 - 1981). Cuối năm 1981 tiến hành 
2.555 km tuyến địa chấn mật độ quan sát 
5x5 km trên diện tích 6.500 km2 ở vịnh Bắc 
Bộ bằng tàu địa chấn Bình Minh (Đỗ Văn 
Hậu, 1981) (Hình 2.9). Trong giai đoạn này 
đã tiến hành 32 giếng khoan với 78.842 m 
khoan. Đã phát hiện được mỏ khí Tiền Hải 
“C” (Hình 2.10).
 Năm 1977, Sevostianov K.M., Lê 
Trọng Cán và nnk. hoàn thành báo cáo 
“Cấu trúc địa chất, triển vọng dầu khí và 
phương hướng công tác tiếp theo ở miền 
trũng Hà Nội“ [20], năm 1983 Skorduli 
Hình 2.9. Tàu địa chấn Bình Minh (ảnh tư liệu)
24
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
V.D., Khuduk M.N., Nguyễn Ngọc Cư hoàn 
thành báo cáo “Tổng kết nghiên cứu thăm 
dò địa chất dầu khí miền trũng Hà Nội từ 
1962-1982“ [21]. Năm 1987 Nguyễn Văn 
Đắc và nnk. hoàn thành báo cáo “Kết quả 
công tác thăm dò địa chất dầu khí miền 
võng Hà Nội giai đọan 1980-1985“ [16].
Năm 1981 bắt đầu khai thác thử công 
nghiệp mỏ khí Tiền Hải “C” phục vụ cho 
phát điện (12MW) và công nghiệp địa 
phương tỉnh Thái Bình.
Tháng 11-1975 Tổng cục Dầu khí thành 
lập Công ty Dầu khí Nam Việt Nam (sau đó 
1978 chuyển thành Công ty Dầu khí 2) để 
tiến hành tìm kiếm thăm dò dầu khí ở miền 
Nam Việt Nam.
Dựa trên kết quả thu thập các tài liệu 
đã thành lập báo cáo “Cấu trúc địa chất và 
triển vọng dầu khí thềm lục địa Việt Nam” 
(Hồ Đắc Hoài, Ngô Thường San. 1975) [10] 
và báo cáo “Cấu trúc địa chất trũng Cửu 
Long và rìa kế cận, triển vọng dầu mỏ và 
khí thiên nhiên” (Đoàn Thiện Tích. 1977) 
[6].
Đã tiến hành khảo sát trọng lực tỷ lệ 
1:200.000 vùng châu thổ sông Cửu Long; 
địa chấn phản xạ khu vực Long Toàn và 
vùng biển Bạc Liêu. Thuê công ty CGG 
(Pháp. 1975) khảo sát 12.109 km tuyến 
địa chấn theo các sông ở đồng bằng sông 
Cửu Long và vùng ven biển Vũng Tàu Côn 
Đảo. Thuê công ty GECO (Na Uy. 1978) 
khảo sát địa chấn gần 12 nghìn km tuyến 
trên các lô 09, 16, 19, 20, 21 với mạng 
lưới tuyến 8x8 km; 4x4 km; 2x2 km và 1x1 
km. Năm 1978 tiến hành khoan giếng Cửu 
Long 1 (CL-1) đạt độ sâu 2.120 m và tiếp 
sau là giếng Hậu Giang 1 với độ sâu 813 
m, các giếng khoan này đều khô (Nguyễn 
Giao,1984) [15].
Cũng trong thời gian này Petrovietnam 
đã ký hợp đồng thăm dò dầu khí với các 
công ty Deminex (Đức) lô 15, AGIP (Ý) lô 
4 và 12, Bow Valley (Canada) lô 28 và 29. 
từ 1978-1980 các công ty trên đã tiến hành 
khảo sát 11087 km tuyến địa chấn, khoan 
12 giếng trong đó 2 giếng phát hiện dầu 
(15A.1X, 15B.1X), 3 giếng phát hiện khí 
(12B-1X, 12C-1X, 04A-1X), 2 giếng gặp 
sự cố kỹ thuật, 5 giếng khô (Hình 2.11).
Hình 2.11. Khu vực hợp đồng giai đoạn 1975-1980
 Trên cơ sở tổng hợp các tài liệu Ngô 
Thường San chủ biên báo cáo “Cấu trúc 
địa chất và triển vọng dầu khí thềm lục địa 
phía Nam Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt 
Hình 2.10. Mỏ khí Tiền Hải (ảnh tư liệu)
25
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
Nam” (1975-1980) [14].
Ngày 3-7-1980 Hiệp định hợp tác giữa 
Liên Xô (cũ) và Việt Nam về việc thăm dò 
và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt 
Nam được ký kết. Ngày 19-6-1981 Chính 
phủ Việt Nam và Liên Xô (cũ) ký kết 
Hiệp định thành lập Xí nghiệp liên doanh 
dầu khí Việt-Xô (viết tắt là Vietsovpetro). 
Ngày 7-11-1981 Vietsovpetro chính thức đi 
vào hoạt động.
Khảo sát địa vật lý (từ, trọng lực, địa 
chấn) được tiến hành trên thềm lục địa Việt 
Nam do Liên đoàn địa vật lý Viễn Đông 
Liên Xô thực hiện với các tàu POISK, 
ISKATEL, Viện sỹ Gambuaxev, Malưgin 
theo các mạng lưới từ khu vực đến chi tiết.
Trên cơ sở tài liệu địa vật lý, đã phát 
hiện được nhiều cấu tạo có triển vọng dầu 
khí. Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro bắt 
đầu tiến hành khoan tìm kiếm trên các cấu 
tạo Bạch Hổ, Rồng (Hình 2.12).
Hình 2.12. Tàu khoan Mikhain Mirchin phát hiện 
thấy dầu trong tầng Miocen tại giếng số 5 mỏ Bạch 
Hổ (tháng 5-1984) (ảnh tư liệu)
 Giếng BH-5 khoan ngày 31-12-1983 
bằng tàu khoan Mikhain Mirchin ở phần 
đỉnh vòm Nam cấu tạo có độ sâu 3.001 
m, thử vỉa 2.782-2.826 m trong trầm tích 
Miocen dưới cho lưu lượng 26,3 m3 dầu/
ngày qua đường kính ống xả 7,9 mm (tháng 
5 - 1984).
Giếng BH-4 khoan ở phần Đông Bắc 
của đỉnh vòm phía Bắc cấu tạo, dừng ở độ 
sâu 3.501 m, thử vỉa khoảng 2.519-2.845 m 
trong trầm tích Miocen dưới cho lưu lượng 
206,3m3 dầu/ngày; thử 7 vỉa trong trầm tích 
Oligocen khoảng 3.100-3.470,5 m cho lưu 
lượng từ 90 đến 338 m3 dầu/ngày.
Giếng Rồng-1X được khoan ở đỉnh cấu 
tạo Rồng đã gặp móng biến chất ở độ sâu 
2501 m, phát hiện 1 vỉa dầu với lưu lượng 
53m3 dầu/ngày.
Ngày 6-11-1984 chân đế giàn khoan cố 
định đầu tiên của ngành dầu khí Việt Nam 
được hạ thuỷ và sau đó giàn khoan cố định 
(MSP-1) được hoàn thành xây lắp. Ngày 
26-6-1986 từ giàn khoan này khai thác tấn 
dầu đầu tiên tại mỏ Bạch Hổ (Hình 2.13).
Hình 2.13. Xây lắp giàn khoan đầu tiên 
(ảnh tư liệu)
 Nếu năm 1981 đánh dấu bằng sự kiện 
khai thác mét khối khí thiên nhiên đầu tiên 
ở Việt Nam từ mỏ khí Tiền Hải “C” (Thái 
Bình) trên đất liền, thì năm 1986 đánh dấu 
mốc khai thác tấn dầu thô đầu tiên của 
mỏ Bạch Hổ ngoài khơi Việt Nam (Hình 
2.14).
Tại giếng khoan BH-6 ngày 11-5-1987 
đã phát hiện tầng dầu trong đá móng có tuổi 
trước Kainozoi và sau đó tại giếng khoan 
26
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
N0-1(MSP-1) đã khẳng định điều này với 
lưu lượng trên 1.000 tấn dầu/ngày. Ngày 
6-9-1988 bắt đầu khai thác dầu từ tầng 
móng mỏ Bạch Hổ mở ra một triển vọng 
mới không những tăng đáng kể sản lượng 
khai thác ở mỏ Bạch Hổ mà còn thay đổi 
rất lớn về đối tượng tìm kiếm và khai thác 
dầu khí truyền thống ở bể Cửu Long nói 
Hình 2.14. Tàu chở dầu mỏ Bạch Hổ (ảnh tư liệu)
Hình 2.15. Giàn công nghệ trung tâm mỏ Bạch Hổ (ảnh tư liệu)
27
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
riêng, ở thềm lục địa Việt Nam nói chung 
(Hình 2.15).
Ngoài phát hiện mỏ Bạch Hổ và Rồng, 
ngày 18-7-1988 giếng khoan ĐH-1 tại cấu 
tạo Đại Hùng cũng đã phát hiện thấy dầu, 
và ngày 14-10-1994 barel dầu đầu tiên đã 
được khai thác tại đây.
Từ năm 1988 Chính phủ Việt Nam thực 
hiện đường lối đổi mới. Luật Đầu tư nước 
ngoài ở Việt Nam được ban hành (1987), 
sau đó là Luật Dầu khí (1993) được bổ sung 
và sửa đổi vào năm 2000 và nhất là khi 
có Nghị quyết 15 (1988) của Bộ Chính trị 
Đảng Cộng sản Việt Nam về phương hướng 
Hình 2.16a. Số lượng hợp đồng và tổng chi phí
28
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
và nhiệm vụ phát triển ngành dầu khí thì 
hoạt động dầu khí được triển khai một cách 
mạnh mẽ bao gồm tất cả các lĩnh vực từ 
thượng nguồn, trung nguồn và hạ nguồn.
Lần đầu tiên ở Việt Nam hợp đồng 
tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí dưới 
dạng Hợp đồng chia sản phẩm (PSC- 
Production Sharing Contract) được ký kết 
Hình 2.16b. Hoạt động dầu khí ở Việt Nam
29
Chương 2. Hoạt động điều tra địa chất, thăm dò và khai thác dầu khí
giữa Petrovietnam và công ty dầu khí quốc 
gia Ấn Độ ONGC vào ngày 18-5-1988 ở 
lô 06 và 12E thuộc bể Nam Côn Sơn; sau 
đó có sự tham gia của công ty dầu khí Anh 
BP và công ty dầu khí Nauy Statoil. Ngày 
15-6-1988 ký hợp đồng với công ty Shell 
tại lô 112, 114 ở bể sông Hồng… Sau này 
Petrovietnam càng ngày càng tham gia tích 
cực trong việc triển khai các hợp đồng cho 
nên ngoài các hợp đồng dạng PSC, hợp 
đồng hợp tác kinh doanh (BCC – Business 
cooperation contract) còn ký các hợp đồng 
thành lập các công ty cùng điều hành (JOC-
Joint Operating Company).
Từ 1988 đến nay Petrovietnam đã ký 
trên 50 hợp đồng PSC, BCC và JOC đã tiến 
hành trên 250 nghìn km địa chấn 2D, gần 
12 nghìn km2 địa chấn 3D, khoan 419 giếng 
tìm kiếm, thăm dò, thẩm lượng và khai thác 
có tổng chiều dài trên 1,5 triệu km (Hình 
2.16a, 2.16b).
Kết quả đã phát hiện hàng trăm cấu tạo 
có triển vọng và hàng chục mỏ dầu khí đã 
và đang chuẩn bị đưa vào khai thác. 
Năm 2002 Vũ Văn Kính, Nguyễn Văn 
Đắc và nnk hoàn thành báo cáo “Tổng hợp 
đánh giá kết quả tìm kiếm, thăm dò dầu khí 
ở Việt Nam giai đoạn 1988-2000 và phương 
hướng tìm kiếm thăm dò tiếp theo “. Đây là 
một công trình tổng hợp có tác dụng quan 
trọng thúc đẩy sự phát triển ngành dầu khí 
Việt Nam. [25].
Hình 2.18. Nhà máy khí hóa lỏng LPG Dinh Cố 
(ảnh tư liệu)
Năm 1993 Petrovietnam bắt đầu triển 
khai xây dựng hệ thống thu gom và vận 
chuyển khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ vào 
đất liền phục vụ cho nhà máy điện Bà Rịa-
Vũng Tàu và Phú Mỹ. Hệ thống gồm giàn 
nén khí trung tâm, đường ống 16 inches 
(40,64 cm) dài trên 110 km ngoài biển và 
trên 50 km trên bờ (đến Phú Mỹ) có công 
suất 5,5 triệu m3/ngày. Tháng 1 năm 1999 
nhà máy khí hoá lỏng LPG Dinh Cố bắt 
đầu hoạt động cung cấp mỗi ngày gồm 4 
triệu m3 khí khô, 400 tấn condensat, 530 
tấn butan và 410 tấn propan đáp ứng 1/2 
Hình 2.17. Giàn nén khí trung tâm mỏ Bạch Hổ 
(ảnh tư liệu)
30
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
nhu cầu LPG hiện nay của cả nước (Hình 
2.17, 2.18, 2.19).
Sản lượng khai thác dầu thô và khí thiên 
nh
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_2_7531.pdf dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_2_7531.pdf