Báo cáo Môi trường quốc gia 2011 chất thải rắn

Cả nước có 2 đô thị loại đặc biệt (Hà Nội, Tp. HCM); 3 đô thị loại 1 trực

thuộc Trung ương (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ); 7 đô thị loại 1 trực thuộc

tỉnh (Hạ Long, Huế, Vinh, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột);

12 đô thị loại 2 (Biên Hòa, Cà Mau, Hải Dương, Long Xuyên, Mỹ Tho, Nam

Định, Phan Thiết, Pleiku, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Việt Trì, Vũng Tàu); 47

đô thị loại 3; 50 đô thị loại 4 và hơn 630 đô thị loại 5.

Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã trở thành nhân tố tích cực

đối với phát triển KT-XH của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích

về KT-XH, đô thị hóa nhanh đã tạo ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy

giảm chất lượng môi trường và phát triển không bền vững. Các hoạt động

sản xuất, sinh hoạt tăng theo và lượng chất thải cũng tăng theo. Tính bình

quân người dân đô thị tiêu dùng năng lượng, đồ tiêu dùng, thực phẩm,.

cao gấp 2 - 3 lần người dân nông thôn kéo theo lượng rác thải của người

dân đô thị cũng gấp 2 - 3 lần người dân nông thôn.

Dân số đô thị nước ta phân bố không đồng đều và có sự khác biệt lớn

theo vùng. Tính đến năm 2010, dân số đô thị khu vực Đông Nam Bộ cao

nhất cả nước với 8,35 triệu người, tiếp theo đó là vùng Đồng bằng sông

Hồng với 5,86 triệu người, khu vực có số dân đô thị ít nhất là Tây Nguyên

với 1,5 triệu người. Mật độ dân số theo đó cũng cao chủ yếu ở 3 vùng

kinh tế lớn là Đồng bằng sông Hồng (939 người/km2), Đông Nam Bộ (617

người/km2) và Đồng bằng sông Cửu Long (426 người/km2) (mật độ dân số

trung bình toàn quốc vào khoảng 263 người/km2). Những con số trên cho

thấy, phát sinh CTR đô thị sẽ tập trung phần lớn ở vùng Đông Nam Bộ và

Đồng bằng sông Hồng

pdf152 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Môi trường quốc gia 2011 chất thải rắn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g khối lượng đăng ký trên 2.000 tấn/tháng. Nguồn: Cục Quản lý chất thải và Cải thiện môi trường, TCMT, 2011 1. Thông tư 12/2006/TT-BTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006 của Bộ TN&MT Chương 4: Chất thải rắn công nghiệp 75 đường vành đai. Chất thải phát sinh từ các cơ sở ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất phải được vận chuyển trên các tuyến đường xuyên tâm đến các tuyến đường vành đai. Một số KCN có cơ sở hạ tầng và công ty dịch vụ thuộc Ban quản lý các KCN phụ trách công tác thu gom chất thải. Tỷ lệ thu gom CTR công nghiệp trung bình đang tăng lên cả ở trong và ngoài KCN, nhưng vẫn còn thấp ở một số thành phố. Hiện chưa có số liệu đầy đủ về tỷ lệ thu gom CTR công nghiệp ở từng thành phố của Việt Nam. Tỷ lệ thu gom tại các KCN tương đối cao hơn so với bên ngoài KCN. 4.5.3. Xử lý, tiêu hủy chất thải công nghiệp nguy hại Theo Quy hoạch các khu xử lý CTR công nghiệp liên vùng, liên tỉnh, đến năm 2020, 4 vùng KTTĐ đều sẽ xây dựng khu xử lý CTR công nghiệp và CTNH. Đó là các khu xử lý Nam Sơn, Sơn Dương ở vùng KTTĐ Bắc Bộ; Hương Văn, Bình Nguyên, Cát Nhơn ở vùng KTTĐ miền Trung; Tân Thành, khu xử lý CTR công nghiệp nguy hại Tây Bắc Củ Chi ở vùng KTTĐ phía Nam; khu xử lý CTR công nghiệp và CTNH vùng liên tỉnh ở vùng KTTĐ vùng ĐBSCL. Cho đến nay, các khu xử lý CTR công nghiệp liên tỉnh, liên vùng này hầu như chưa được hình thành. Số lượng các đơn vị hành nghề vận chuyển và xử lý CTNH được Bộ TN&MT cấp phép gia tăng hàng năm. Tính đến tháng 6 năm 2011, Bộ TN&MT đã cấp 80 Giấy phép hành nghề vận chuyển CTNH và 43 Giấy phép hành nghề xử lý CTNH cho các cá nhân, tổ chức đăng ký. Các doanh nghiệp này được Bộ TN&MT hoặc Sở TN&MT cấp tỉnh cấp giấy phép hoạt động. Hầu hết các doanh nghiệp thu gom và xử lý CTR công nghiệp nguy hại đều tập trung ở phía Nam. Biểu đồ 4.3. Số lượng doanh nghiệp vận chuyển và xử lý CTNH công nghiệp Nguồn: TCMT, 2011 Nguồn: TCMT, 2009 Bảng 4.12. Số lượng công ty xử lý chất thải nguy hại được Bộ TN&MT cấp phép năm 2009 Tỉnh/thành phố Công ty được cấp phép Thu gom/ vận chuyển Xử lý Tp. Hồ Chí Minh 23 16 20 Hà Nội 14 3 12 Bình Dương 7 4 7 Đồng Nai 5 1 5 Hải Phòng 3 2 3 Bà Rịa-Vũng Tàu 3 0 3 Hưng Yên 3 1 3 Hải Dương 3 1 2 Bắc Ninh 3 2 2 Đà Nẵng 2 1 2 Phúc Yên 2 1 2 Quảng Ninh 1 0 1 Huế 0 0 0 Tổng 69 32 62 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 76 Số lượng CTNH công nghiệp được xử lý cũng tăng theo các năm. Theo kết quả thống kê từ năm 2008 đến nay, dựa trên báo cáo của các chủ xử lý, lượng CTNH được xử lý tăng từ 85.264 lên đến 129.688 tấn/năm (tăng 34%). Hiện nay, công nghệ xử lý CTNH đang được áp dụng phổ biến ở Việt Nam, bao gồm lò đốt tĩnh hai cấp (trên 50%), hoá rắn (bê tông hoá), chôn lấp... (Bảng 4.13 và Khung 4.4) Đánh giá hiệu quả xử lý và môi trường của các công nghệ đã được cấp phép, theo báo cáo quản lý CTNH định kỳ, báo cáo giám sát môi trường của các cơ sở xử lý CTNH do Bộ TN&MT cấp phép cũng như kết quả thanh tra, kiểm tra những năm vừa qua cho thấy hầu hết các công nghệ xử lý CTNH đã được cấp phép đều đảm bảo tuân thủ các quy định hiện hành, đảm bảo hiệu quả xử lý cam kết khi đăng ký hành nghề, phát thải đạt các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Biểu đồ 4.4. Lượng CTNH công nghiệp được xử lý hàng năm Nguồn: TCMT, 2011 Nguồn: TCMT, 2011 TT Tên công nghệ Số cơ sở áp dụng Số mô đun hệ thống Công suất 1 Lò đốt tĩnh hai cấp 23 28 50 - 1000 kg/h 2 Đồng xử lý trong lò nung xi măng 2 2 30 tấn /h 3 Chôn lấp 2 3 15.000 m3 4 Hóa rắn (bê tông hóa) 19 19 1 - 5 m3/h 5 Xử lý, tái chế dầu thải 20 20 3-20 tấn/ngày 6 Xử lý bóng đèn thải 10 10 0,2 tấn/ngày 7 Xử lý chất thải điện tử 6 6 0,3 - 5 tấn/ngày 8 Phá dỡ, tái chế ắc quy chì thải 9 9 0,5 - 200 tấn/ngày 9 Tái chế dung môi 13 13 0,25 - 1,2 m3/h 10 Xúc rửa thùng phi 15 15 60 - 1000 phuy/ngày 11 Xử lý nước thải 20 23 6 - 25 m3/h 12 Tận thu kim loại (xử lý xỉ kẽm, tận thu muối kim loại) 4 10 0,1 - 1 tấn/h Bảng 4.13. Các công nghệ xử lý CTNH điển hình và phổ biến hiện nay tại Việt Nam Chương 4: Chất thải rắn công nghiệp 77 Nhìn chung, các công nghệ hiện có của Việt Nam còn chưa hiện đại, sử dụng các công nghệ đa dụng cho nhiều loại CTNH và thường ở quy mô nhỏ, nhưng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu xử lý CTNH. Tuy nhiên, để thực sự đảm bảo công tác quản lý CTNH đạt yêu cầu, cần phát triển công nghệ xử lý CTNH tại Việt Nam cả về chất lượng và số lượng. Ngoài ra, cần nghiên cứu chuyên biệt hoá các công nghệ để xử lý các loại CTNH đặc thù. Bên cạnh đó cần phải tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra để đảm bảo các công nghệ đã được cấp phép hoạt động tuân thủ đúng quy định, đạt các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Đối với các loại CTNH đặc thù nên xây dựng quy trình xử lý chuyên biệt để đảm bảo an toàn cho môi trường xung quanh. Nhưng để lựa chọn công nghệ xử lý CTR phù hợp điều kiện của Việt Nam không đơn giản, do đó cần thiết phải xây dựng và ban hành các bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật... làm cơ sở khoa học cho các công nghệ xử lý chất thải. Để công tác bảo vệ môi trường thực hiện có hiệu quả, Nhà nước không chỉ quan tâm đến vấn đề quản lý, thanh tra, xử phạt mà cần thiết phải chú trọng đến vấn đề quản lý thị trường và quy hoạch công nghệ xử lý CTNH. Có như vậy mới có thể tránh cho doanh nghiệp những rủi ro không đáng có, đồng thời nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường của các đơn vị sản xuất. Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 78 Khung 4.5. Các công nghệ xử lý CTNH điển hình và phổ biến hiện nay tại Việt Nam a) Lò đốt tĩnh hai cấp Đây là loại công nghệ phổ biến được sử dụng nhiều ở Việt Nam với tổng số 28 lò đốt. Nhà máy xử lý rác Đại Đồng (Công ty URENCO Hà Nội) đã đầu tư một lò đốt rác với công suất 10 - 20 tấn/ngày, và là một trong những công trình xử lý chất thải công nghiệp lớn nhất tại vùng KTTĐ phía Bắc và đang trong quá trình thử nghiệm. Ở miền Trung, có hai lò đốt công nghiệp (công suất 100kg/h và 200kg/h) đang hoạt động tại Đà Nẵng. Ở miền Nam, có một số lò đốt công nghiệp như lò đốt của CITENCO (300kg/h, 4tấn/ngày), VINAUSEEN (500kg/h, 2tấn/ngày) đang hoạt động. Hệ thống xử lý khí thải lò đốt CTNH b) Đồng xử lý trong lò nung xi măng Công nghệ này được áp dụng tại hai cơ sở sản xuất xi măng ở Kiên Giang và Hải Dương. Do đặc thù của công nghệ sản xuất xi măng lò quay, có thể sử dụng CTNH làm nguyên liệu, nhiên liệu bổ sung cho quá trình sản xuất xi măng, chất thải được thiêu huỷ đồng thời trong lò nung xi măng ở nhiệt độ cao (trên 1300oC). Hệ thống lò nung xi măng và bộ phận nạp CTNH dạng lỏng c) Chôn lấp CTNH Công nghệ này hiện nay mới áp dụng ở Hà Nội và Bình Dương với dung tích của mỗi hầm chôn lấp từ 15.000 m3. Bãi chôn lấp CTNH, hay thực chất là các hầm chôn lấp, được thiết kế theo quy định tại Tiêu chuẩn xây dựng TCXDVN 320:2004 về Bãi chôn lấp chất thải nguy hại - Tiêu chuẩn thiết kế. Việc vận hành bãi chôn lấp CTNH thực hiện trên cơ sở Hướng dẫn kỹ thuật chôn lấp chất thải nguy hại ban hành kèm theo Quyết định số 60/2002/ QĐ-BKHCNMT ngày 07/8/2002 của Bộ trưởng Bộ KHCN&MT. Hầm chôn lấp CTNH Chương 4: Chất thải rắn công nghiệp 79 d) Hóa rắn (bê tông hóa) Công nghệ hóa rắn có ưu điểm là thiết bị, công nghệ đơn giản, sẵn có (có thể tự lắp đặt, chế tạo), dễ vận hành, có hiệu quả kinh tế vì có thể tận dụng sản xuất vật liệu xây dựng (gạch block, tấm đan). Tuy nhiên công nghệ hóa rắn chỉ xử lý an toàn đối với CTNH trơ, có thành phần vô cơ. Khả năng ổn định CTNH trong khối rắn thay đổi theo từng loại CTNH nên cần phải nghiên cứu kỹ quá trình cấp phối bê tông. Cần giám sát sản phẩm đầu ra để đảm bảo không vượt ngưỡng CTNH theo quy định tại QCVN 07: 2009/BTNMT. Máy trộn bê tông và máy ép gạch block để hoá rắn CTNH đ) Tái chế dầu thải Công nghệ tái chế dầu, gồm các loại: chưng cất cracking dầu (chưng phân đoạn hay còn gọi chưng nhiều bậc và chưng đơn giản hay chưng một bậc); phân ly dầu nước bằng phương pháp cơ học (ly tâm) và bằng nhiệt. Hệ thống chưng dầu thải phân đoạn (trái) và chưng đơn giản (phải) e) Xử lý bóng đèn huỳnh quang thải Công nghệ này có ưu điểm là chi phí đầu tư hợp lý, dễ vận hành, sau khi phân tách riêng bột huỳnh quang, thủy tinh có thể dùng làm nguyên liệu trong sản xuất xi măng hoặc tái sử dụng thủy tinh sạch. Tuy nhiên, sau khi xử lý bóng đèn thải, quá trình hấp thụ hơi thuỷ ngân có trong bóng đèn thải sẽ tạo ra chất thải mới cần xử lý là muối thuỷ ngân. Thiết bị xử lý bóng đèn thải g) Xử lý chất thải điện tử Đối với các cơ sở có lượng chất thải điện tử nhỏ thì việc phá dỡ thủ công là phù hợp, chủ yếu để đáp ứng đủ mã CTNH xử lý trong dịch vụ. Tuy nhiên, công đoạn phá dỡ thủ công có thể ảnh hưởng sức khỏe của công nhân do phải tiếp xúc trực tiếp với chất thải. Dây chuyền nghiền bản mạch điện tử (trái) và bàn phá dỡ đơn giản (phải) Chương 4: Chất thải rắn công nghiệp 81 Chương 5: Chất thải rắn y tế 83 Chương 5: CHẤT THẢI RẮN Y TẾ 5.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN CÁC BỆNH VIỆN VÀ CƠ SỞ KHÁM CHỮA BỆNH Hệ thống các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn toàn quốc được phân cấp quản lý theo tính chất chuyên khoa. Cụ thể, Bộ Y tế quản lý 11 bệnh viện đa khoa tuyến trung ương, 25 bệnh viện chuyên khoa tuyến trung ương; địa phương quản lý 743 bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh/thành phố, 239 bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh/thành phố, 595 bệnh viện đa khoa quận/huyện/thị xã và 11.810 trung tâm y tế các cấp; các đơn vị khác quản lý 88 Trung tâm/Nhà điều dưỡng/ bệnh viện tư nhân. (Cục Khám chữa bệnh - Bộ Y tế, 2009). Mức độ đáp ứng nhu cầu chữa trị tính chung trong cả nước tăng lên rõ rệt trong những năm gần đây, năm 2005 là 17,7 giường bệnh/1 vạn dân, đến năm 2009 là 22 giường bệnh/1 vạn dân (TCTK, 2011). Việc tăng số lượng giường bệnh thực tế do tăng nhu cầu về khám chữa bệnh đồng nghĩa với việc tăng khối lượng chất thải y tế cần phải xử lý. 5.2. PHÁT SINH CHẤT THẢI RẮN Y TẾ 5.2.1. Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế Nguồn phát sinh chất thải y tế chủ yếu là: bệnh viện; các cơ sở y tế khác như: trung tâm vận chuyển cấp cứu, phòng khám sản phụ khoa, nhà hộ sinh, phòng khám ngoại trú, trung tâm lọc máu...; các trung tâm xét nghiệm và nghiên cứu y sinh học; ngân hàng máu... Hầu hết các CTR y tế đều có tính chất độc hại và tính đặc thù khác với các loại CTR khác. Các nguồn xả chất lây lan độc hại chủ yếu là ở các khu vực xét nghiệm, khu phẫu thuật, bào chế dược (Bảng 5.1). (*) Không tính số cơ sở khám chữa bệnh tư nhân Biểu đồ 5.1. Sự phát triển của các điều kiện chăm sóc sức khỏe Nguồn: TCTK, 2011 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 84 5.2.2. Lượng phát sinh chất thải rắn y tế Theo nghiên cứu điều tra mới nhất của Cục Khám chữa bệnh - Bộ Y tế và Viện Kiến trúc, Quy hoạch Đô thị và Nông thôn - Bộ Xây dựng, năm 2009-2010, tổng lượng CTR y tế trong toàn quốc khoảng 100-140 tấn/ngày, trong đó có 16-30 tấn/ngày là CTR y tế nguy hại. Lượng CTR trung bình là 0,86 kg/giường/ ngày, trong đó CTR y tế nguy hại tính trung bình là 0,14 - 0,2 kg/giường/ngày. CTR y tế phát sinh ngày càng gia tăng ở hầu hết các địa phương, xuất phát từ một số nguyên nhân như: gia tăng số lượng cơ sở y tế và tăng số giường bệnh; tăng cường sử dụng các sản phẩm dùng một lần trong y tế; dân số gia tăng, người dân ngày càng được tiếp cận nhiều hơn với dịch vụ y tế. Loại CTR Nguồn tạo thành Chất thải sinh hoạt Các chất thải ra từ nhà bếp, các khu nhà hành chính, các loại bao gói.. Chất thải chứa các vi trùng gây bệnh Các phế thải từ phẫu thuật, các cơ quan nội tạng của người sau khi mổ xẻ và của các động vật sau quá trình xét nghiệm, các gạc bông lẫn máu mủ của bệnh nhân.. Chất thải bị nhiễm bẩn Các thành phần thải ra sau khi dùng cho bệnh nhân, các chất thải từ quá trình lau cọ sàn nhà... Chất thải đặc biệt Các loại chất thải độc hại hơn các loại trên, các chất phóng xạ, hóa chất dược... từ các khoa khám, chữa bệnh, hoạt động thực nghiệm, khoa dược Bảng 5.1. Nguồn phát sinh các loại CTR đặc thù từ hoạt động y tế Bảng 5.2. Khối lượng chất thải y tế của một số địa phương năm 2009 Ghi chú: (*) Số liệu năm 2006; (**) Số liệu năm 2007 Nguồn: Báo cáo Hiện trạng môi trường địa phương 2006-2010, Sở TN&MT các địa phương, 2010 Loại đô thị Tỉnh/Tp. Lượng CTR y tế (tấn/năm) Loại đô thị Tỉnh/Tp. Lượng CTR y tế (tấn/năm) Loại đô thị Tỉnh/Tp. Lượng CTR y tế (tấn/năm) Tỉnh có đô thị loại I Đắk Lắk 276,3 Tỉnh có đô thị loại III Bạc Liêu 134,8 Tỉnh có đô thị loại III Quảng Trị 272,116 Khánh Hòa 365 Bình Dương 1.241 Sóc Trăng 266,7 Lâm Đồng 209,3 Điện Biên 79,1 Sơn La 175 Nam Định 488 Hà Giang 405 Trà Vinh 400 (**) Nghệ An 187,6 Hà Nam 967 Vĩnh Long 340,26 Tỉnh có đô thị loại II An Giang 320,1 Hậu Giang 634,8 (*) Yên Bái 108,542 Cà Mau 159,5 Kiên Giang 642,4 Đô thị loại đặc biệt Hà Nội ~5000 Đồng Nai 430,8 Long An 369 Tp. Hồ Chí Minh 2800(**) Phú Thọ 126,54 Quảng Nam 602,25 Chương 5: Chất thải rắn y tế 85 Tính riêng cho 36 bệnh viện thuộc Bộ Y tế quản lý, theo khảo sát năm 2009, tổng lượng CTR y tế phát sinh trong 1 ngày là 31,68 tấn, trung bình là 1,53 kg/giường/ ngày. Lượng chất thải phát sinh tính theo giường bệnh cao nhất là bệnh viện Chợ Rẫy 3,72 kg/giường/ngày, thấp nhất là bệnh viện Điều dưỡng - Phục hồi chức năng Trung ương và bệnh viện Tâm thần Trung ương 2 với 0,01 kg/giường/ngày. Lượng CTR y tế phát sinh trong ngày khác nhau giữa các bệnh viện tùy thuộc số giường bệnh, bệnh viện chuyên khoa hay đa khoa, các thủ thuật chuyên môn được thực hiện tại bệnh viện, số lượng vật tư tiêu hao được sử dụng... (Bảng 5.3). Biểu đồ 5.2. Gia tăng chất thải y tế của một số địa phương giai đoạn 2005 - 2009 Nguồn: Sở TN&MT các địa phương, 2010 Khoa Tổng lượng chất thải phát sinh (kg/giường/ngày) Tổng lượng chất thải y tế nguy hại (kg/giường/ngày) BV TW BV Tỉnh BV Huyện Trung bình BV TW BV Tỉnh BV Huyện Trung bình Bệnh viện 0,97 0,88 0,73 0,86 0,16 0,14 0,11 0,14 Khoa hồi sức cấp cứu 1,08 1,27 1,00 0,30 0,31 0,18 Khoa nội 0,64 0,47 0,45 0,04 0,03 0,02 Khoa nhi 0,50 0,41 0,45 0,04 0,05 0,02 Khoa ngoại 1,01 0,87 0,73 0,26 0,21 0,17 Khoa sản 0,82 0,95 0,74 0,21 0,22 0,17 Khoa mắt/TMH 0,66 0,68 0,34 0,12 0,10 0,08 Khoa cận lâm sàng 0,11 0,10 0,08 0,03 0,03 0,03 Trung bình 0,72 0,7 0,56 0,14 0,13 0,09 Bảng 5.3. Lượng chất thải phát sinh tại các khoa trong bệnh viện Nguồn: Quy hoạch quản lý chất thải y tế, Bộ Y tế, 2009 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 86 5.2.3. Thành phần chất thải rắn y tế Hầu hết các CTR y tế là các chất thải sinh học độc hại và mang tính đặc thù so với các loại CTR khác. Các loại chất thải này nếu không được phân loại cẩn thận trước khi xả chung với các loại chất thải sinh hoạt sẽ gây ra những nguy hại đáng kể. Xét về các thành phần chất thải dựa trên đặc tính lý hóa thì tỷ lệ các thành phần có thể tái chế là khá cao, chiếm trên 25% tổng lượng CTR y tế, chưa kể 52% CTR y tế là các chất hữu cơ. Trong thành phần CTR y tế có lượng lớn chất hữu cơ và thường có độ ẩm tương đối cao, ngoài ra còn có thành phần chất nhựa chiếm khoảng 10%, vì vậy khi lựa chọn công nghệ thiêu đốt cần lưu ý đốt triệt để và không phát sinh khí độc hại. Biểu đồ 5.3. Thành phần CTR y tế dựa trên đặc tính lý hóa Nguồn: Kết quả điều tra của dự án hợp tác giữa Bộ y tế và WHO, 2009 Phân loại và lưu giữ CTR y tế tại một số bệnh viện Chương 5: Chất thải rắn y tế 87 5.3. PHÂN LOẠI, THU GOM VÀ VẬN CHUYỂN CHẤT THẢI RẮN Y TẾ Công tác thu gom, lưu trữ CTR y tế nói chung đã được quan tâm bởi các cấp từ Trung ương đến địa phương, thể hiện ở mức độ thực hiện quy định ở các bệnh viện khá cao. Chất thải y tế phát sinh từ các cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sự quản lý của Bộ Y tế, phần lớn được thu gom và vận chuyển đến các khu vực lưu giữ sau đó được xử lý tại các lò thiêu đốt nằm ngay trong cơ sở hoặc ký hợp đồng vận chuyển và xử lý đối với các cơ sở xử lý chất thải đã được cấp phép tại địa bàn cơ sở khám chữa bệnh đó. Đối với các cơ sở khám chữa bệnh ở địa phương do các Sở Y tế quản lý, công tác thu gom, lưu giữ và vận chuyển CTR chưa được chú trọng, đặc biệt là công tác phân loại và lưu giữ chất thải tại nguồn (chất thải y tế thông thường, chất thải y tế nguy hại...). Trong vận chuyển CTR y tế, chỉ có 53% số bệnh viện sử dụng xe có nắp đậy để vận chuyển chất thải y tế nguy hại; 53,4% bệnh viện có mái che để lưu giữ CTR... đây là những yếu tố để đảm bảo an toàn cho người bệnh và môi trường. Khung 5.1. Thống kê mức độ phân loại, thu gom chất thải trong các bệnh viện Có 95,6% bệnh viện đã thực hiện phân loại chất thải trong đó 91,1% đã sử dụng dụng cụ tách riêng vật sắc nhọn. Theo báo cáo kiểm tra của các tỉnh và nhận xét của đoàn kiểm tra liên Bộ, còn có hiện tượng phân loại nhầm chất thải, một số loại chất thải thông thường được đưa vào chất thải y tế nguy hại gây tốn kém trong việc xử lý. Có 63,6% sử dụng túi nhựa làm bằng nhựa PE, PP. Chỉ có 29,3% sử dụng túi có thành dày theo đúng quy chế. Chất thải y tế đã được chứa trong các thùng đựng chất thải. Tuy nhiên, các bệnh viện có các mức độ đáp ứng yêu cầu khác nhau, chỉ có một số ít bệnh viện có thùng đựng chất thải theo đúng quy chế (bệnh viện trung ương và bệnh viện tỉnh). Hầu hết ở các bệnh viện (90,9%) CTR được thu gom hàng ngày, một số bệnh viện có diện tích chật hẹp nên gặp khó khăn trong việc thiết kế lối đi riêng để vận chuyển chất thải. Chỉ có 53% số bệnh viện chất thải được vận chuyển trong xe có nắp đậy. Có 53,4% bệnh viện có nơi lưu giữ chất thải có mái che, trong đó có 45,3% đạt yêu cầu theo quy chế quản lý chất thải y tế. Nguồn: Kết quả khảo sát 834 bệnh viện của Viện Y học Lao động và Vệ sinh Môi trường năm 2006 và báo cáo của các Sở Y tế từ các địa phương từ 2007-2009 Các yêu cầu theo quy chế quản lý CTYT Tỷ lệ tuân thủ (%) Túi đựng chất thải đúng quy cách về bề dày và dung tích 66,67 Túi đựng chất thải đúng quy cách về màu sắc 30,67 Túi đựng chất thải đúng quy cách về buộc đóng gói 81,33 Hộp đựng vật sắc nhọn đúng quy cách 93,9 Thùng đựng có nắp đậy 58,33 Thùng đựng có ghi nhãn 66,67 Hộp đựng vật sắc nhọn đúng quy cách 93,9 Bảng 5.4. Hiện trạng thu gom, phân loại chất thải y tế tại các bệnh viện trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2010 Nguồn: Số liệu thống kê trung bình của Sở Y tế từ kết quả khảo sát 74 bệnh viện Hà Nội năm 2009-2010 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 88 Phương tiện thu gom chất thải còn thiếu và chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt tiêu chuẩn. Nguyên nhân do có rất ít nhà sản xuất quan tâm đến mặt hàng này, do vậy mua sắm phương tiện thu gom CTR đúng tiêu chuẩn của các bệnh viện gặp khó khăn. Theo báo cáo của JICA (2011), các cơ sở y tế của 5 thành phố điển hình là Hải Phòng, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các bệnh viện sử dụng thùng nhựa có bánh xe, xe tay, các dụng cụ vận chuyển bằng tay khác. Một số khu vực lưu trữ CTR trước khi xử lý tại chỗ hoặc tại các khu vực xử lý bên ngoài được trang bị điều hoà và hệ thống thông gió theo Quy định. Nhìn chung các phương tiện vận chuyển chất thải y tế còn thiếu, đặc biệt là các xe chuyên dụng. Hoạt động vận chuyển chất thải y tế nguy hại từ bệnh viện, cơ sở y tế đến nơi xử lý, chôn lấp hầu hết do Công ty môi trường đô thị đảm nhiệm, không có các trang thiết bị đảm bảo cho quá trình vận chuyển được an toàn. Các phương thức chuyên chở và vận chuyển CTR y tế tại một số bệnh viện Bảng 5.5.Thực trạng các trang thiết bị thu gom lưu giữ CTR y tế tại một số thành phố Nguồn: Nghiên cứu Quản lý môi trường đô thị tại Việt Nam - Tập 6. Nghiên cứu về quản lý CTR ở Việt Nam, JICA, tháng 5 - 2011. Loại đô thị Thành phố Số lượng đơn vị trả lời phiếu điều tra Dụng cụ thu gom tại chỗ Lưu trữ chất thải Xe tay Thùng có bánh xe Khác Có điều hoà và thông gió Không có điều hoà và thông gió Phòng chung Không có khu lưu trữ Đô thị loại đặc biệt Hà Nội 61 32 25 15 24 13 15 9 Tp.HCM 51 30 27 7 38 11 1 1 Đô thị loại I Đà Nẵng 20 9 5 6 2 13 2 3 Hải Phòng 17 2 4 11 1 3 8 5 Huế 23 1 14 0 1 5 5 12 Tổng 172 74 75 39 66 45 31 30 Chương 5: Chất thải rắn y tế 89 5.4. XỬ LÝ VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ THÔNG THƯỜNG CTR y tế không nguy hại ở hầu hết các tỉnh, thành phố đều do Công ty môi trường đô thị thu gom, vận chuyển và được xử lý tại các khu xử lý CTR tập trung của địa phương. Hoạt động thu hồi và tái chế CTR y tế tại Việt Nam hiện đang thực hiện không theo đúng quy chế quản lý CTR y tế đã ban hành. Chưa có các cơ sở chính thống thực hiện các hoạt động thu mua và tái chế các loại chất thải từ hoạt động y tế ở Việt Nam. Quy chế Quản lý chất thải y tế (2007) đã bổ sung nội dung tái chế CTR y tế không nguy hại làm căn cứ để các cơ sở y tế thực hiện. Tuy nhiên, nhiều địa phương chưa có cơ sở tái chế, do vậy việc quản lý tái chế các CTR y tế không nguy hại còn gặp nhiều khó khăn. Một số vật liệu từ chất thải bệnh viện như: chai dịch truyền chứa dung dịch huyết thanh ngọt (đường glucose 5%, 20%), huyết thanh mặn (NaCl 0,9%), các dung dịch acide amine, các loại muối khác; các loại bao gói nilon và một số chất nhựa khác; một số vật liệu giấy, thuỷ tinh hoàn toàn không có yếu tố nguy hại, có thể tái chế để hạn chế việc thiêu đốt chất thải gây ô nhiễm. Năm 2010, đã phát hiện nhiều hiện tượng đưa CTR y tế ra ngoài bán, tái chế trái phép thành các vật dụng thường ngày. Việc tái sử dụng các găng tay cao su, các vật liệu nhựa đã và đang tạo ra nhiều rủi ro cho những người trực tiếp tham gia như các nhân viên thu gom, những người thu mua và những người tái chế phế liệu. Tái chế và tái sử dụng găng tay khám bệnh để bán Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 90 5.5. CHẤT THẢI Y TẾ NGUY HẠI 5.5.1. Phát sinh chất thải y tế nguy hại Trong CTR y tế, thành phần đáng quan tâm nhất là dạng CTNH, do nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh và hóa chất độc cho con người. Lượng CTNH y tế phát sinh không đồng đều tại các địa phương, chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn. Xét theo 7 vùng kinh tế trong cả nước (trong đó vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc Bắc Bộ được gộp chung vào 1 vùng), vùng Đông Nam Bộ phát sinh lượng thải nguy hại lớn nhất trong cả nước (32%), với tổng lượng thải là 10.502,8 tấn/năm, tiếp đến là vùng Đồng bằng sông Hồng (chiếm 21%). Các tỉnh có mức thải CTNH lớn (> 500 tấn/năm) tính trong cả nước theo thứ tự như sau: Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Thừa Thiên Huế, An Giang, Cần Thơ, Nghệ An, Phú Thọ, Hải Phòng, Long An. Lượng CTNH y tế phát sinh khác nhau giữa các loại cơ sở y tế khác nhau. Các nghiên cứu cho thấy các bệnh viện tuyến trung ương và tại các thành phố lớn có tỷ lệ phát sinh CTNH y tế cao nhất. Tính trong 36 bệnh viện thuộc Bộ Y tế, tổng lượng CTNH y tế cần được xử lý trong 1 ngày là 5.122 kg, chiếm 16,2% tổng lượng CTR y tế. Trong đó, lượng CTNH y tế tính trung bình theo giường bệnh là 0,25 kg/ giường/ngày. Chỉ có 4 bệnh viện có chất thải phóng xạ là bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế, bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên và Bệnh viện K. Các phương pháp xử lý đặc biệt đối với CTNH y tế đắt hơn rất nhiều so với các CTR sinh hoạt, do vậy đòi hỏi việc phân loại chất thải phải đạt hiệu quả và chính xác. Theo số liệu điều tra của Cục Khám chữa bệnh - Bộ Y tế và Viện Kiến trúc, Quy hoạch Biểu đồ 5.4. Mức độ phát sinh CTNH y tế theo các vùng kinh tế Nguồn: Cục Khám chữa bệnh, Bộ Y tế; Viện Kiến trúc, Quy hoạch đô thị và nông thôn, Bộ Xây dựng, 2010 Loại bệnh viện Năm 2005 Năm 2010 Bệnh viện đa khoa TW 0,35 0,42 Bệnh viện chuyên khoa TW 0,23-0,29 0,28-0,35 Bệnh viện đa khoa tỉnh 0,29 0,35 Bệnh viện chuyên khoa tỉnh 0,17-0

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbao_cao_moi_truong_quoc_gia_2011_chat_thai_ran.pdf